Đọc văn bản:
LỄ HỘI NGHINH ÔNG TRONG VĂN HOÁ DÂN GIAN NGƯỜI Ở NAM BỘ
(Theo Võ Cư)

Lễ hội Cúng cá Ông, hay lễ hội Nghinh Ông, có nơi gọi là lễ Nghinh Ông thủy tướng (như ở huyện Cần Giờ - thành phố Hồ Chí Minh) là lễ hội hàng năm lớn nhất của cư dân ven biển ở Nam Bộ. Lễ hội này có nguồn gốc từ tục thờ cá Ông (tức cá voi) vốn là một tín ngưỡng dân gian khá lâu đời của ngư dân và của những lái, bạn ghe bầu đi biển từ duyên hải Quảng Bình trở vào đến Nam Bộ.
Trong dân gian vùng duyên hải miền Trung còn lưu truyền chuyện kể về cá Ông như sau: Cá Ông vốn là một trong muôn mảnh vải của chiếc áo cà sa của Phật bà Quan Âm được xé ra, quăng xuống biển mà thành. Với bộ xương đặc biệc của mình, cá Ông có phép “thâu đường” (rút ngắn khoảng cách), do đó Phật bà Quan Âm ban cho cá nhiệm vụ tìm cứu những người bị mắc nạn giữa biển khơi. Thần thoại Chăm cũng có một chuyện kể về sự tích cá Ông với nhiều chi tiết hơn, nhưng kết cục vẫn nhấn mạnh đến việc cá cứu người trên biển bao la như một đặc tính của sinh vật ở biển này.
Theo quan niệm của ngư dân ven biển, cá Ông là một động vật thiêng ở biển, có thân hình đồ sộ, nhưng không bao giờ làm hại người, trái lại, đã từng cứu người làm nghề trên biển bị tai nạn đóng thuyền. Sách “Thối thực kí văn” của Trương Quốc Dụng cũng viết về cá Ông như sau: “khi phong ba nổi dậy, thuyền bị đắm giữa biển, cá Ông thường xuất hiện, đội thuyền trên lưng, đưa vào gần bờ, vẫy đuôi bỏ lên. Do vậy khi gặp cá Ông “lụy” (chết), dân làng biển coi như gặp điềm lành, tin rằng sẽ được Ông phù hộ. Người phát hiện đầu tiên được xem như là người được Ông tín nhiệm, do đó được vinh hưởng chức “trưởng nam”, tức là thân chủ thay mặt dân làng bịt khăn đỏ, chịu tang 100 ngày. Người ta tìm cách dìu xác cá Ông vào bờ, và vạn trưởng huy động dân làng đưa cá Ông lên bờ làm lễ an táng. Trường hợp gặp phải xác cá Ông quá lớn thì dùng đăng quây lại, cử người canh giữ cho đến khi rỗng hết thịt dưới nước, rồi lấy bộ xương đưa lên lăng thờ. Ngày xưa (trước năm 1945) chính quyền phong kiến quy định, làng nào bắt gặp cá ông chết, thì lí trưởng phải trình lên phủ, huyện để quan cho lính về khám định, cấp tiền tuất, hương đèn, vải đỏ quấn đủ 7 vòng và cho khâm liệm, cấp đất xây lăng và ruộng hương hỏa để thờ. Nghi thức tang chế hoàn toàn dựa vào “Thọ Mai Gia Lễ”, có rút gọn hơn so với lễ tang người. Đủ ba năm thì cải táng, lấy xương xếp vào quách, vào khạp, đưa vào lăng đã xây sẵn để thờ. Lăng Ông có người trông coi, hương khói, có một hội đồng quản lí lăng. Tác giả sách “Gia Định thành công chí” chép: “khi gặp cá Ông lụy dân miền biển vớt vào bờ, sắm quan tài tẩm liệm, chọn một người trưởng trong ngư hộ làm chủ chịu tang”.
Điều đáng lưu ý là một số nhà chép sử triều Nguyễn đã thêu dệt nên nhiều huyền thoại về cá Ông, gắn với quãng đời bôn tẩu của Nguyễn Ánh được cá Ông cứu sống trong một trận đắm thuyền được nêu lên làm cái cớ để sau khi lên ngôi vua, Gia Long phong cho cá Ông tước hiệu là “Nam hải cự tộc Ngọc Lân thượng đẳng thần”. Và các Vua triều Nguyễn đã phong sắc cho cá Ông với danh nghĩa là “Đại càng quốc gia Nam hải” và đưa vào lăng thờ.
