Đáp án Dạng 2. Các câu hỏi liên quan đến kiến thức thuộc các kiểu loại, thể loại văn bản (dạng thức câu hỏi đơn)
“Sinh trắc học là phép đo và phân tích thống kê các đặc điểm sinh học và hành vi độc đáo của con người. Công nghệ này chủ yếu được sử dụng để nhận dạng và kiểm soát truy cập, hoặc để xác định các cá nhân thuộc diện bị giám sát.
Xác thực sinh trắc học (biometric authentication) ngày càng trở nên phổ biến trong các hệ thống an ninh công cộng và doanh nghiệp, điện tử tiêu dùng và các ứng dụng điểm bán lẻ POS. Ngoài vấn đề bảo mật, động lực thúc đẩy xác thực sinh trắc học là sự tiện lợi vì công nghệ này không yêu cầu phải nhớ mật khẩu khẩu hay mang theo mã thông báo bảo mật (security tokens).
Xác thực sinh trắc học thực hiện thông qua các dấu hiệu nhận diện như: dấu vân tay, dái tai, võng mạc, hình dạng bàn tay, khuôn mặt hoặc chữ kí bằng văn bản. Trong đó, dấu vân tay là loại xác thực sinh trắc học được sử dụng phổ biến và lâu đời nhất.”
“Công nghệ 3D ngày càng trở nên thiết yếu khi được ứng dụng để tạo ra mô hình giải phẫu bộ phận cơ thể con người. Các thiết bị định vị phẫu thuật giúp các bác sĩ xác định và có hình dung rõ ràng về vị trí tổn thương, từ đó tối ưu hoá quá trình phẫu thuật và điều trị. Công nghệ được áp dụng không chỉ tạo ra cuộc cách mạng trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe mà còn mở ra cơ hội phát triển y học cá thể hoá, từ sản xuất các viên thuốc đến việc thực hiện các ca phẫu thuật phù hợp với từng cá thể bệnh nhân, đảm bảo hỗ trợ phẫu thuật đạt độ chính xác tối đa, giảm thiểu các tai biến xuống mức thấp nhất.”
- Đáp án C là thành quả ứng dụng công nghệ 3D, dựa vào thông tin trong câu văn: “…mở ra cơ hội phát triển y học cá thể hoá, từ sản xuất các viên thuốc đến việc thực hiện các ca phẫu thuật phù hợp với từng cá thể bệnh nhân…”
- Đáp án D là thành quả ứng dụng công nghệ 3D, dựa vào thông tin trong câu văn: “…mở ra cơ hội phát triển y học cá thể hoá, từ sản xuất các viên thuốc đến việc thực hiện các ca phẫu thuật phù hợp với từng cá thể bệnh nhân…”
⟶ Đáp án B không xuất hiện trong đoạn văn. Đáp án: B
“(1) Tạp chí năng lượng trực tuyến Mỹ Energysage (ESC) số cuối tháng 5 - 2022 cho biết: Về cơ bản, tiết kiệm năng lượng là thực hành sử dụng ít năng lượng hơn để giảm chi phí và giảm tác động đến môi trường. Điều này có nghĩa, sử dụng ít điện, khí đốt hoặc bất kì dạng năng lượng nào khác nhận được từ công ty tiện ích tới gia đình hay doanh nghiệp tiêu thụ. Với nguồn năng lượng hữu hạn sẵn có trên hành tinh, việc tiết kiệm năng lượng khi có thể, sẽ có lợi cho cá nhân và cho cả hệ thống năng lượng chung.
(2) Tiết kiệm năng lượng so với hiệu quả năng lượng, hai khái niệm này có điểm khác biệt. Tiết kiệm năng lượng là hoạt động cố gắng sử dụng ít năng lượng hơn vì các lí do chi phí và môi trường, còn hiệu quả năng lượng có nghĩa, sử dụng các sản phẩm cụ thể được thiết kế để sử dụng ít năng lượng hơn. Hai khái niệm này vốn tương tự nhưng liên quan đến các phương pháp khác nhau. Ví dụ, tiết kiệm năng lượng bao gồm sử dụng các thiết bị thông minh và bóng đèn tiết kiệm năng lượng trong nhà của các gia đình.”
“Dự thảo Hiệp ước yêu cầu các nước giàu cung cấp 20% vaccine, vật tư y tế như bộ xét nghiệm, phương pháp điều trị để WHO phân phối ở các nước nghèo hơn trong trường hợp khẩn cấp. Đây cũng là điểm mấu chốt dẫn đến bất đồng khi các nước giàu không chấp nhận con số này. Vào đầu tháng 5, Vương quốc Anh từ chối kí Hiệp định vì chưa sẵn sàng cung cấp 20% số vaccine của mình.
