Đọc văn bản:
GIỮ GÌN SỰ TRONG SÁNG CỦA TIẾNG VIỆT
TRONG BỐI CẢNH TOÀN CẦU HOÁ
(Uông Triều)
Tôi nghĩ tiếng Việt chưa bao giờ thay đổi nhanh chóng và nhiều như bây giờ. Trong thời kì quốc tế hoá, toàn cầu hoá, tiếng Việt phải chịu những áp lực lớn hoặc tự thích nghi để phù hợp với tình hình mới.
Bây giờ, gặp những thanh thiếu niên thêm những từ tiếng Anh trong những câu giao tiếp như “good”, “sexy”, “done”, “cancel”... không phải là hiếm. Những từ ấy không chỉ những người trẻ hay dùng mà đã trở thành những từ gần như cửa miệng, ít nhất là với những cư dân thành thị từ trung niên trở xuống. Thay vì nói “Em chuyển hàng cho chị lúc 5h chiều” thì một chị trung niên ở thành phố sẽ điềm nhiên bảo “Ship lúc 5h nhé”, hoặc các cô gái kể với bạn bè “Bọn mình vừa mới check in ở Mộc Châu”, “Hôm nay đi phỏng vấn viết review mà gặp nhiều drama quá”... Các câu bị tỉnh lược nhiều, giảm bớt cả thành phần và đưa những từ tiếng Anh thông dụng vào.

Không những những từ tiếng Anh phổ biến được dùng trong sinh hoạt hàng ngày, những thuật ngữ là những từ ngữ kĩ thuật, chuyên môn ví dụ như “check in sân bay”, “scan ảnh”, “ship COD”... đã được dùng rộng rãi trong các văn bản chính thức của nhiều đơn vị kinh doanh, các thực thể có tư cách pháp nhân.
Con trai tôi mới năm tuổi, trong mười câu nói, cháu đệm khoảng hai, ba từ tiếng Anh. Vì sao, vì những đứa trẻ này học ngoại ngữ từ nhỏ, gần như song song với tiếng mẹ đẻ và thậm chí có những từ tiếng Anh chúng hiểu ngữ nghĩa chuẩn hơn từ tiếng Việt. Chúng không cảm thấy tiếng Anh là ngoại ngữ như đa số những người trưởng thành học ngoại ngữ khi tiếng Việt của họ đã thành thạo, với nhiều người trẻ thế hệ mới, tiếng Anh gần như là ngôn ngữ thứ hai.
Cách đây gần hai mươi năm, khi tôi có dịp sang Nhật Bản, tôi bị sốc về một hiện tượng ngôn ngữ. Ấy là nhiều người Nhật dùng nhiều từ tiếng Anh phổ biến thay thế cho từ tiếng Nhật một cách rất tự nhiên và thoải mái trong giao tiếp hàng ngày. Rất nhiều từ tiếng Anh đã được “Nhật hoá” chứ không phải là ngoại ngữ nữa. Giống như bây giờ hầu hết người Việt có thể hiểu “stop” là dừng lại và người ta hầu như không giải thích vì nó xuất hiện ở các biển hiệu giao thông, các chỉ dẫn quen thuộc và trở thành một bộ phận của tiếng Việt. Tiếng Việt đã ở trạng thái giống như tiếng Nhật từ rất nhiều năm trước khi các ngôn ngữ nước ngoài thâm nhập sâu vào đời sống và điều này là tất yếu khi quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, cả về kinh tế, văn hoá, giáo dục cũng như số lượng người Việt thông thạo ngoại ngữ hoặc coi chúng là ngôn ngữ thứ hai ngày càng tăng lên.
Những từ ngoại lai được Việt hoá là điều không mới. Nhiều từ tiếng Pháp, ví dụ “ghi đông”, “gác ba ga”, “com plê”, “bia”... đã trở thành từ tiếng Việt cả trăm năm nay. Xa hơn nữa, rất nhiều từ tiếng Hán đã xâm nhập vào tiếng Việt hàng ngàn năm, trở thành từ Hán Việt và được coi như ngôn ngữ dân tộc, là thành tố lớn và quan trọng trong tiếng Việt. Từ Hán Việt xuất hiện và được sử dụng ở mọi nơi mọi chỗ một cách tự nhiên và không ai cảm thấy sự ngoại lai nào hết.
Như vậy sự xâm nhập từ vựng/ tiếng từ các ngôn ngữ nước ngoài vào tiếng Việt là điều bình thường và không tránh khỏi. Không có ngôn ngữ nào lại không bổ sung vốn từ vựng, ngữ nghĩa có nguồn gốc từ các ngôn ngữ khác vào kho tàng của mình, kể cả những ngôn ngữ mạnh như tiếng Anh, tiếng Pháp. Mỗi năm các nhà ngôn ngữ, các nhà làm từ điển thường đưa ra danh sách những từ ngoại lai, từ mới vào danh mục từ vựng ngôn ngữ của mình. Ngay cả tiếng Việt cũng đóng góp vào quá trình toàn cầu hoá này, ví dụ những từ như “đổi mới”, “áo dài”, “phở”... đã được coi là những từ quốc tế, không cần phải dịch nghĩa. Giống như tiếng Nhật đã đóng góp với thế giới những từ như “karaoke”, “tsunami”, tiếng Hàn là “kim chi”, “hanbok”...