Do yếu tố tâm lí, tín ngưỡng, đồng bào làm nghề biển gọi cá Ông bằng nhiều tên gọi khác nhau như: “Ông Nam Hải”, “Ông Chuông”, “Ông Lộng”, “Ông Khơi”, “Ông Sứa” v.v... coi như một chút thần hộ mệnh giữa biển khơi đầy sóng gió, và việc tổ chức thờ cúng “Ông” chu đáo là một cách đền ơn đáp nghĩa theo luật nhân quả của nhà Phật. Niềm xác tín ấy được phản ánh trong các bài văn tế bằng Hán, Nôm và cả trong một số bài vè sưu tập được ở vùng ven biển Gò Công, Bình Đại, Ba Tri,...
Ở dọc theo vùng biển Nam Bộ, ngư dân đã lập ra nhiều lăng, miếu thờ cá Ông như ở Xuyên Mộc, Phước Tĩnh (huyện Long Đất), Vũng Tàu (Bà Rịa - Vũng Tàu), ở thị trấn Cần Thạnh (huyện Cần Giờ - thành phố Hồ Chí Minh), ở Vàm Láng (Gò Công - Tiền Giang), ở các xã Vang Quới, Thới Thuận, Thừa Đức, Bình Thới, Bình Đại, Bảo Thạnh, Tân Thủy (Bến Tre), Vĩnh Luông (Trà Vinh), Ngọc Hiển (Minh Hải - Cà Mau) v.v... Cũng có nơi người ta thờ cá Ông ngay trong đình làng như đình làng Cần Thạnh (huyện Cần Giờ) nơi đó có bộ xương cá Ông dài 12 mét. Lăng thờ cá Ông ở Vũng Tàu tọa lạc trong khuôn viên ngôi đình làng Thắng Tam và nơi đây có 3 sắc thần của Vua phong “Nam hải đại tướng quân (hai sắc thần đời Thiệu Trị năm thứ V và một sắc thần đời Tự Đức thứ III), ở đây có thờ những bộ xương cá Ông lớn nhỏ khác nhau.
Ngày lễ cúng cá Ông diễn ra không thống nhất giữa nơi này và nơi khác, vì điều này phụ thuộc vào ngày cá Ông “lụy” mà địa phương đó đã phát hiện và coi như ngày giỗ. Ví dụ: ngày 21 tháng 3 âm lịch, ngư dân làng biển Kinh Ba, ấp Cảng, thị trấn Trần Đề, Sóc Trăng tổ chức lễ Nghinh Ông, ở Cần Thạnh (Cần Giờ) lễ được tổ chức vào ngày 15 tháng 8 âm lịch, ở Vàm Láng ngày 15 tháng 8 âm lịch, ở Thắng Tam ngày 16 tháng 8 âm lịch, ở Bình Đại ngày 16 tháng 6 âm lịch v.v... Ngày tháng có xê xích nhau nhưng nói chung thường xảy ra vào những tháng biển động, có gió bão nhiều, cá Ông hay bị nạn và dạt vào bờ.
Về quy tắc cũng như nghi lễ, vật phẩm dâng cúng (thường ít dùng vật phẩm từ biển như tôm cá), giữa các địa phương không khác biệt nhau mấy. Quy mô tổ chức lễ hội to hay nhỏ tùy thuộc vào điều kiện kinh tế ở nơi đó, bởi vì những chi phí cho cuộc lễ (từ việc rước xách đến tổ chức hát bội, vui chơi,...) chủ yếu dựa vào quỹ của làng và sự đóng góp của chủ ghe nghề. Ví dụ, năm nào biển giã được mùa, không xảy ra hiện tượng chìm ghe, hư hỏng, chết người, thì việc cúng kiếng được tổ chức rình rang hơn, ăn uống cũng linh đình hơn năm thất mùa.
Lễ cúng cá Ông thường gồm 3 giai đoạn: lễ Nghinh Ông, lễ cúng Tiền hiền, Hậu hiền và lễ Chánh tế, sau đó là phần vui chơi (kể cả hát bội) và ăn uống. Quang cảnh ở Lăng Ông trong ngày lễ được tổ chức hết sức rực rỡ và trang nghiêm. Các nhà trong vạn ghe nghề đều kết hoa, treo lồng đèn, nhiều người bày hương án có nhang đèn, bánh trái, mâm xôi trước nhà. Các ghe thuyền hôm ấy đều đậu ở bến, không ra khơi làm nghề. Chủ trì lễ tế, xưa xia dưới thời phong kiến, thường là lí trưởng hay vạn trưởng. Các thành phần khác trong ban điều hành giống như lễ cúng đình.