Dự thảo hướng đến việc thiết lập Hệ thống chia sẻ lợi ích và tiếp cận mầm bệnh - một nền tảng mới cho phép chia sẻ nhanh chóng dữ liệu mầm bệnh với các hãng dược phẩm, nhằm đẩy nhanh việc phát triển các sản phẩm hỗ trợ chống lại đại dịch.
Tuy nhiên, các nước đang phát triển lo ngại Hiệp ước có thể buộc họ phải cung cấp mẫu virus cho các nước giàu để phát triển vaccine và phương pháp điều trị nhưng sau đó lại không đủ khả năng chi trả cho những sản phẩm này. Các nước giàu thì lo ngại vấn đề bản quyền vaccine, quyền sở hữu trí tuệ đối với dược phẩm.”
- Loại C vì đây là bằng chứng cho thấy khó khăn trong việc hiện thực hóa Hiệp ước. Việc Vương quốc Anh không sẵn sàng cung cấp 20% số vaccine là minh chứng cho sự thiếu đồng thuận giữa các quốc gia giàu có về yêu cầu của Hiệp ước.
- Loại D vì đây cũng là một bằng chứng cho thấy khó khăn trong việc hiện thực hóa Hiệp ước. Lo ngại của các nước giàu về quyền sở hữu trí tuệ có thể khiến họ không muốn chia sẻ công nghệ hoặc dữ liệu cần thiết để phát triển vaccine một cách tự do.
⟶ B là đáp án đúng vì đây là nội dung đề xuất của dự thảo Hiệp ước, không phải là bằng chứng về khó khăn trong việc hiện thực hóa hiệp ước. Đáp án: B
“Linh hồn của ca trù chính là ca nương, nữ hát chính có thanh sắc vẹn toàn, được đào tạo bài bản, công phu, vừa hát vừa gõ nhịp phách, kĩ thuật hát rất tinh tế, điêu luyện, nắn nót, trau chuốt từng câu, từng lời. Kế tiếp là nhạc công, thường gọi là kép đàn. Người này chơi đàn đáy luyến láy, nhặt khoan, lúc thánh thót, lúc ngân nga rất hòa nhịp với giọng hát của ca nương. Một phần không thể thiếu khác đó là người nghe, gọi là quan viên. Trong số các quan viên ấy người nào sành âm luật, thanh nhạc, vũ đạo... thì được mời ngồi cầm trống chầu. Quan viên cầm trống chầu vừa giữ vai trò là người thẩm âm, giữ nhịp, vừa để biểu hiện sự khen - chê, thưởng - phạt bằng cách thể hiện qua cách gõ trống của mình mỗi khi nghe ca nương, kép đàn trình diễn. Vì thế mỗi khi nghe đào kép thể hiện lúc nhặt lúc khoan, lúc tha thiết lúc dặt dìu, lúc cứng cỏi lúc đài các... quan viên sẽ tùy theo cảm nhận, cảm xúc của mình để có cách gõ trống chầu khác nhau. Do đó tiếng trống chầu thể hiện rất rõ trình độ của người thưởng thức cũng như tài nghệ của người biểu diễn.”
+ “Linh hồn của ca trù chính là ca nương” ⟶ Ca nương có vai trò quan trọng nhất.
+ “Kế tiếp là nhạc công, thường gọi là kép đàn. Người này chơi đàn đáy luyến láy, nhặt khoan, lúc thánh thót, lúc ngân nga rất hòa nhịp với giọng hát của ca nương.” ⟶ Kép đàn có vai trò quan trọng thứ hai.
+ “Một phần không thể thiếu khác đó là người nghe, gọi là quan viên…” ⟶ Quan viên có vai trò quan trọng thứ ba, giữ nhiệm vụ thẩm âm và biểu hiện khen - chê qua cách gõ trống chầu
⟶ Mức độ quan trọng của các thành viên tham gia biểu diễn ca trù được xếp theo thứ tự: Ca nương - kép đàn - quan viên. Đáp án: A
“Theo trang Food Republic, vào đêm Giao thừa, mỗi người Tây Ban Nha sẽ ăn hết 12 quả nho - mỗi quả sau một tiếng chuông để cầu may mắn trong năm mới.