Tất nhiên những từ mang tính chất quốc tế và phổ biến thì sự thâm nhập vào tiếng Việt khác là tất yếu vì tiếng Việt, hoặc là không có từ ngữ tương ứng hoặc có những khái niệm liên quan tới công nghệ, kĩ thuật có nguồn gốc nước ngoài mà nếu diễn giải ra tiếng Việt có thể gây khó hiểu, dài dòng, bất tiện, ví dụ như các từ internet, blog, check in, logistics... Thậm chí cả với những từ tiếng Việt tưởng chừng như đã rất quen thuộc nhưng khi phát sinh những tình huống mới, bối cảnh mới vẫn khiến người ta tranh luận như “trường đại học”, “viện đại học”, “đại học” khác nhau thế nào...
Thêm nữa, trong khi có những từ ngữ nước ngoài chủ yếu được thâm nhập bằng công nghệ, kinh tế thì vẫn có trường hợp lan truyền qua văn hoá và thay đổi bản chất vốn có. Cách đây mấy chục năm, một bộ phim truyền hình của Nhật Bản có tên Oshin được chiếu ở Việt Nam, nhân vật chính là một cô bé cùng tên đi làm giúp việc cho một gia đình giàu có và sau nhiều khó khăn đã trưởng thành và thành công. Bộ phim được khán giả Việt Nam rất yêu thích và hâm mộ, đặc biệt với nhân vật chính, dần dần tên nhân vật chính đã trở thành một từ trong tiếng Việt phổ thông. Chị giúp việc ở thành phố được gọi là “chị osin”, hay “cô ấy đi làm osin”, “tuyển osin”. Osin vừa là một nghề, vừa là danh từ chỉ người làm nghề ấy, đây là một ví dụ khá thú vị về sự lan truyền và thâm nhập ngôn ngữ qua điện ảnh. Nhưng ví dụ này cũng không phải duy nhất hay quá mới, đã có những trường hợp tương tự từ rất lâu đời như tên các nhân vật Sở Khanh, Tú Bà trong Truyện Kiều của Nguyễn Du - cốt truyện có nguồn gốc từ một tác phẩm của Trung Hoa cổ điển đã được Việt hoá và mang một sắc thái khác, ví dụ: “thằng ấy sở khanh lắm”, “mụ ta chính là một tú bà”...
Nhưng nói đi thì cũng phải nói lại, một ngôn ngữ bị pha tạp quá nhiều các từ ngoại lai là điều không hay và không nên. Sự trong sáng của tiếng Việt là sự uyển chuyển và thích ứng, không quá cứng nhắc nhưng cũng không dễ dãi buông tuồng. Một liều lượng thích hợp và được kiểm soát, kể cả với thói quen xã hội và các văn bản chính thức là một điều cần thiết. Thậm chí có những quốc gia, để bảo vệ sự trong sáng/ thuần khiết của tiếng mẹ đẻ/ ngôn ngữ chính thức của mình, họ đã ban hành các đạo luật để xử phạt việc sử dụng tiếng nước ngoài không đúng nơi, đúng chỗ, ví dụ trên truyền hình, trong thảo luận ở quốc hội, văn bản luật, sách giáo khoa... Nghĩa là có sự mềm dẻo trong sử dụng ngoại ngữ nhưng khi cần siết chặt thì vẫn cần những chế tài, công cụ cần thiết để bảo vệ sự thuần khiết/ trong sáng của một ngôn ngữ nào đấy.
Với tư cách là người sử dụng ngôn ngữ như công cụ làm việc (biên tập, sáng tác, đọc), tôi thấy nhiều từ tiếng Việt đã bị lãng quên nhanh chóng hoặc bị thay thế bằng những từ ít biểu cảm hơn. Nhiều nhà văn, nhất là những người trẻ hay dùng những từ quá mới hoặc ít sự tinh tế, cảm giác không thuần Việt trong cả tiếng nói và cách hành văn, câu cú ngữ pháp. Ví dụ câu “Tôi nom thấy người đàn ông áo đen đi trên đường” có thể diễn đạt thành “Tôi nhìn thấy một người đàn ông áo đen đi trên đường”. Từ “nom” bây giờ đã ít người dùng, còn từ “một” là cách diễn đạt ngôn ngữ kiểu nước ngoài, yêu cầu chính xác số từ, trong khi tiếng Việt thì không quá chú trọng đến số từ trong trường hợp tương tự nếu không cần nhấn mạnh. Tất nhiên trong so sánh kể trên, sự khác biệt giữa tiếng Việt và kiểu ngôn ngữ nước ngoài là không nhiều nhưng nếu một văn bản, một tác phẩm dày đặc kiểu văn phong này sẽ tạo ra ấn tượng tương đối lớn và cảm giác rõ nhất là không thuần Việt hoặc khiên cưỡng.
