“Những câu chuyện thú vị quá, nhưng tớ muốn nghe thêm các ví dụ ở Việt Nam về những thứ ‘đẹp’, nhưng lại không tốt.”
“Chuyện này đang xảy ra hằng ngày quanh ta này. Những sản phẩm tự nhiên mà mình dùng nhiều nhất trong cuộc sống là hoa và rau quả, đúng không? Nhưng cậu có biết chúng ta đang phải trả giá thế nào để con mắt ta hài lòng không? Ví dụ, để quả sầu riêng có da xanh bắt mắt và tròn trái, khiến người tiêu dùng thấy ‘đẹp’ và muốn xuống tiền, người ta dùng tới ba, bốn loại hóa chất và thuốc trừ sâu khác nhau. Ở huyện Mê Linh, Hà Nội, nông dân trồng hoa hồng sử dụng lượng thuốc trừ sâu gấp bốn lần trung bình toàn quốc. Vnexpress dẫn lời một nông dân: ‘rét 10 độ C, chỉ cần dùng tăm bông chấm một tí thuốc hóa chất, bông hoa thâm sì qua một đêm lại tươi rói’. Và ‘dùng loại thuốc ấy, chuột cũng không dám bén mảng đến chân ruộng’. Sau vài năm thì ‘đất tái đi, cháy một lượt vàng khè ở trên, từ nâu chuyển sang vàng, không tơi; đóng đinh vào, chắc nịch, nước chảy đến đâu trôi đến đấy, ráo nước là đất cũng khô cong’, nên người ta phải thay đất.
Các quốc gia phát triển lại có vấn đề khác. Thị hiếu ưa hoa quả bóng bẩy đều đặn, được nuôi dưỡng bởi các quảng cáo hào nhoáng, khiến nông dân, các siêu thị, nhà hàng và người tiêu dùng đang bỏ đi vô cùng nhiều hoa quả và rau cỏ được coi là xấu, như là cà chua méo mó, dưa chuột cong queo, hay cà rốt tẽ làm hai ba nhánh. Riêng ở Anh, một phần tư số lượng táo, một phần năm số lượng hành và một phần bảy số lượng khoai tây bị bỏ đi vì chúng không ‘đạt thẩm mĩ’.”
“Một lần nữa, các chuẩn đẹp của ta, tưởng chừng vô hại, có thể tác động rất tiêu cực tới thế giới”, Tò Mò nhận xét.
“Từ khoảng một thập kỉ nay, phong trào Thực phẩm xấu xí được phát động ở phương Tây để khắc phục tình trạng này. Nghệ sĩ Đức Uli Westphal chuyên chụp rau và hoa quả có hình dạng không đều đặn, thách thức quan điểm của ta về cái đẹp và khiến chúng ta phải suy nghĩ. [...]”
“Tớ hi vọng một ngày nào đó những hoa quả và rau củ méo mó này mới được coi là đẹp, bởi chúng là sản phẩm của nông nghiệp tự nhiên, thiếu vắng sự can thiệp của biến đổi gen và của hóa chất. Chúng ta cũng đang dần coi lá rau lỗ chỗ vì sâu ăn là hiện thân của vẻ đẹp tự nhiên, lành mạnh, chứ không phải lá rau cứ xanh mướt láng bóng cả lên.”
“Chuyện này cũng gần gũi với chúng ta và cũng rất quan trọng này. Cậu có để ý thấy ở ta các thảm cỏ lớn và mịn đang ngày càng thịnh hành không?”
“Chúng đã trở thành một đặc điểm không thể thiếu của các resort”, Tò Mò xác nhận. “Và hiển nhiên các sân golf trập trùng lên xuống cũng được coi là thật đẹp.”