Khi hồi chuông đầu tiên ngân lên, mọi người dân Tây Ban Nha cùng bỏ quả nho đầu tiên vào miệng. Khá là khó để kịp nhai hay thưởng thức hương vị của nó vì chỉ 2 giây sau là đến hồi chuông thứ hai và quả nho thứ hai. Suốt 12 hồi chuông là “12 quả nho may mắn”. Nếu có thể ăn liên tục 12 quả ở tiếng chuông cuối cùng, bạn sẽ gặp may mắn trong năm mới.
Mỗi quả nho đại diện cho một tháng trong năm và phải được ăn ngay trong khoảnh khắc giao thời. Người Tây Ban Nha quan niệm, nếu không ăn hết 12 quả nho thì coi như sẽ gặp xui xẻo.”
(Lương Quốc Tiệp, Độc lạ: Phong tục ăn 12 quả nho để đón Tết của người Tây Ban Nha, theo nguoiduatin.vn)
Theo đoạn trích, tại sao người Tây Ban Nha lại ăn hết 12 quả nho để cầu may mắn trong năm mới mà không phải con số khác?
“Rừng đang tham gia tích cực trong cuộc chiến chống biến đổi khí hậu toàn cầu, cung cấp ô-xy cho khí quyển và giữ lại lượng lớn CO2 thải ra; là nguồn cung cấp nước cho gần 50% các thành phố lớn nhất thế giới.
Rừng tạo ra và duy trì độ phì nhiêu cho đất; giúp điều chỉnh tác động tiêu cực của hiện tượng thời tiết cực đoan như bão, lũ và hạn hán... Những giá trị của rừng đối với cuộc sống rất to lớn. Tuy nhiên, bất chấp những lợi ích vô giá của rừng về kinh tế, xã hội, sinh thái và sức khỏe, rừng đang bị chính con người tàn phá một cách nghiêm trọng. Không phải là quá muộn để chúng ta hành động bảo vệ và phát triển những cánh rừng bền vững, góp phần xây dựng nền kinh tế xanh toàn cầu, vì sức khỏe cộng đồng.”
“Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng trong sản lượng (số lượng hàng hóa và dịch vụ) mà các nền kinh tế có thể sản xuất ra trong một giai đoạn. Để làm được điều này, các nền kinh tế có thể gia tăng: (1) khối lượng đầu vào sản xuất như vốn (nhà xưởng, máy móc, thiết bị), lao động hay tài nguyên (đất đai); và/hoặc (2) năng suất (sản xuất ra nhiều sản lượng hơn với cùng một khối lượng đầu vào). Robert Solow, chủ nhân giải Nobel Kinh tế 1987, là người đặt nền tảng cho các lí thuyết này. Robert Solow đã chỉ ra rằng các nền kinh tế không thể duy trì tăng trưởng cao trong dài hạn nếu chỉ dựa vào đầu tư tích lũy vốn, thay vào đó gia tăng năng suất mới là yếu tố quyết định. Ở thời điểm này, quan điểm phổ biến cho rằng thay đổi công nghệ chính là yếu tố quan trọng nhất quyết định gia tăng năng suất. Lí thuyết tăng trưởng này cũng cho rằng các nền kinh tế đang phát triển có tiềm năng sinh lợi của vốn cao tương đối so với các nền kinh tế đã phát triển và có thể học được công nghệ từ các nền kinh tế này. Theo đó vốn đầu tư sẽ di chuyển đến các nước đang phát triển, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và giúp các nước này bắt kịp các nước phát triển. Tăng trưởng kinh tế ngoạn mục ở Anh sau các cuộc cách mạng công nghiệp và việc các nước phương Tây sau đó lần lượt gia nhập câu lạc bộ các nước phát triển là nguồn dinh dưỡng dồi dào cho niềm tin này.”
“Hãy xem bộ não của bạn ưu tiên thông tin như thế nào trong các tình huống hằng ngày. Mỗi khi mở mắt, bạn sẽ bị ngập chìm trong thông tin hình ảnh - nhiều hơn rất nhiều so với khả năng xử lí đồng thời của não bộ. Tuy nhiên, bạn không bị choáng ngợp, nhờ vào các cơ chế chú ý tinh vi lọc bỏ những thứ không cần thiết. Những cơ chế này thường ưu tiên thông tin dựa trên mức độ quan trọng, giá trị, sự bất ngờ hoặc mức độ liên quan tới bạn lúc đó của nó. Chẳng hạn như, bạn có thể đang ngắm nghía những quả lựu chín trên cây (một nguồn tài nguyên có giá trị), nhưng nếu một con rắn đột nhiên trườn xuống cành cây, sự chú ý của bạn sẽ ngay lập tức chuyển sang con rắn vì sự hiện diện của nó khẩn cấp hơn nhiều. Quá trình tiến hóa đã tinh chỉnh quá trình này để đảm bảo chúng ta phản ứng nhanh chóng và phù hợp với thông tin quan trọng nhất; trong lúc này có thể là một nguồn tài nguyên có giá trị (ví dụ, quả lựu) nhưng lại là một trở ngại nguy hiểm trong khoảnh khắc tiếp theo (ví dụ, rắn). Kết quả là, mọi người thường nhận thấy những điều tương tự trong môi trường của họ.”