Lại nữa, một xu hướng rất đáng chú ý, cũng do sự phát triển của công nghệ và mạng xã hội tạo ra là sự tỉnh lược, biến thái của từ ngữ, câu cú tiếng Việt. Các ứng dụng trên điện thoại, máy tính, mạng xã hội giúp người ta giao tiếp với nhau dễ dàng nhanh chóng, tiết kiệm hơn nhưng chúng cũng ảnh hưởng khá nhiều đến hành vi ngôn ngữ. Vì các ứng dụng này khuyến khích sự ngắn gọn, dễ hiểu để tiết kiệm dung lượng và thời gian nên các cụm từ ngắn được sử dụng một cách tối đa, các thành phần câu bị lược bỏ, chỉ dùng những nội dung cốt lõi nhất. Cách sử dụng này có ưu điểm là nhanh chóng, thuận tiện, tiết kiệm được cả dung lượng và thời gian viết/ đọc nhưng lâu dài sẽ tạo ra những quán tính nguy hiểm. Đó là cách hành văn thiếu các thành phần, câu què, câu cụt, những từ giàu sắc thái biểu cảm ít được sử dụng hay bị quên lãng. Dần dần chỉ còn những lớp nghĩa trơ khấc, trần trụi được ưa dùng vì tính thực dụng, dễ sử dụng; nếu giữ mãi thói quen đó, tiếng Việt sẽ thành một ngôn ngữ chỉ còn cái lõi, khô cứng và đơn điệu. Nếu ai muốn thấy sự giàu có và biểu cảm của tiếng Việt, hãy về những vùng nông thôn và nói chuyện với những người phụ nữ trên sáu mươi tuổi, sẽ thấy họ dùng thứ tiếng Việt tinh tế, sinh động và uyển chuyển thế nào. Giờ đây lớp người ấy đang mất dần đi và kéo theo cả sự hao mòn, quên lãng không ít của một thứ tiếng Việt rất đẹp và sinh động.
Về mặt nào đấy, chính những nhà văn, nhà báo là những người có sứ mệnh quan trọng trong việc giữ gìn sự trong sáng, thuần chất của tiếng Việt. Tôi rất thích những tác phẩm viết bằng thứ tiếng Việt thuần thục, phong phú cùng văn phong truyền thống. Đã có những nhà văn rất ý thức việc này, họ chú ý sử dụng những từ tiếng Việt bị sao lãng hoặc có nguy cơ bị thay thế, để lưu giữ, bảo tồn và phát huy chúng. Trong sổ tay ngôn ngữ của tôi, tôi chép những từ tôi yêu thích ở một tác phẩm văn học: “ngón tay nông dân to bậm”, “sức bay được mấy nả mà vội kiêu ngạo”, “tối bưng lấy mắt”, “chiều nay thong thả, mời ông xuống xơi cơm”... Những cụm từ ấy đậm chất Việt và khả năng biểu cảm tốt hơn so với những từ thông thường. Khi nghe, đọc các nhà văn, những người dân nông thôn chất phác sử dụng những từ ấy, sẽ thấy tiếng Việt đẹp, biểu cảm, sinh động và giàu có nhường nào.
Tất nhiên như đã nói, sự biến chuyển, thay đổi của một ngôn ngữ là điều không thể tránh khỏi trong một xã hội hiện đại nơi các yếu tố toàn cầu hoá, công nghệ đang thay đổi và tác động trực tiếp đến cách sinh hoạt và vận hành xã hội. Ngôn ngữ cũng nằm trong quy luật vận động của đời sống, có cái mới được sinh ra và cũng có những thứ bị thay thế nhưng ở mặt nào đó, nếu không có sự giữ gìn, bảo tồn và điều chỉnh thì rất có thể sự giàu đẹp của một ngôn ngữ sẽ bị mất dần đi không thể cứu vãn; điều này đòi hỏi những tư duy và thiết chế cần thiết ở cấp nhà nước cũng như thái độ, suy nghĩ và hành động của mỗi cá nhân riêng biệt.
(Theo vannghequandoi.com.vn)
Thực hiện các yêu cầu:
Câu 1 [822970]: Chỉ ra đề tài của văn bản.
Đề tài của văn bản: Văn hoá (ngôn ngữ dân tộc).
Câu 2 [822972]: Nêu mục đích của văn bản.
Mục đích của văn bản: Lan toả, kêu gọi trách nhiệm giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt trong bối cảnh toàn cầu hoá.
Câu 3 [822978]: Văn bản được chia làm mấy phần? Chỉ ra nội dung chính của từng phần.
Văn bản được chia làm ba phần:
- Phần thứ nhất (từ đầu đến tình hình mới): Nêu vấn đề (tiếng Việt chưa bao giờ thay đổi nhanh chóng và nhiều như bây giờ).
- Phần thứ hai (tiếp đến rất đẹp và sinh động): Tiếng Việt trong bối cảnh toàn cầu hoá:
+ Sự xâm nhập của ngôn ngữ nước ngoài (tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Hán,...) vào tiếng Việt và các con đường thâm nhập từ ngữ nước ngoài vào tiếng Việt (bằng công nghệ, kinh tế, qua văn hoá)
+ Nhiều từ tiếng Việt đã bị lãng quên nhanh chóng hoặc bị thay thế bằng những từ ít biểu cảm, ít tinh tế
+ Sự tỉnh lược, biến thái của từ ngữ, câu cú tiếng Việt

- Phần thứ ba (còn lại): Trách nhiệm/ sứ mệnh giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt.