Lễ Nghinh Ông thường bắt đầu lúc rạng sáng. Một đoàn thuyền được chuẩn bị sẵn để ra khơi. Đi đầu là chiếc ghe chính có trọng tải lớn (thường 20 đến 30 tấn) có kết hoa, treo cờ, có bàn hương án và bài vị thủy tướng, có trang bị dàn nhạc ngũ âm và một số người biết hát múa, ăn mặc chỉnh tề, hướng thẳng ra biển. Trong khi đó, trên bờ, tiếng kèn, tiếng trống, tiếng nhạc nổi lên rộn rã. Đoàn tàu, thuyền gồm nhiều chiếc khi ra đến địa điểm đã định thì dừng lại. Vị chủ tế mặc áo dài đen, chít khăn, chân đi hài, ra lệnh gióng ba hồi trống, rồi làm lễ dâng hương, dâng rượu, đọc sớ cầu quốc thái dân an, mưa thuận gió hòa, biển nhiều tôm cá... Sau đó đoàn ghe thuyền quần đảo nhiều vòng và mọi người đều chăm chú chờ hiện tượng nước biển xao động, gọi là “lên vọi” (dấu hiệu tượng trưng Ông về chứng giám lòng thành của dân làng nghề biển); sau đó, đoàn thuyền quay về bến, “rước Ông” về lại lăng (hay đình) an vị. Lúc bấy giờ người dân từ các nhà đổ ra bến, múa lân, tấu nhạc, đốt pháo tưng bừng để bày tỏ niềm ngưỡng mộ.
Tiếp theo là lễ cúng Tiền hiền, Hậu hiền, có đọc văn tế, có tổ chức học trò lễ dâng hương, trà, rượu và thức cúng làm từ thịt gia súc, gia cầm là chính. Sau phần lễ là phần tiếp khách và mọi người lớn nhỏ trong làng cùng nhau ăn uống, vui chơi.
Lễ Chánh tế bắt đầu từ 12 giờ đêm cùng ngày. Thức cúng thường là một con heo trắng, hai mâm xôi đắp cao, có cả rượu và trà, có học trò lễ dâng hương và dàn ngũ âm tấu nhạc. Cũng như các lễ cúng đình hàng năm của cư dân làm nông nghiệp, làng hay vạn thường rước các đoàn hát bội về diễn cho dân xem. Đây là nét khác biệt so với lễ cúng cá Ông của cư dân miền trung. Thường các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Khánh Hòa sau lễ tế có tổ chức hát Bả trạo, một loại hình hát múa dân gian ven biển.
Căn cứ vào nội dung các bản văn tế cầu mong sự bình yên, thịnh vượng và điều lành cho mọi người, mọi nhà, phản ánh niềm khát khao mộc mạc, chân thành của dân chúng, ta thấy trong khoảnh khắc này giữa thần linh và đời sống dân dã dường như không còn nữa. Tục thờ cúng cá Ông có cội nguồn rất xa xưa, được phủ thêm màu sắc Phật giáo và cả Nho giáo phù hợp với cấu trúc đa nguyên trong tín ngưỡng của người Việt, trong quá trình tồn tại và phát triển đã tiếp thu và tôn vinh một số đạo lí cổ truyền thấm đượm tính nhân văn của dân tộc. Cá Ông, một sinh vật có ích được nhân cách hoá thành một Đấng cứu hộ độ thế, được con người tôn sùng và biết ơn.
Lễ hội chính là dịp để thỏa mãn nhu cầu đền ơn, báo nghĩa. Lễ hội Nghinh Ông có vị trí quan trọng trong đời sống của người dân, là sinh hoạt văn hoá dân gian không thể thiếu của cộng đồng. Lễ hội góp phần cố kết cộng đồng, là sợi dây liên kết mọi người, cùng thờ cúng chung một vị thần linh và cùng vui chung trong những trò diễn. Lễ hội Nghinh Ông đáp ứng nhu cầu tâm linh và thỏa mãn nhu cầu hưởng thụ văn hoá của cộng đồng; bảo lưu các giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc, trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, hướng về nguồn cội, tưởng nhớ những người có công khai khẩn vùng đất (tiền hiền, hậu hiền), các diễn xướng dân gian. Lễ hội Nghinh Ông góp phần phát triển kinh tế thông qua thu hút khách du lịch qua các hoạt động như: du lịch sinh thái, du lịch văn hoá và du lịch cộng đồng.