“Khái niệm “di sản bất hòa”, “di sản khác” lần đầu tiên được Tunbridge và Ashworth đưa ra vào năm 1966 qua cuốn sách Dissonant heritage: The management of the past as a resource in conflict (Di sản bất hòa: Sự quản lí quá khứ như một nguồn tài nguyên xung đột), hàm ý về những di sản ẩn chứa sự xung đột của các câu chuyện khác biệt và thiếu đi sự đồng thuận giữa các bên liên quan trong việc tái hiện quá khứ và kí ức trong các không gian công cộng. Hệ quả của những sự khác biệt, căng thẳng - thậm chí trong một số trường hợp dẫn đến xung đột - là vô cùng nhiều thách thức trong bảo tồn và quản lí các di sản bất hòa. Có thể nói rằng sự bất hòa xuất hiện trong các chiến lược diễn giải di sản của nhiều bên tham gia khi đánh giá và nhìn nhận lại di sản. Trong các xã hội, các nhóm chiếm ưu thế dựa trên quan điểm của mình nhìn về quá khứ để nhận diện các di tích quan trọng trong khi nhiều nhóm khác lại tạo ra những diễn giải của chính mình một cách khác biệt. Việc nhìn nhận và bảo tồn các di sản bất hòa là một quá trình đầy thách thức và có thể góp phần tái định hình các bản sắc văn hóa và xã hội.”
- “Thách thức” xuất hiện trong ngữ cảnh đoạn trích dùng để chỉ hệ quả của sự bất hòa và xung đột, không miêu tả một trạng thái mâu thuẫn mà chỉ đề cập đến khó khăn hoặc vấn đề cần giải quyết.
⟶ “Thách thức” không cùng nhóm với các từ ngữ còn lại. Đáp án: B
“Chúng ta không thể phủ nhận vai trò của các phòng khám tư nhân trong việc hỗ trợ hệ thống y tế công cũng như góp phần nâng cao chất lượng khám chữa bệnh cho người dân.
Tuy nhiên, việc “vẽ bệnh moi tiền” cùng các vi phạm khác tại một số cơ sở y tế tư nhân không chỉ thể hiện sự thiếu đạo đức, mà còn vi phạm pháp luật, gây căm phẫn trong dư luận và làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến hình ảnh ngành y tế.
Để các phòng khám vi phạm thực sự cảm thấy “sợ” và tuân thủ đúng quy định, song song với việc áp dụng mức phạt hành chính kịch khung, đình chỉ giấy phép hoạt động của cơ sở và thu hồi giấy phép hành nghề của các bác sĩ liên quan, các cơ quan chức năng cần bổ sung những biện pháp, chế tài đủ sức răn đe và kéo dài hiệu quả ngăn ngừa vi phạm!”
-
Loại A vì “uất hận” có sắc thái quá mạnh, không phù hợp với văn phong khách
quan của bài viết.
-
Loại B và D vì không phù hợp với nội dung của đoạn trích
→
C là đáp án đúng vì đoạn trích nhấn mạnh các hành vi vi phạm đạo đức và pháp luật
trong một số cơ sở y tế tư nhân, sử dụng các từ ngữ như “vẽ bệnh moi tiền”, “thiếu
đạo đức”, “gây căm phẫn trong dư luận”. Giọng điệu thể hiện rõ sự phẫn nộ đối với
những hành vi này và lên án mạnh mẽ, kêu gọi xử lý nghiêm minh.
“Quá trình đẩy mạnh phát triển ngành công nghiệp văn hóa ở nước ta hiện nay cũng nảy sinh một số bất cập, hạn chế, đáng quan tâm, lo ngại, trong đó có cả nguy cơ “đổi màu” văn hóa dưới nhiều hình thức.