Câu 4 [822979]: Văn bản kết hợp các phương thức biểu đạt nào? Nêu tác dụng của sự kết hợp các phương thức biểu đạt trong văn bản.
- Văn bản kết hợp các phương thức biểu đạt: nghị luận, miêu tả, biểu cảm, tự sự.
+ Nghị luận: bàn về sự trong sáng của tiếng Việt trong bối cảnh toàn cầu hoá.
+ Tự sự: kể việc Con trai tôi mới năm tuổi, trong mười câu nói, cháu đệm khoảng hai, ba từ tiếng Anh; chuyện nhiều người Nhật dùng nhiều từ tiếng Anh phổ biến thay thế cho từ tiếng Nhật một cách rất tự nhiên và thoải mái trong giao tiếp hàng ngày; chuyện nguồn gốc từ osin trong tiếng Việt;...
+ Biểu cảm: tình yêu sâu nặng đối với tiếng Việt; lo ngại, cảnh báo hiện tượng lai tạp ngôn ngữ nước ngoài; nhận thức trách nhiệm trong việc bảo vệ, giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt;...
+ Miêu tả. Chẳng hạn:
• Miêu tả vẻ đẹp của tiếng Việt: Sự trong sáng của tiếng Việt là sự uyển chuyển và thích ứng, không quá cứng nhắc nhưng cũng không dễ dãi buông tuồng.; tiếng Việt đẹp, biểu cảm, sinh động và giàu có nhường nào.;...
• Miêu tả sự “xấu xí” của tiếng Việt khi con người duy trì thói quen giao tiếp trên điện thoại, máy tính, mạng xã hội: Dần dần chỉ còn những lớp nghĩa trơ khấc, trần trụi được ưa dùng vì tính thực dụng, dễ sử dụng; nếu giữ mãi thói quen đó, tiếng Việt sẽ thành một ngôn ngữ chỉ còn cái lõi, khô cứng và đơn điệu.
- Tác dụng của sự kết hợp các phương thức biểu đạt trong văn bản:
+ Mỗi phương thức biểu đạt thực thi một vai trò riêng trong văn bản:
• Nghị luận: giúp người viết thể hiện được quan điểm, ý kiến, sự nhìn nhận, đánh giá về vẻ đẹp của tiếng Việt trong xã hội hiện đại và trách nhiệm giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt.
• Biểu cảm: giúp người viết thể hiện được tình yêu tiếng nói dân tộc; nhận thức về sứ mệnh bảo vệ, giữ gìn vẻ đẹp của tiếng nói dân tộc.
• Tự sự: nêu lên minh chứng cụ thể, thuyết phục để chứng minh cho một số hiện tượng nổi bật gắn liền với việc sử dụng tiếng Việt hiện nay (như lạm dụng tiếng nước ngoài, tỉnh lược câu cú,...).
• Miêu tả: khắc sâu ấn tượng về vẻ đẹp của tiếng Việt; góp phần bộc lộ tình yêu tiếng Việt của người viết.
+ Sự kết hợp giữa các phương thức biểu đạt làm cho văn bản trở nên chặt chẽ, thuyết phục, sinh động, hấp dẫn hơn; khơi gợi được sự đồng điệu, chia sẻ trong tình cảm, cảm xúc và nhận thức của người đọc.
Câu 5 [822980]: Xác định phương thức biểu đạt chính của văn bản.
Xác định phương thức biểu đạt chính của văn bản: nghị luận.
Câu 6 [822984]: Văn bản kết hợp các thao tác lập luận nào?
Văn bản kết hợp các thao tác lập luận: bình luận, phân tích, chứng minh.
(- Bình luận: Bình luận về sự trong sáng của tiếng Việt trong bối cảnh toàn cầu hoá. Chẳng hạn: một ngôn ngữ bị pha tạp quá nhiều các từ ngoại lai là điều không hay và không nên.
- Phân tích. Chẳng hạn:
+ Phân tích nguyên do người trẻ thế hệ mới hay đệm từ tiếng Anh trong giao tiếp thường ngày: vì những đứa trẻ này học ngoại ngữ từ nhỏ, gần như song song với tiếng mẹ đẻ và thậm chí có những từ tiếng Anh chúng hiểu ngữ nghĩa chuẩn hơn từ tiếng Việt.