“Đây là một ví dụ cho thấy thị hiếu có thể thay đổi nhanh chóng như thế nào. Vào thế kỉ 18, các thảm cỏ lớn bắt đầu được quý tộc Pháp và Anh đưa vào các khuôn viên lâu đài của mình, ví dụ như ở Cung điện Versailles. Mốt này được giới thượng lưu Mỹ bắt chước và tới cuối thế kỉ 19, thị hiếu thảm cỏ bắt đầu phổ biến ở đó. Sau Chiến tranh thế giới thứ II, kinh tế bùng nổ cùng chủ nghĩa tiêu dùng. Cùng xe hơi, máy giặt và tủ lạnh, một thảm cỏ trước nhà hoàn hảo, không cỏ dại, không mấp mô, không lá rụng, không côn trùng, đều chằn chặn, mượt, mịn, nghĩa là một diện tích độc canh nghèo nàn và chết chóc dưới góc độ sinh học, trở thành mục tiêu sở hữu và niềm tự hào của dân trung lưu Mỹ. Các công ty bán máy cắt cỏ, phân bón và thuốc trừ sâu xoa tay hài lòng. Họ ủng hộ hết mình gu thẩm mĩ mới, trong đó thiên nhiên bị nhân tạo hóa ở mức tối đa, thiên nhiên vẫn là thiên nhiên nhưng lại không được phép trông như thiên nhiên, mà phải thể hiện rõ có sự khống chế, can thiệp của con người. Trong thế giới của chỉn chu và đều tăm tắp này, một bãi cỏ lô nhô sẽ khiến hàng xóm khó chịu như ta là kẻ phá bĩnh, vô trách nhiệm hoặc như tác giả Ted Steinberg viết, là kẻ thối mồm. Nhiều nơi ở Mỹ quy định phạt người để cỏ trong vườn nhà mình cao quá một mức nhất định. Người ta thậm chí lén vào vườn cắt cỏ hộ cho hàng xóm ‘vô kỉ luật’ khi những người này đi nghỉ.
Không thể không nhắc tới vai trò của môn golf. Bắt đầu từ thập kỉ 1950, golf ngày càng được ưa thích và với công nghệ phát triển, chất lượng thảm cỏ của các sân golf ngày càng được cải tiến. Năm 1967, lần đầu giải golf The Masters được truyền hình trực tiếp trên ti vi màu. Hàng triệu người Mỹ tận mắt nhìn thấy thảm cỏ xanh mướt hoàn hảo nghĩa là như thế nào, và quyết tâm biến mảnh vườn trước nhà thành như vậy. Một thảm cỏ như trên ti vi trở thành một biểu tượng của lối sống và giấc mơ Mỹ, bất chấp những chi phí về năng lượng, tiền bạc và sinh thái.
Ở Mỹ, gần 60 triệu thảm cỏ của nhà dân và 16 nghìn sân golf có tổng diện tích tương đương một nửa diện tích Việt Nam, và chúng ngốn một lượng nước, phân bón và thuốc trừ sâu khổng lồ. Cả nửa thế kỉ nay, nước Mỹ ở trong cuộc chiến với cỏ dại. Người Mỹ dùng 34 tỉ lít nước mỗi ngày cho các thảm cỏ của họ. Hằng năm, 7 triệu con chim bị thuốc trừ sâu giết chết, 65 triệu lít xăng được đổ vào các máy cắt cỏ, và 75 nghìn người bị thương tích trong khi sử dụng máy. Ở những vùng khô cằn, lượng nước dùng cho bên ngoài nhà chiếm 60 phần trăm tổng nước dùng cho sinh hoạt. Oái oăm thay, người ta không muốn cỏ mọc đủ cao để ra hạt, nhưng lại tích cực tưới nước và bón phân để nó không héo. Người ta không muốn cỏ chết nhưng cũng không muốn nó sinh sản. Người ta giữ cỏ tự nhiên ở mức độ nhân tạo nhất có thể. Năm qua, ngành công nghiệp chăm sóc thảm cỏ ở Mỹ có doanh thu 50 tỉ USD, lớn gần gấp đôi ngành phẫu thuật thẩm mĩ.
Vào cuối thế kỉ 20, thị hiếu thảm cỏ này lan rộng. Giờ đây, thảm cỏ phổ biến kể cả ở những vùng khô cằn nhất, như các quốc gia vùng Vịnh hay các resort ở miền Trung Việt Nam, nó đã trở thành một hình ảnh đặc trưng của toàn cầu hóa.”