Với giá trị tiêu biểu Lễ hội Nghinh Ông được Bộ trưởng Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch đưa vào Danh mục di sản văn hoá phi vật thể quốc gia theo Quyết định số 446/QĐ-BVHTTDL ngày 29/01/2019.
(Theo baotangphunu.com)
Thực hiện các yêu cầu:
Câu 1 [822569]: Chỉ ra đề tài của văn bản.
Đề tài của văn bản: văn hoá phong tục.
Câu 2 [822571]: Nêu mục đích của văn bản.
Mục đích của văn bản: giới thiệu lễ hội Nghinh Ông, một lễ hội truyền thống của ngư dân duyên hải từ Quảng Bình trở vào đến Nam Bộ.
Câu 3 [822573]: Văn bản được chia làm mấy phần? Chỉ ra nội dung chính của từng phần.
Văn bản được chia làm ba phần:
- Phần thứ nhất (từ đầu đến ở vùng ven biển Gò Công, Bình Đại, Ba Tri,...): Nguồn gốc của lễ hội Nghinh Ông và tục thờ cá Ông của ngư dân Nam Bộ.
- Phần thứ hai (tiếp đến được con người tôn sùng và biết ơn.): Lễ hội Nghinh Ông ở các vùng duyên hải Nam bộ.
- Phần thứ ba (còn lại): Ý nghĩa của lễ hội Nghinh Ông trong đời sống hôm nay.
Câu 4 [822574]: Theo văn bản, lễ hội Nghinh Ông có nguồn gốc từ đâu?
Theo văn bản, lễ hội Nghinh Ông có nguồn gốc từ tục thờ cá Ông (tức cá voi) vốn là một tín ngưỡng dân gian khá lâu đời của ngư dân và của những lái, bạn ghe bầu đi biển từ duyên hải Quảng Bình trở vào đến Nam Bộ.
Câu 5 [822577]: Theo văn bản, cá Ông còn được gọi bằng các tên gọi nào khác?
Theo văn bản, cá Ông còn được gọi bằng các tên gọi: “Ông Nam Hải”, “Ông Chuông”, “Ông Lộng”, “Ông Khơi”, “Ông Sứa” v.v...
Câu 6 [822579]: Theo văn bản, lễ cúng cá Ông thường gồm mấy giai đoạn? Đó là những giai đoạn nào?
Theo văn bản, lễ cúng cá Ông thường gồm ba giai đoạn. Đó là các giai đoạn: lễ Nghinh Ông, lễ cúng Tiền hiền, Hậu hiền và lễ Chánh tế.
Câu 7 [822580]: Theo văn bản, nội dung của các bản văn tế được đọc trong Lễ hội Nghinh Ông thường là gì?
Theo văn bản, nội dung của các bản văn tế được đọc trong Lễ hội Nghinh Ông thường là cầu mong sự bình yên, thịnh vượng và điều lành cho mọi người, mọi nhà, phản ánh niềm khát khao mộc mạc, chân thành của dân chúng.
Câu 8 [822583]: - Sách “Thối thực kí văn” của Trương Quốc Dụng cũng viết về cá Ông như sau: “khi phong ba nổi dậy, thuyền bị đắm giữa biển, cá Ông thường xuất hiện ... chọn một người trưởng trong ngư hộ làm chủ chịu tang”.
- Điều đáng lưu ý là một số nhà chép sử triều Nguyễn đã thêu dệt nên nhiều huyền thoại về cá Ông, gắn với quãng đời bôn tẩu của Nguyễn Ánh được cá Ông cứu sống trong một trận đắm thuyền được nêu lên làm cái cớ để sau khi lên ngôi vua, Gia Long phong cho cá Ông tước hiệu là “Nam hải cự tộc Ngọc Lân thượng đẳng thần”.

Mỗi dữ liệu bên trên thuộc loại dữ liệu sơ cấp hay thứ cấp?