+ Phân tích nguyên do xâm nhập của các từ ngữ mang tính chất quốc tế: vì tiếng Việt, hoặc là không có từ ngữ tương ứng hoặc có những khái niệm liên quan tới công nghệ, kĩ thuật có nguồn gốc nước ngoài mà nếu diễn giải ra tiếng Việt có thể gây khó hiểu, dài dòng, bất tiện
- Chứng minh. Chẳng hạn chứng minh cho việc phổ biến tiếng Anh trong sinh hoạt thường ngày và trong các văn bản chính thức của nhiều đơn vị kinh doanh: Bây giờ, gặp những thanh thiếu niên thêm những từ tiếng Anh trong những câu giao tiếp như “good”, “sexy”, “done”, “cancel”... không phải là hiếm. (...) một chị trung niên ở thành phố sẽ điềm nhiên bảo “Ship lúc 5h nhé”, hoặc các cô gái kể với bạn bè “Bọn mình vừa mới check in ở Mộc Châu”, “Hôm nay đi phỏng vấn viết review mà gặp nhiều drama quá”...; những từ ngữ kĩ thuật, chuyên môn ví dụ như “check in sân bay”, “scan ảnh”, “ship COD”... đã được dùng rộng rãi trong các văn bản chính thức của nhiều đơn vị kinh doanh, các thực thể có tư cách pháp nhân.)
Câu 7 [822986]: Chỉ ra hệ thống luận đề, luận điểm, lí lẽ, bằng chứng, ý kiến trong văn bản.
Hệ thống luận đề, luận điểm, lí lẽ, bằng chứng, ý kiến trong văn bản.
- Luận đề: Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt trong bối cảnh toàn cầu hoá.
- Luận điểm:
+ Luận điểm 1: Hiện tượng xâm nhập của ngôn ngữ nước ngoài (tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Hán,...) vào tiếng Việt và các con đường thâm nhập từ ngữ nước ngoài vào tiếng Việt (bằng công nghệ, kinh tế, qua văn hoá)
• Lí lẽ. Chẳng hạn: vì những đứa trẻ này học ngoại ngữ từ nhỏ, gần như song song với tiếng mẹ đẻ và thậm chí có những từ tiếng Anh chúng hiểu ngữ nghĩa chuẩn hơn từ tiếng Việt;...
• Bằng chứng: trong giao tiếp sinh hoạt thường ngày (một chị trung niên ở thành phố sẽ điềm nhiên bảo “Ship lúc 5h nhé”, hoặc các cô gái kể với bạn bè “Bọn mình vừa mới check in ở Mộc Châu”, “Hôm nay đi phỏng vấn viết review mà gặp nhiều drama quá”...); trong các văn bản chính thức của nhiều đơn vị kinh doanh, các thực thể có tư cách pháp nhân (những thuật ngữ là những từ ngữ kĩ thuật, chuyên môn ví dụ như “check in sân bay”, “scan ảnh”, “ship COD”... đã được dùng rộng rãi); Con trai tôi mới năm tuổi, trong mười câu nói, cháu đệm khoảng hai, ba từ tiếng Anh.; nhiều người Nhật dùng nhiều từ tiếng Anh phổ biến thay thế cho từ tiếng Nhật một cách rất tự nhiên và thoải mái trong giao tiếp hàng ngày; Nhiều từ tiếng Pháp, ví dụ “ghi đông”, “gác ba ga”, “com plê”, “bia”... đã trở thành từ tiếng Việt cả trăm năm nay.;...
• Ý kiến. Chẳng hạn: những thanh thiếu niên thêm những từ tiếng Anh trong những câu giao tiếp như “good”, “sexy”, “done”, “cancel”... không phải là hiếm; Những từ ngoại lai được Việt hoá là điều không mới.;...
+ Luận điểm 2: Nhiều từ tiếng Việt đã bị lãng quên nhanh chóng hoặc bị thay thế bằng những từ ít biểu cảm, ít tinh tế
• Bằng chứng: Ví dụ câu “Tôi nom thấy người đàn ông áo đen đi trên đường” có thể diễn đạt thành “Tôi nhìn thấy một người đàn ông áo đen đi trên đường”.
• Lí lẽ: Từ “nom” bây giờ đã ít người dùng, còn từ “một” là cách diễn đạt ngôn ngữ kiểu nước ngoài, yêu cầu chính xác số từ, trong khi tiếng Việt thì không quá chú trọng đến số từ trong trường hợp tương tự nếu không cần nhấn mạnh.
• Ý kiến. Chẳng hạn: Nhiều nhà văn, nhất là những người trẻ hay dùng những từ quá mới hoặc ít sự tinh tế, cảm giác không thuần Việt trong cả tiếng nói và cách hành văn, câu cú ngữ pháp.
+ Luận điểm 3: Sự tỉnh lược, biến thái của từ ngữ, câu cú tiếng Việt
• Ý kiến: Các ứng dụng trên điện thoại, máy tính, mạng xã hội giúp người ta giao tiếp với nhau dễ dàng nhanh chóng, tiết kiệm hơn nhưng chúng cũng ảnh hưởng khá nhiều đến hành vi ngôn ngữ.
• Lí lẽ: Vì các ứng dụng này khuyến khích sự ngắn gọn, dễ hiểu để tiết kiệm dung lượng và thời gian nên các cụm từ ngắn được sử dụng một cách tối đa, các thành phần câu bị lược bỏ, chỉ dùng những nội dung cốt lõi nhất.
• Bằng chứng: Đó là cách hành văn thiếu các thành phần, câu què, câu cụt, những từ giàu sắc thái biểu cảm ít được sử dụng hay bị quên lãng.