“Với nhiều người Việt, thảm cỏ nhẵn nhụi đã trở thành vẻ đẹp của đẳng cấp, văn minh, sang trọng. Nhiều sân golf xóa sổ các sinh cảnh phong phú, những khu bảo tồn, hoặc được làm ở những vùng mà người dân còn đang chật vật để có nước cho sinh hoạt và nông nghiệp, nhưng hầu như không có sự phản đối trong xã hội.”
“Đúng rồi, nhiều người sẽ thích một thảm cỏ rộng được tỉa tót và không côn trùng, hơn là một khu rừng rậm hay ao hồ hoang.”
- Phần thứ nhất (từ đầu đến nhưng lại không tốt”): nêu vấn đề (những thứ ‘đẹp’, nhưng lại không tốt).
- Phần thứ hai (còn lại): giải quyết vấn đề.
+ Thị hiếu ưa hoa quả có vẻ bề ngoài đẹp mắt (từ “Chuyện này đang xảy ra hằng ngày đến láng bóng cả lên”)
+ Thị hiếu thảm cỏ (còn lại).
(+ Nghị luận: Toàn bộ văn bản bàn về thị hiếu ưa sử dụng những thứ ‘đẹp’, nhưng lại không tốt của con người.
+ Tự sự: thể hiện qua các câu chuyện, sự việc xoay quanh thị hiếu ưa hoa quả bóng bẩy hay thị hiếu thảm cỏ ở Việt Nam và nước ngoài. Chẳng hạn như: chuyện nông dân ở Mê Linh dùng hoá chất và thuốc trừ sâu khi trồng hoa; chuyện một phần táo ở Anh bị loại vì không “đạt thẩm mĩ”, chuyện trồng cỏ của người Mĩ,...
+ Biểu cảm: bộc lộ tình cảm, thái độ của người viết đối với vấn đề nghị luận. Chẳng hạn:
• Người viết thể hiện một thái độ không đồng tình với thói quen và lo ngại trước thị hiếu ưa sử dụng hoa quả đẹp mắt của phần đông người sử dụng hiện nay. Tác giả cũng thể hiện niềm hi vọng thói quen này dần thay đổi trong tương lai: Tớ hi vọng một ngày nào đó những hoa quả và rau củ méo mó này mới được coi là đẹp, bởi chúng là sản phẩm của nông nghiệp tự nhiên...
• Người viết thể hiện thái độ bất bình, phẫn nộ trước hệ luỵ nghiêm trọng từ thị hiếu thảm cỏ ở Mỹ: Hằng năm, 7 triệu con chim bị thuốc trừ sâu giết chết, 65 triệu lít xăng được đổ vào các máy cắt cỏ, và 75 nghìn người bị thương tích trong khi sử dụng máy. (Những con số này hẳn không chỉ mang ý nghĩa thông tin!)
• ...
+ Miêu tả: thể hiện qua một số chi tiết miêu tả đối tượng (hoa quả, thảm cỏ). Chẳng hạn:
• quả sầu riêng có da xanh bắt mắt và tròn trái
• ‘rét 10 độ C, chỉ cần dùng tăm bông chấm một tí thuốc hóa chất, bông hoa thâm sì qua một đêm lại tươi rói’
• ‘đất tái đi, cháy một lượt vàng khè ở trên, từ nâu chuyển sang vàng, không tơi; đóng đinh vào, chắc nịch, nước chảy đến đâu trôi đến đấy, ráo nước là đất cũng khô cong’
• cà chua méo mó, dưa chuột cong queo, hay cà rốt tẽ làm hai ba nhánh
• một thảm cỏ trước nhà hoàn hảo, không cỏ dại, không mấp mô, không lá rụng, không côn trùng, đều chằn chặn, mượt, mịn
• thảm cỏ xanh mướt hoàn hảo
• ...
+ Thuyết minh: thể hiện qua những thông tin, dữ liệu được sử dụng để minh chứng cho vấn đề nghị luận. Chẳng hạn:
• Người Mỹ dùng 34 tỉ lít nước mỗi ngày cho các thảm cỏ của họ. Hằng năm, 7 triệu con chim bị thuốc trừ sâu giết chết, 65 triệu lít xăng được đổ vào các máy cắt cỏ, và 75 nghìn người bị thương tích trong khi sử dụng máy.