- Sách “Thối thực kí văn” của Trương Quốc Dụng cũng viết về cá Ông như sau: “khi phong ba nổi dậy, thuyền bị đắm giữa biển, cá Ông thường xuất hiện... chọn một người trưởng trong ngư hộ làm chủ chịu tang”.
⟶ Dữ liệu trong đoạn văn trên đây thuộc loại dữ liệu sơ cấp.
- Điều đáng lưu ý là một số nhà chép sử triều Nguyễn đã thêu dệt nên nhiều huyền thoại về cá Ông, gắn với quãng đời bôn tẩu của Nguyễn Ánh được cá Ông cứu sống trong một trận đắm thuyền được nêu lên làm cái cớ để sau khi lên ngôi vua, Gia Long phong cho cá Ông tước hiệu là “Nam hải cự tộc Ngọc Lân thượng đẳng thần”.
⟶ Dữ liệu trong đoạn văn trên đây thuộc loại dữ liệu thứ cấp.
Câu 9 [822585]: Chỉ ra đặc điểm của văn bản thông tin tổng hợp trong văn bản.
Đặc điểm của văn bản thông tin tổng hợp trong văn bản:
- Sử dụng phương thức thuyết minh kết hợp với các phương thức biểu đạt khác (biểu cảm, miêu tả, tự sự).
- Kết hợp nhiều hình thức trình bày: chữ viết, hình ảnh.
Câu 10 [822587]: Xác định phương thức biểu đạt chính của văn bản.
Phương thức biểu đạt chính của văn bản: thuyết minh.
Câu 11 [822588]: Nêu tác dụng của việc kết hợp vận dụng phương thức biểu đạt tự sự trong văn bản.
- Phương thức biểu đạt tự sự trong văn bản:
+ Chuyện kể về cá Ông (Cá Ông vốn là một trong muôn mảnh vải của chiếc áo cà sa của Phật bà Quan Âm được xé ra, quăng xuống biển mà thành. Với bộ xương đặc biệt của mình, cá Ông có phép “thâu đường” (rút ngắn khoảng cách), do đó Phật bà Quan Âm ban cho cá nhiệm vụ tìm cứu những người bị mắc nạn giữa biển khơi; Thần thoại Chăm cũng có một chuyện kể về sự tích cá Ông cứu người trên biển bao la).
+ Chuyện mai táng cá Ông trong các sách Thối thực kí văn của Trương Quốc Dụng; Gia Định thành công chí.
+ Huyền thoại cá Ông cứu sống Nguyễn Ánh (vua Gia Long) trong một trận đắm thuyền.
- Tác dụng của việc kết hợp vận dụng phương thức biểu đạt tự sự trong văn bản: Giúp kể lại những câu chuyện kì lạ, kì ảo liên quan đến cá Ông; từ đó, gia tăng tính chất linh thiêng cho đối tượng được kể (cá Ông); góp phần mang đến sức hấp dẫn cho văn bản.
Câu 12 [822589]: Chỉ ra các cách trình bày thông tin trong văn bản. Nhận xét cách chọn lọc, sắp xếp thông tin trong văn bản.
- Các cách trình bày thông tin trong văn bản:
+ Trình bày theo trình tự lô-gích:
• Nguồn gốc của lễ hội Nghinh Ông và tục thờ cúng cá Ông trong dân gian (từ đầu đến những bộ xương cá Ông lớn nhỏ khác nhau)
• Lễ cúng cá Ông (tiếp đến được con người tôn sùng và biết ơn)
• Ý nghĩa của lễ hội Nghinh Ông - Di sản văn hoá phi vật thể quốc gia - trong đời sống nhân dân và trong sinh hoạt văn hoá cộng đồng (còn lại).
+ Trình bày theo trình tự thời gian:
• Chuyện cá Ông cứu người gặp nạn trên biển trong dân gian - chuyện cá Ông cứu Nguyễn Ánh (vua Gia Long) trong sử sách nhà Nguyễn
• Các giai đoạn của lễ Nghinh Ông (lễ Nghinh Ông, lễ cúng Tiền hiền, Hậu hiền và lễ Chánh tế)
- Nhận xét cách chọn lọc, sắp xếp thông tin trong văn bản:
+ Thông tin trong văn bản được lựa chọn đầy đủ, chi tiết, giúp người đọc có thể hình dung rõ nét về lễ hội Nghinh Ông - một nét đẹp trong văn hoá phong tục của các ngư dân ven biển nước ta - ở các phương diện (nguồn gốc - tục thờ cúng cá Ông và lễ hội Nghinh Ông ở các địa phương - ý nghĩa của lễ hội).