Câu 8 [822987]: Chỉ ra một câu khẳng định và một câu phủ định trong văn bản.
Thí sinh chỉ ra một câu khẳng định và một câu phủ định trong văn bản. Chẳng hạn:
- Câu khẳng định:
+ Trong thời kì quốc tế hoá, toàn cầu hoá, tiếng Việt phải chịu những áp lực lớn hoặc tự thích nghi để phù hợp với tình hình mới.
+ Các câu bị tỉnh lược nhiều, giảm bớt cả thành phần và đưa những từ tiếng Anh thông dụng vào.
+ Không có ngôn ngữ nào lại không bổ sung vốn từ vựng, ngữ nghĩa có nguồn gốc từ các ngôn ngữ khác vào kho tàng của mình, kể cả những ngôn ngữ mạnh như tiếng Anh, tiếng Pháp.
+...

- Câu phủ định:
+ Bây giờ, gặp những thanh thiếu niên thêm những từ tiếng Anh trong những câu giao tiếp như “good”, “sexy”, “done”, “cancel”... không phải là hiếm.
+ Chúng không cảm thấy tiếng Anh là ngoại ngữ như đa số những người trưởng thành học ngoại ngữ khi tiếng Việt của họ đã thành thạo, với nhiều người trẻ thế hệ mới, tiếng Anh gần như là ngôn ngữ thứ hai.
+ Rất nhiều từ tiếng Anh đã được “Nhật hoá” chứ không phải là ngoại ngữ nữa.
+...
Câu 9 [822989]: Phân tích sự phù hợp giữa lí lẽ và bằng chứng; giữa lí lẽ với luận điểm; giữa luận điểm và luận đề trong văn bản.
- Lựa chọn một minh chứng (xem lại và tham khảo Câu 7) để chứng minh sự phù hợp giữa lí lẽ và bằng chứng; giữa lí lẽ với luận điểm; giữa luận điểm và luận đề trong văn bản. Chẳng hạn:
+ Luận đề: Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt trong bối cảnh toàn cầu hoá.
+ Luận điểm 3: Sự tỉnh lược, biến thái của từ ngữ, câu cú tiếng Việt
• Ý kiến: Các ứng dụng trên điện thoại, máy tính, mạng xã hội giúp người ta giao tiếp với nhau dễ dàng nhanh chóng, tiết kiệm hơn nhưng chúng cũng ảnh hưởng khá nhiều đến hành vi ngôn ngữ.
• Lí lẽ: Vì các ứng dụng này khuyến khích sự ngắn gọn, dễ hiểu để tiết kiệm dung lượng và thời gian nên các cụm từ ngắn được sử dụng một cách tối đa, các thành phần câu bị lược bỏ, chỉ dùng những nội dung cốt lõi nhất.
• Bằng chứng: Đó là cách hành văn thiếu các thành phần, câu què, câu cụt, những từ giàu sắc thái biểu cảm ít được sử dụng hay bị quên lãng.
- Tác dụng: tạo nên tính chặt chẽ, lô gích, thuyết phục cho lập luận; thể hiện sự nhìn nhận, đánh giá của người viết đối với một biểu hiện/ hiện tượng vi phạm sự trong sáng của tiếng Việt.
Câu 10 [822990]: Chỉ ra một câu trong văn bản thể hiện ý kiến chủ quan của người viết.
Thí sinh chỉ ra một câu trong văn bản thể hiện ý kiến chủ quan của người viết. Chẳng hạn:
- Tôi nghĩ tiếng Việt chưa bao giờ thay đổi nhanh chóng và nhiều như bây giờ.
- Nhưng nói đi thì cũng phải nói lại, một ngôn ngữ bị pha tạp quá nhiều các từ ngoại lai là điều không hay và không nên.
- Với tư cách là người sử dụng ngôn ngữ như công cụ làm việc (biên tập, sáng tác, đọc), tôi thấy nhiều từ tiếng Việt đã bị lãng quên nhanh chóng hoặc bị thay thế bằng những từ ít biểu cảm hơn.
-...
Câu 11 [822991]: Chọn và nêu tác dụng của một bằng chứng khách quan và một ý kiến đánh giá chủ quan (nếu có) trong văn bản.
Thí sinh chọn và nêu tác dụng của một bằng chứng khách quan và một ý kiến đánh giá chủ quan (nếu có) trong văn bản. Chẳng hạn:
- Ý kiến đánh giá chủ quan: Tôi nghĩ tiếng Việt chưa bao giờ thay đổi nhanh chóng và nhiều như bây giờ.
⟶ Tác dụng: Thể hiện sự nhìn nhận, đánh giá của người viết về sự thay đổi của tiếng Việt ở hai bình diện tốc độ (nhanh chóng) và số lượng (nhiều) hiện nay.
- Bằng chứng khách quan: Thay vì nói “Em chuyển hàng cho chị lúc 5h chiều” thì một chị trung niên ở thành phố sẽ điềm nhiên bảo “Ship lúc 5h nhé”, hoặc các cô gái kể với bạn bè “Bọn mình vừa mới check in ở Mộc Châu”, “Hôm nay đi phỏng vấn viết review mà gặp nhiều drama quá”...