• Năm qua, ngành công nghiệp chăm sóc thảm cỏ ở Mỹ có doanh thu 50 tỉ USD, lớn gần gấp đôi ngành phẫu thuật thẩm mĩ.)
- Tác dụng của sự kết hợp các phương thức biểu đạt trong văn bản:
• Mỗi phương thức biểu đạt được sử dụng trong văn bản đều phát huy sức mạnh của riêng nó:
o Nghị luận: giúp người viết đưa ra ý kiến, quan điểm của bản thân về những thứ ‘đẹp’, nhưng lại không tốt.
o Tự sự: những câu chuyện, sự việc được kể đều là chuyện, việc có thật nên chúng không chỉ cho thấy hiểu biết phong phú của tác giả về vấn đề nghị luận mà còn giúp văn bản nghị luận thêm thuyết phục.
o Biểu cảm: giúp người viết bộc lộ tình cảm, thái độ về những thứ ‘đẹp’, nhưng lại không tốt.
o Miêu tả: giúp các đối tượng (được sử dụng làm minh chứng cho vấn đề nghị luận như hoa quả, cỏ) hiện lên một cách cụ thể, sinh động, rõ nét.
o Thuyết minh: các dữ liệu, thông tin được sử dụng trong văn bản góp phần gia tăng tính thuyết phục cho văn bản.
• Sự kết hợp giữa các phương thức biểu đạt mang lại sức hấp dẫn, thuyết phục cho văn bản; tác động mạnh mẽ đến nhận thức, cảm xúc của người đọc.
(- Phân tích: nguyên do con người phải trả giá đắt cho việc phải sử dụng những thứ không “tốt” chính là thị hiếu/ sở thích những thứ đẹp (thích hoa quả bắt mắt, bóng bẩy, đều đặn, thích những thảm cỏ lớn và mịn,...).
- Chứng minh: chứng minh về những thứ ‘đẹp’, nhưng lại không tốt bằng rất nhiều ví dụ minh hoạ/ dẫn chứng qua hai thị hiếu (thị hiếu sử dụng hoa quả đẹp mắt và thị hiếu thảm cỏ).
- Bình luận: đưa ra ý kiến bàn bạc, nhận xét, đánh giá về những thứ ‘đẹp’, nhưng lại không tốt. Chẳng hạn:
+ Chuyện này đang xảy ra hằng ngày quanh ta này. ⟶ Đánh giá về tần suất, mức độ phổ biến của những thứ ‘đẹp’, nhưng lại không tốt trong thực tế đời sống.
+ Các quốc gia phát triển lại có vấn đề khác. ⟶ Sự nhìn nhận về vấn đề nghị luận (những thứ ‘đẹp’, nhưng lại không tốt) ở các nước phát triển, ngầm ý khẳng định: các nước phát triển cũng xảy ra vấn đề tương tự, song ở bình diện khác.
+ ...
- Bác bỏ: thao tác lập luận bác bỏ được sử dụng trong toàn văn bản. Toàn bộ văn bản ngầm phản biện lại tư duy quen thuộc lâu nay của hầu hết chúng ta: đẹp là tốt. Đặng Hoàng Giang bác bỏ lại quan điểm này bằng việc chứng minh những thứ ‘đẹp’, nhưng lại không tốt qua rất nhiều việc, ở rất nhiều nơi.)
- Luận đề: những thứ ‘đẹp’, nhưng lại không tốt.
- Luận điểm:
+ Luận điểm 1: Những thứ ‘đẹp’, nhưng lại không tốt trong chính chuyện đang xảy ra hằng ngày quanh ta (việc sử dụng hoa và rau quả thường ngày)
• Dẫn chứng:
o Ở Việt Nam: quả sầu riêng; chuyện trồng hoa ở Mê Linh.
o Ở các quốc gia phát triển: nông dân, các siêu thị, nhà hàng và người tiêu dùng đang bỏ đi vô cùng nhiều hoa quả và rau cỏ được coi là xấu; một phần táo ở Anh bị loại vì không “đạt thẩm mĩ”.