+ Cách sắp xếp thông tin trong văn bản rất lô-gích, chặt chẽ, tạo nên một cái nhìn tổng thể về lễ hội Nghinh Ông.
Câu 13 [822592]: Nêu ý nghĩa của nhan đề. Đặt nhan đề khác cho văn bản.
- Ý nghĩa của nhan đề Lễ hội Nghinh Ông trong văn hoá dân gian người Việt ở Nam Bộ:
+ Cung cấp thông tin về đối tượng được giới thiệu trong bài viết: Lễ hội Nghinh Ông.
+ Nhấn mạnh phạm vi giá trị của đối tượng: trong văn hoá dân gian (giá trị văn hoá tinh thần)
+ Nhấn mạnh tính chất khu biệt về phạm vi địa lí của đối tượng: ở Nam Bộ (không phải ở miền Trung).
⟶ Nhan đề có ý nghĩa thông tin một cách rõ ràng về đối tượng của bài viết.
- Đặt nhan đề khác cho văn bản: “Lễ hội Nghinh Ông của người Nam Bộ”; “Đặc sắc lễ hội Nghinh Ông của người Nam Bộ”;...
Câu 14 [822593]: Nhận xét và đánh giá sự phù hợp của nội dung với nhan đề văn bản.
- Nhan đề văn bản nêu rõ đối tượng của bài viết: lễ hội Nghinh Ông - trong văn hoá dân gian - của người Việt ở Nam Bộ.
- Nội dung bài viết tập trung triển khai chi tiết hơn về đối tượng:
+ Nguồn gốc của lễ hội Nghinh Ông và tục thờ cúng cá Ông trong dân gian.
+ Lễ cúng cá Ông ở các địa phương dọc vùng biển Nam Bộ.
+ Ý nghĩa của lễ hội Nghinh Ông - Di sản văn hoá phi vật thể quốc gia - trong đời sống nhân dân và trong sinh hoạt văn hoá cộng đồng.
⟶ Nội dung văn bản thống nhất, phù hợp với đối tượng được nêu ở nhan đề.
Câu 15 [822594]: Ở dọc theo vùng biển Nam Bộ, ngư dân đã lập ra nhiều lăng, miếu thờ cá Ông như ở Xuyên Mộc, Phước Tĩnh (huyện Long Đất), Vũng Tàu (Bà Rịa - Vũng Tàu), ở thị trấn Cần Thạnh (huyện Cần Giờ - thành phố Hồ Chí Minh), ở Vàm Láng (Gò Công - Tiền Giang), ở các xã Vang Quới, Thới Thuận, Thừa Đức, Bình Thới, Bình Đại, Bảo Thạnh, Tân Thủy (Bến Tre), Vĩnh Luông (Trà Vinh), Ngọc Hiển (Minh Hải - Cà Mau) v.v… Cũng có nơi người ta thờ cá Ông ngay trong đình làng như đình làng Cần Thạnh (huyện Cần Giờ) nơi đó có bộ xương cá Ông dài 12 mét. Lăng thờ cá Ông ở Vũng Tàu tọa lạc trong khuôn viên ngôi đình làng Thắng Tam và nơi đây có 3 sắc thần của Vua phong “Nam hải đại tướng quân (hai sắc thần đời Thiệu Trị năm thứ V và một sắc thần đời Tự Đức thứ III), ở đây có thờ những bộ xương cá Ông lớn nhỏ khác nhau.
a. Phân tích vai trò của các dữ liệu được sử dụng trong đoạn văn trên.
b. Phân tích tác dụng của phép liệt kê được sử dụng trong đoạn văn trên.
a. Vai trò của các dữ liệu được sử dụng trong đoạn văn: Cung cấp cho người đọc thông tin về tục thờ cá Ông ở một số địa phương, đồng thời khơi gợi ý nghĩa từ việc thờ cúng cá Ông ở các địa phương này. Cụ thể:

b. Phân tích tác dụng của phép liệt kê được sử dụng trong đoạn văn trên.