⟶ Tác dụng: Minh chứng cho sự thay đổi trong giao tiếp thông thường của người Việt hiện nay.
Câu 12 [822992]: Chọn và phân tích tác dụng của một thao tác lập luận giải thích/ chứng minh/ phân tích/ bình luận/ so sánh/ bác bỏ có trong văn bản.
Thí sinh chọn và phân tích tác dụng của một thao tác lập luận giải thích/ chứng minh/ phân tích/ bình luận/ so sánh/ bác bỏ có trong văn bản (xem lại Câu 6). Chẳng hạn:
- Thao tác lập luận phân tích: (Con trai tôi mới năm tuổi, trong mười câu nói, cháu đệm khoảng hai, ba từ tiếng Anh.) Vì sao, vì những đứa trẻ này học ngoại ngữ từ nhỏ, gần như song song với tiếng mẹ đẻ và thậm chí có những từ tiếng Anh chúng hiểu ngữ nghĩa chuẩn hơn từ tiếng Việt.
- Tác dụng của thao tác lập luận phân tích: thể hiện sự lí giải của người viết về hiện tượng nhiều người trẻ hay đệm từ tiếng Anh vào giao tiếp thường ngày.
Câu 13 [822993]: Phân tích tác dụng của sự kết hợp các thao tác lập luận trong văn bản.
- Văn bản kết hợp vận dụng nhiều thao tác lập luận: bình luận, phân tích, chứng minh. (xem lại Câu 6).
- Tác dụng của sự kết hợp các thao tác lập luận trong văn bản:
+ Tạo nên một hệ thống lập luận hợp lí, thuyết phục về vấn đề nghị luận (một số hiện tượng tác động đến sự giàu đẹp của tiếng Việt trong bối cảnh toàn cầu hoá); từ đó khơi gợi nhận thức về trách nhiệm của mọi người trong việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt.
+ Thể hiện một sự hiểu biết phong phú, sâu sắc đối với vấn đề nghị luận; góp phần thể hiện tư tưởng, tình cảm của người viết về vấn đề bàn luận: coi trọng, trân trọng tiếng nói của dân tộc, bộc lộ tình yêu tiếng Việt tha thiết.
Câu 14 [822994]: Chỉ ra tính thuyết phục của văn bản.
Tính thuyết phục của văn bản được thể hiện qua sự kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ, ý kiến và dẫn chứng (bằng chứng khách quan) tác giả sử dụng để minh chứng cho vấn đề nghị luận (xem lại Câu 7).
Câu 15 [822998]: Chọn và nêu tác dụng của một câu khẳng định và một câu phủ định trong văn bản.
Thí sinh chọn và nêu tác dụng của một câu khẳng định và một câu phủ định trong văn bản. Chẳng hạn:
- Câu khẳng định: Không có ngôn ngữ nào lại không bổ sung vốn từ vựng, ngữ nghĩa có nguồn gốc từ các ngôn ngữ khác vào kho tàng của mình, kể cả những ngôn ngữ mạnh như tiếng Anh, tiếng Pháp.
⟶ Tác dụng: Khẳng định việc bổ sung vốn từ vựng, ngữ nghĩa có nguồn gốc từ các ngôn ngữ khác vào kho tàng ngôn ngữ của nước mình là chuyện diễn ra ở mọi ngôn ngữ/ là quy luật phát triển của mọi ngôn ngữ.
- Câu phủ định: Bây giờ, gặp những thanh thiếu niên thêm những từ tiếng Anh trong những câu giao tiếp như “good”, “sexy”, “done”, “cancel”... không phải là hiếm.
⟶ Tác dụng: Nhấn mạnh mức độ phổ biến của hiện tượng dùng từ nước ngoài chêm vào giao tiếp thường ngày của nhiều thanh thiếu niên Việt Nam.
Câu 16 [823001]: Phân tích vai trò của giọng điệu trong đoạn trích sau:
Trong sổ tay ngôn ngữ của tôi, tôi chép những từ tôi yêu thích ở một tác phẩm văn học: “ngón tay nông dân to bậm”, “sức bay được mấy nả mà vội kiêu ngạo”, “tối bưng lấy mắt”, “chiều nay thong thả, mời ông xuống xơi cơm”… Những cụm từ ấy đậm chất Việt và khả năng biểu cảm tốt hơn so với những từ thông thường. Khi nghe, đọc các nhà văn, những người dân nông thôn chất phác sử dụng những từ ấy, sẽ thấy tiếng Việt đẹp, biểu cảm, sinh động và giàu có nhường nào.
- Giọng điệu: xúc động, yêu thương, trân trọng, ngợi ca vẻ đẹp của tiếng nói dân tộc.
- Vai trò của giọng điệu trong đoạn trích: góp phần thể hiện nhận thức của người viết về vẻ đẹp của tiếng Việt; thể hiện cảm nhận tinh tế của người viết về vẻ đẹp của tiếng Việt; bộc lộ tình yêu tiếng Việt tha thiết của người viết.