• Lí lẽ: Lí giải cơ chế tồn tại của những thứ ‘đẹp’, nhưng lại không tốt. Sở dĩ những thứ ‘đẹp’, nhưng lại không tốt rất phổ biến trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta là do tâm lí thấy ‘đẹp’ và muốn xuống tiền, ưa hoa quả bóng bẩy đều đặn của nhiều người tiêu dùng.
• Ý kiến:
o Về mức độ phổ biến của những thứ ‘đẹp’, nhưng lại không tốt: Chuyện này đang xảy ra hằng ngày quanh ta này.
o Bày tỏ sự hi vọng sự thay đổi trong thói quen sử dụng sản phẩm nông nghiệp tự nhiên trong tương lai.
o ...
+ Luận điểm 2: Những thứ ‘đẹp’, nhưng lại không tốt ở một thị hiếu mới nổi, đang thịnh hành (thị hiếu thảm cỏ)
• Dẫn chứng: thị hiếu thảm cỏ lớn và mịn
o Ở Pháp, Anh, Mỹ
o Ở Việt Nam
• Lí lẽ:
o Người viết lí giải thị hiếu thảm cỏ ở Mỹ bằng:
▪ sự bắt chước giới quý tộc Pháp và Anh của giới thượng lưu Mỹ (thế kỉ 19)
▪ sự phát triển của chủ nghĩa tiêu dùng Mỹ trong giới trung lưu của nước này (từ sau Thế chiến II)
▪ sự phát triển của môn golf.
o Lí giải sự xuất hiện và phổ biến của các thảm cỏ ở Việt Nam, kể cả ở những vùng khô cằn nhất như miền Trung Việt Nam bằng sự lan rộng của thị hiếu thảm cỏ và sự xuất hiện của các sân golf (Nhiều sân golf xóa sổ các sinh cảnh phong phú, những khu bảo tồn).
• Ý kiến:
o Về quan điểm thẩm mĩ của người Mĩ trong thị hiếu thảm cỏ: Họ ủng hộ hết mình gu thẩm mĩ mới, trong đó thiên nhiên bị nhân tạo hóa ở mức tối đa, thiên nhiên vẫn là thiên nhiên nhưng lại không được phép trông như thiên nhiên, mà phải thể hiện rõ có sự khống chế, can thiệp của con người.
o Về quan điểm thẩm mĩ của nhiều người Việt Nam trong thị hiếu thảm cỏ: Với nhiều người Việt, thảm cỏ nhẵn nhụi đã trở thành vẻ đẹp của đẳng cấp, văn minh, sang trọng.
o Về sở thích thiên nhiên nhân tao ở một số người: nhiều người sẽ thích một thảm cỏ rộng được tỉa tót và không côn trùng, hơn là một khu rừng rậm hay ao hồ hoang
o ...
Thí sinh lựa chọn và nêu đúng một câu khẳng định và một câu phủ định trong văn bản. Chẳng hạn:
- Câu khẳng định:
+ Ở huyện Mê Linh, Hà Nội, nông dân trồng hoa hồng sử dụng lượng thuốc trừ sâu gấp bốn lần trung bình toàn quốc.
+ Các quốc gia phát triển lại có vấn đề khác.
+ Chuyện này cũng gần gũi với chúng ta và cũng rất quan trọng này.
+ Vào thế kỉ 18, các thảm cỏ lớn bắt đầu được quý tộc Pháp và Anh đưa vào các khuôn viên lâu đài của mình, ví dụ như ở Cung điện Versailles.
+ Không thể không nhắc tới vai trò của môn golf.
+ ...
- Câu phủ định:
+ Và ‘dùng loại thuốc ấy, chuột cũng không dám bén mảng đến chân ruộng’.
+ Cùng xe hơi, máy giặt và tủ lạnh, một thảm cỏ trước nhà hoàn hảo, không cỏ dại, không mấp mô, không lá rụng, không côn trùng, đều chằn chặn, mượt, mịn, nghĩa là một diện tích độc canh nghèo nàn và chết chóc dưới góc độ sinh học, trở thành mục tiêu sở hữu và niềm tự hào của dân trung lưu Mỹ.
+ Oái oăm thay, người ta không muốn cỏ mọc đủ cao để ra hạt, nhưng lại tích cực tưới nước và bón phân để nó không héo.