- Phép liệt kê được sử dụng trong việc kể tên các địa phương dọc vùng biển Nam Bộ, những nơi có lăng, miếu thờ cá Ông: ở Xuyên Mộc, Phước Tĩnh (huyện Long Đất), Vũng Tàu (Bà Rịa - Vũng Tàu), ở thị trấn Cần Thạnh (huyện Cần Giờ - thành phố Hồ Chí Minh), ở Vàm Láng (Gò Công - Tiền Giang), ở các xã Vang Quới, Thới Thuận, Thừa Đức, Bình Thới, Bình Đại, Bảo Thạnh, Tân Thủy (Bến Tre), Vĩnh Luông (Trà Vinh), Ngọc Hiển (Minh Hải - Cà Mau) v.v…
- Tác dụng: nhấn mạnh tính chất phổ biến của tục thờ cá Ông ở các tỉnh thành duyên hải Nam Bộ; tô đậm tín ngưỡng thờ cá Ông của ngư dân các vùng này, từ đó cho thấy thái độ thành kính của ngư dân với linh vật linh thiêng của biển cả.
Câu 16 [822595]: Lễ hội chính là dịp để thỏa mãn nhu cầu đền ơn, báo nghĩa. Lễ hội Nghinh Ông có vị trí quan trọng trong đời sống của người dân, là sinh hoạt văn hoá dân gian không thể thiếu của cộng đồng. Lễ hội góp phần cố kết cộng đồng, là sợi dây liên kết mọi người, cùng thờ cúng chung một vị thần linh và cùng vui chung trong những trò diễn. Lễ hội Nghinh Ông đáp ứng nhu cầu tâm linh và thỏa mãn nhu cầu hưởng thụ văn hoá của cộng đồng; bảo lưu các giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc, trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, hướng về nguồn cội, tưởng nhớ những người có công khai khẩn vùng đất (tiền hiền, hậu hiền), các diễn xướng dân gian. Lễ hội Nghinh Ông góp phần phát triển kinh tế thông qua thu hút khách du lịch qua các hoạt động như: du lịch sinh thái, du lịch văn hoá và du lịch cộng đồng.
Nội dung thông tin trong đoạn văn trên giúp anh/chị hiểu gì về Lễ hội Nghinh Ông trong đời sống của người dân Nam Bộ?
Nội dung thông tin trong đoạn văn trên giúp người đọc nhận diện được ý nghĩa, giá trị nhiều mặt của Lễ hội Nghinh Ông trong đời sống của người dân Nam Bộ:
- Giá trị tinh thần: dịp để thoả mãn nhu cầu đền ơn, báo nghĩa; cố kết cộng đồng; đáp ứng nhu cầu tâm linh và thỏa mãn nhu cầu hưởng thụ văn hoá của cộng đồng; bảo lưu các giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc.
- Giá trị vật chất: góp phần phát triển kinh tế thông qua thu hút khách du lịch qua các hoạt động như: du lịch sinh thái, du lịch văn hoá và du lịch cộng đồng.
Câu 17 [822596]: Văn bản khiến anh/chị nhận thức như thế nào về vai trò của con người trong đời sống hiện đại với việc giữ gìn các giá trị văn hoá dân gian?
- Nhận thức đúng đắn và sâu sắc về ý nghĩa, giá trị của các giá trị văn hoá dân gian: Văn hoá dân gian xuất hiện từ lâu đời và nhiều giá trị văn hoá dân gian có nguy cơ bị mai một trong xã hội hiện đại (thời đại với sự xuất hiện của rất nhiều loại hình giải trí có sức cạnh tranh ghê gớm với các giá trị văn hoá truyền thống,...). Do đó, con người hôm nay cần hiểu đúng, hiểu sâu về ý nghĩa để có ý thức bảo tồn các giá trị văn hoá dân gian.
- Về hành động, con người hôm nay có trách nhiệm tìm hiểu, bảo tồn, phục dựng, phát triển,... các giá trị văn hoá dân gian; biết hài hoà giữa truyền thống và hiện đại để vừa giữ gìn bản sắc dân tộc vừa hội nhập quốc tế.
Câu 18 [822599]: Nêu một bài học mà anh/chị nhận được từ văn bản.
Thí sinh nêu một bài học nhận được từ văn bản. Chẳng hạn:
- Thiên nhiên vĩ đại luôn yêu thương, bảo vệ, che chở cho con người.
- Con người không thể sống tách rời thiên nhiên.
- Luôn trân trọng, biết ơn thiên nhiên vĩ đại.
- Cần giữ gìn các giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc.
-...