Câu 17 [823002]: Chỉ ra thái độ, quan điểm của người viết được thể hiện trong đoạn trích dưới đây:
Nếu ai muốn thấy sự giàu có và biểu cảm của tiếng Việt, hãy về những vùng nông thôn và nói chuyện với những người phụ nữ trên sáu mươi tuổi, sẽ thấy họ dùng thứ tiếng Việt tinh tế, sinh động và uyển chuyển thế nào. Giờ đây lớp người ấy đang mất dần đi và kéo theo cả sự hao mòn, quên lãng không ít của một thứ tiếng Việt rất đẹp và sinh động.
Thái độ, quan điểm của người viết được thể hiện trong đoạn trích:
- Khẳng định, đề cao năng lực ngôn ngữ tuyệt vời (sử dụng tiếng Việt tinh tế, sinh động và uyển chuyển) của những người phụ nữ trên sáu mươi tuổi ở các vùng nông thôn.
- Tiếc nuối, tiếc xót trước việc lớp người ấy đang mất dần đi và kéo theo cả sự hao mòn, quên lãng tiếng Việt.
Câu 18 [823003]: Văn bản khiến anh/chị nhận thức như thế nào về tầm quan trọng của việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt ở xã hội hiện đại?
Tầm quan trọng của việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt ở xã hội hiện đại:
- Tiếng nói là một thành tố của bản sắc văn hoá dân tộc. Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt là góp phần bảo vệ bản sắc văn hoá dân tộc trong xã hội hiện đại.
- Tiếng Việt hiện đại đang đứng trước nguy cơ bị tác động, ảnh hưởng theo chiều hướng thiếu tích cực khi một bộ phận không nhỏ (mà phần lớn là) thanh thiếu niên hiện nay vi phạm sự trong sáng của tiếng Việt: nói tục, chửi bậy; sử dụng pha tạp tiếng nước ngoài; lạm dụng tiếng lóng;...
- Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt là một trong những cách chúng ta tri ân tiên tổ và truyền lại cho con cháu đời sau một tài sản vô cùng quý giá của dân tộc.
Câu 19 [823006]: Nêu một bài học mà anh/chị nhận được từ văn bản.
Thí sinh có thể nêu một trong các bài học nhận được từ văn bản:
- Tiếng Việt là tài sản vô cùng quý giá của dân tộc.
- Cần giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt.
- Nói đúng, viết đúng, nói hay, viết hay là cách để chúng ta giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt.
-...
Câu 20 [823007]: Vấn đề được nêu trong văn bản có ý nghĩa gì trong xã hội hiện đại?
Vấn đề được nêu trong văn bản (trách nhiệm giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt) đặt ra yêu cầu, sứ mệnh bảo vệ, giữ gìn tiếng nói dân tộc của con người trong bối cảnh toàn cầu hoá: Làm thế nào để tiếng Việt ngày càng thêm giàu đẹp?
Câu 21 [823010]: Anh/Chị có đồng tình với ý kiến cho rằng nếu không có sự giữ gìn, bảo tồn và điều chỉnh thì rất có thể sự giàu đẹp của một ngôn ngữ sẽ bị mất dần đi không thể cứu vãn không? Vì sao?
Thí sinh có thể đồng tình/ không đồng tình/ đồng tình một phần với ý kiến cho rằng nếu không có sự giữ gìn, bảo tồn và điều chỉnh thì rất có thể sự giàu đẹp của một ngôn ngữ sẽ bị mất dần đi không thể cứu vãn; song cần lí giải ngắn gọn, thuyết phục nguyên do. Chẳng hạn:
- Tôi đồng tình với ý kiến cho rằng nếu không có sự giữ gìn, bảo tồn và điều chỉnh thì rất có thể sự giàu đẹp của một ngôn ngữ sẽ bị mất dần đi không thể cứu vãn. Bởi lẽ nhiều thói quen sử dụng tiếng Việt (lạm dụng tiếng lóng, lạm dụng tiếng nước ngoài, nói tục, chửi bậy,...) của nhiều người hiện nay đã, đang có những tác động tiêu cực đến sự trong sáng của tiếng Việt.
Hoặc:
- Tôi không đồng tình với ý kiến cho rằng nếu không có sự giữ gìn, bảo tồn và điều chỉnh thì rất có thể sự giàu đẹp của một ngôn ngữ sẽ bị mất dần đi không thể cứu vãn. Bởi lẽ tiếng Việt ta rất giàu và đẹp. Sự phong phú, giàu đẹp của tiếng Việt đủ sức lấn át những tác động tiêu cực của thói quen sử dụng ngôn ngữ xấu xí ở một bộ phận người hiện nay. Thêm nữa, bên cạnh những người chưa có ý thức giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt vẫn còn là rất nhiều người có ý thức bảo vệ, giữ gìn tiếng nói của cha ông.
Hoặc:
- Tôi vừa đồng tình vừa không đồng tình với ý kiến cho rằng nếu không có sự giữ gìn, bảo tồn và điều chỉnh thì rất có thể sự giàu đẹp của một ngôn ngữ sẽ bị mất dần đi không thể cứu vãn.
Thí sinh kết hợp gợi ý ở hai phương án trên để trả lời nguyên do.