+ Người ta không muốn cỏ chết nhưng cũng không muốn nó sinh sản.
+ ...
+ Luận đề: có những thứ ‘đẹp’, nhưng lại không tốt.
+ Luận điểm: Những thứ ‘đẹp’, nhưng lại không tốt trong chính chuyện đang xảy ra hằng ngày quanh ta (việc sử dụng hoa và rau quả thường ngày)
• Dẫn chứng:
o Ở Việt Nam: quả sầu riêng; chuyện trồng hoa ở Mê Linh.
o Ở các quốc gia phát triển: nông dân, các siêu thị, nhà hàng và người tiêu dùng đang bỏ đi vô cùng nhiều hoa quả và rau cỏ được coi là xấu; một phần táo ở Anh bị loại vì không “đạt thẩm mĩ”.
• Lí lẽ: Lí giải cơ chế tồn tại của những thứ ‘đẹp’, nhưng lại không tốt. Sở dĩ những thứ ‘đẹp’, nhưng lại không tốt rất phổ biến trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta là do tâm lí thấy ‘đẹp’ và muốn xuống tiền, ưa hoa quả bóng bẩy đều đặn của nhiều người tiêu dùng.
⟶ Các lí lẽ, dẫn chứng đã tập trung làm rõ cho luận điểm; luận điểm làm rõ cho luận đề. Tất cả đều thống nhất, phù hợp với nhau.
- Tác dụng của sự phù hợp giữa lí lẽ và bằng chứng; giữa lí lẽ với luận điểm; giữa luận điểm và luận đề trong văn bản: tạo nên tính chặt chẽ, lô gích, thuyết phục cho lập luận.
- Chuyện này (những thứ ‘đẹp’, nhưng lại không tốt) đang xảy ra hằng ngày quanh ta này.
- các chuẩn đẹp của ta, tưởng chừng vô hại, có thể tác động rất tiêu cực tới thế giới
- Tớ hi vọng một ngày nào đó những hoa quả và rau củ méo mó này mới được coi là đẹp, bởi chúng là sản phẩm của nông nghiệp tự nhiên, thiếu vắng sự can thiệp của biến đổi gen và của hóa chất. Chúng ta cũng đang dần coi lá rau lỗ chỗ vì sâu ăn là hiện thân của vẻ đẹp tự nhiên, lành mạnh, chứ không phải lá rau cứ xanh mướt láng bóng cả lên.
- ...
+ Bằng chứng khách quan (dẫn chứng):
• Ở các quốc gia phát triển, nông dân, các siêu thị, nhà hàng và người tiêu dùng đang bỏ đi vô cùng nhiều hoa quả và rau cỏ được coi là xấu, như là cà chua méo mó, dưa chuột cong queo, hay cà rốt tẽ làm hai ba nhánh.
• Ở Anh, một phần tư số lượng táo, một phần năm số lượng hành và một phần bảy số lượng khoai tây bị bỏ đi vì chúng không ‘đạt thẩm mĩ’.
+ Ý kiến đánh giá chủ quan: Các quốc gia phát triển lại có vấn đề khác. Thị hiếu ưa hoa quả bóng bẩy đều đặn, được nuôi dưỡng bởi các quảng cáo hào nhoáng là nguyên nhân (khiến) dẫn đến việc tẩy chay các rau củ quả xấu.
- Tác dụng:
+ Ý kiến đánh giá chủ quan được nêu ra để thể hiện quan điểm, góc nhìn của người viết.
+ Bằng chứng được sử dụng để làm sáng tỏ cho ý kiến của người viết.
+ Sự kết hợp giữa ý kiến đánh giá chủ quan và bằng chứng khách quan tạo nên một lập luận chặt chẽ, thuyết phục cho đoạn văn, khiến người đọc tin theo, đồng tình với ý kiến của người viết.
+ Phân tích: nguyên do con người phải trả giá đắt cho việc phải sử dụng những thứ không “tốt” chính là thị hiếu/ sở thích những thứ đẹp (thích hoa quả bắt mắt, bóng bẩy, đều đặn, thích những thảm cỏ lớn và mịn,...).
+ Chứng minh: chứng minh về những thứ ‘đẹp’, nhưng lại không tốt bằng rất nhiều ví dụ minh hoạ/ dẫn chứng qua hai thị hiếu (thị hiếu sử dụng hoa quả đẹp mắt và thị hiếu thảm cỏ).
+ Bình luận: đưa ra ý kiến bàn bạc, nhận xét, đánh giá về những thứ ‘đẹp’, nhưng lại không tốt. Chẳng hạn:
• Chuyện này đang xảy ra hằng ngày quanh ta này. ⟶ Đánh giá về tần suất, mức độ phổ biến của những thứ ‘đẹp’, nhưng lại không tốt trong thực tế đời sống.
• Các quốc gia phát triển lại có vấn đề khác. ⟶ Sự nhìn nhận về vấn đề nghị luận (những thứ ‘đẹp’, nhưng lại không tốt) ở các nước phát triển, ngầm ý khẳng định: các nước phát triển cũng xảy ra vấn đề tương tự, song ở bình diện khác.
• ...
+ Bác bỏ: thao tác lập luận bác bỏ được sử dụng trong toàn văn bản. Toàn bộ văn bản ngầm phản biện lại tư duy quen thuộc lâu nay của hầu hết chúng ta: đẹp là tốt. Đặng Hoàng Giang bác bỏ lại quan điểm này bằng việc chứng minh những thứ ‘đẹp’, nhưng lại không tốt qua rất nhiều việc, ở rất nhiều nơi.
- Thí sinh lựa chọn một thao tác lập luận bất kì để phân tích tác dụng. Chẳng hạn:
+ Để chứng minh cho những thứ ‘đẹp’, nhưng lại không tốt trong việc sử dụng các sản phẩm tự nhiên (rau củ quả) hằng ngày, tác giả đã nêu dẫn chứng cả ở Việt Nam và các nước phát triển, trong đó có Anh, dẫn chứng gồm có cả hoa, củ, quả.
+ Cách nêu dẫn chứng như vậy khá toàn diện và nó không chỉ gia tăng sức thuyết phục cho lập luận mà còn thể hiện cái nhìn bao quát, sự am hiểu của người viết về vấn đề nghị luận, cung cấp cho người đọc những hiểu biết phong phú, thú vị về vấn đề.
+ Tạo nên một hệ thống lập luận hợp lí, thuyết phục về vấn đề nghị luận (những thứ ‘đẹp’, nhưng lại không tốt); từ đó khơi gợi sự đồng tình của người đọc.
+ Góp phần thể hiện tư tưởng của người viết về vấn đề bàn luận: phê phán thị hiếu ưa chuộng những thứ ‘đẹp’, nhưng lại không tốt của con người; cảnh báo hệ luỵ của thị hiếu này đối với vấn đề sức khoẻ của con người và môi trường tự nhiên.
+ Thể hiện nhãn quan sắc bén, tư duy lí trí sắc sảo cùng trách nhiệm xã hội lớn lao của tác giả Đặng Hoàng Giang.
- Câu khẳng định: Ở huyện Mê Linh, Hà Nội, nông dân trồng hoa hồng sử dụng lượng thuốc trừ sâu gấp bốn lần trung bình toàn quốc.
⟶ Tác dụng: Thông tin về việc lạm dụng thuốc trừ sâu của nông dân trồng hoa ở Mê Linh, từ đó chứng minh cho việc để tạo ra cái đẹp (hoa không bị sâu cắn), người ta đã dùng thuốc trừ sâu nhiều như thế nào.
- Câu phủ định: Và ‘dùng loại thuốc ấy, chuột cũng không dám bén mảng đến chân ruộng’.
⟶ Tác dụng: Nhấn mạnh mức độ nguy hại của thuốc hoá chất làm hoa tươi rói giữa mùa đông giá rét; từ đó cảnh báo người đọc về tác hại ghê gớm của thuốc hoá chất trong việc tạo ra cái đẹp (hoa).
“Oái oăm thay, người ta không muốn cỏ mọc đủ cao để ra hạt, nhưng lại tích cực tưới nước và bón phân để nó không héo. Người ta không muốn cỏ chết nhưng cũng không muốn nó sinh sản. Người ta giữ cỏ tự nhiên ở mức độ nhân tạo nhất có thể.”
+ Ngôn ngữ biểu cảm: thể hiện qua từ ngữ biểu đạt tình cảm, cảm xúc như oái oăm thay, qua kiểu câu ghép gồm các vế có quan hệ đối lập.
+ Giọng điệu: ngạc nhiên xen lẫn bất bình, phẫn nộ pha chút mỉa mai.
- Vai trò của ngôn ngữ biểu cảm và giọng điệu trong đoạn trích:
+ Góp phần tạo nên tính biểu cảm cho văn bản, từ đó dễ dàng khơi gợi sự đồng tình trong người đọc.
+ Giúp người viết thể hiện tình cảm, thái độ không đồng tình, thậm chí bất bình trước những hành động trái khoáy, oái oăm (của người Mĩ) trong việc trồng cỏ.
“Nhưng cậu có biết chúng ta đang phải trả giá thế nào để con mắt ta hài lòng không? Ví dụ, để quả sầu riêng có da xanh bắt mắt và tròn trái, khiến người tiêu dùng thấy ‘đẹp’ và muốn xuống tiền, người ta dùng tới ba, bốn loại hóa chất và thuốc trừ sâu khác nhau. Ở huyện Mê Linh, Hà Nội, nông dân trồng hoa hồng sử dụng lượng thuốc trừ sâu gấp bốn lần trung bình toàn quốc. Vnexpress dẫn lời một nông dân: ‘rét 10 độ C, chỉ cần dùng tăm bông chấm một tí thuốc hóa chất, bông hoa thâm sì qua một đêm lại tươi rói’. Và ‘dùng loại thuốc ấy, chuột cũng không dám bén mảng đến chân ruộng’. Sau vài năm thì ‘đất tái đi, cháy một lượt vàng khè ở trên, từ nâu chuyển sang vàng, không tơi; đóng đinh vào, chắc nịch, nước chảy đến đâu trôi đến đấy, ráo nước là đất cũng khô cong’, nên người ta phải thay đất.”
- Nỗi xót xa trong người viết trước những cái giá quá đắt được nêu ra.
- Nỗi bất bình, phẫn nộ trước việc lạm dụng hoá chất và thuốc trừ sâu của những người nông dân để có những sản phẩm đẹp mắt (sầu riêng da xanh bắt mắt, hoa hồng tươi rói).
- Cảnh báo về những hệ luỵ dai dẳng từ việc lạm dụng hoá chất và thuốc trừ sâu (nguy hại tới sức khoẻ con người: chuột cũng không dám bén mảng tới chân ruộng; đất cháy).
- Không phải cái gì đẹp cũng tốt và cái gì xấu cũng tệ.
- Việc lạm dụng hoá chất sẽ huỷ hoại con người.
- Cần thay đổi thói quen ứng xử với môi trường tự nhiên
- ...
“Các quốc gia phát triển lại có vấn đề khác. Thị hiếu ưa hoa quả bóng bẩy đều đặn, được nuôi dưỡng bởi các quảng cáo hào nhoáng, khiến nông dân, các siêu thị, nhà hàng và người tiêu dùng đang bỏ đi vô cùng nhiều hoa quả và rau cỏ được coi là xấu, như là cà chua méo mó, dưa chuột cong queo, hay cà rốt tẽ làm hai ba nhánh. Riêng ở Anh, một phần tư số lượng táo, một phần năm số lượng hành và một phần bảy số lượng khoai tây bị bỏ đi vì chúng không ‘đạt thẩm mĩ’.”
- Chi tiết ấn tượng nhất: Người Mỹ dùng 34 tỉ lít nước mỗi ngày cho các thảm cỏ của họ.
- Lí do: Con số 34 tỉ lít nước mỗi ngày gây chấn động đối với sự tiếp nhận của tôi. Đó quả là một sự lãng phí vô cùng đối với tài nguyên nước trong bối cảnh nước ngọt trên thế giới đang bị khan hiếm, thậm chí nhiều quốc gia còn rơi vào tình trạng không có nước ngọt để sinh hoạt.