Thực tế cho thấy, khi thực hiện các hoạt động phát triển công nghiệp văn hóa, không ít cơ sở sản xuất, kinh doanh sản phẩm, dịch vụ văn hóa vì mục tiêu câu khách, thu hút người sử dụng để thu nhiều lợi nhuận đã bất chấp tất cả, chạy theo thị hiếu văn hóa tầm thường, thấp kém của một bộ phận công chúng.
Một số tổ chức, cá nhân sẵn sàng đưa ra thị trường những sản phẩm, dịch vụ không phù hợp, phản văn hóa mang tính khiêu dâm, bạo lực, đi ngược lại thuần phong mĩ tục và chuẩn mực giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Cũng vì lợi nhuận và để hút khách, những cá nhân, tổ chức này đã thương mại hóa văn hóa bằng mọi cách thức, chiêu trò. Như việc “cách tân”, tàn phá những giá trị đặc sắc lâu đời của các công trình văn hóa, di tích lịch sử, biến tấu tùy tiện, thô thiển các chương trình lễ hội văn hóa truyền thống, các sản phẩm văn hóa,... Hậu quả của việc làm này đã khiến cho văn hóa dân tộc đứng trước nguy cơ bị biến tướng, phai màu, đổi màu, mất đi bản sắc tốt đẹp vốn có.”
-Loại A vì nội dung câu văn chỉ nói về hậu quả.
-Loại B vì nội dung câu văn chỉ nói về nguyên nhân.
-Loại D vì nội dung câu văn chỉ đề cập đến một biểu hiện cụ thể của hiện tượng
→C là đáp án đúng vì nội dung câu văn khái quát vấn đề chính là những bất cập, hạn chế và nguy cơ “đổi màu” văn hóa trong quá trình phát triển ngành công nghiệp văn hóa.
“Tại nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam tình trạng xâm hại phụ nữ trên không gian mạng diễn ra phức tạp, mức độ ngày càng gia tăng, nhất là các hành vi bạo lực và quấy rối tình dục. Báo cáo thực trạng trẻ em gái thế giới năm 2020, do Plan International (một tổ chức phát triển nhân đạo quốc tế, tập trung vào trẻ em) thực hiện tại 31 quốc gia với hơn 14.000 trẻ em gái và phụ nữ trẻ cho thấy 58% số trẻ em gái được khảo sát đã bị quấy rối và xâm hại trực tuyến, và 85% trong số họ đã trải qua nhiều loại bạo lực trên cơ sở giới. Số liệu khảo sát của Trung tâm Đổi mới quản trị quốc tế (CIGI) tổng kết năm 2023 cho thấy, gần 30% số phụ nữ báo cáo những tác động tiêu cực đến sức khỏe tâm thần của họ sau khi trải qua bạo lực giới trên không gian mạng. Từ đây cho thấy, dù diễn ra ở đâu thì việc các đối tượng tội phạm nhằm vào phụ nữ cũng đã và đang để lại nhiều hệ lụy nặng nề, gây tổn thương sức khỏe thể chất và tinh thần của nữ giới, tác động tiêu cực tới mọi mặt đời sống, ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng sống của họ.”
Dựavào câu chủ đề ở đầu đoạn văn: “Tại nhiều quốc gia, trong đó có Việt Namtình trạng xâm hại phụ nữ trên không gian mạng diễn ra phức tạp, mức độ ngày càng gia tăng, nhất là các hành vi bạo lực và quấy rối tình dục.” cùng với các số liệu và hậu quả của tình trạng xâm hại phụ nữ trên không gian mạng
→Nội dung chính của đoạn trích là: Tình trạng xâm hại phụ nữ trên không gian mạng.
“(1) Phim Việt Nam rất ít xuất hiện trong mạng lưới phát hành ở nước ngoài, mà hầu như chỉ được biết đến qua một số liên hoan phim quốc tế và khu vực, các tuần phim, tuần văn hóa, và số người được xem phim Việt Nam còn rất khiêm tốn, dẫn đến hiệu quả quảng bá về đất nước cũng chưa tương xứng với tiềm năng.
(2) Có hai nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng này, thứ nhất là do chúng ta thiếu những bộ phim xuất sắc có thể chinh phục khán giả quốc tế. Thứ hai là vẫn chưa có sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ, hiệu quả từ các ngành chức năng và các cơ quan có liên quan khiến nhiều chủ trương, kế hoạch chưa thể triển khai hiệu quả.
(3) Thí dụ như trong lĩnh vực hợp tác làm phim ở Việt Nam với nước ngoài cũng đang còn tồn tại nhiều vướng mắc như thủ tục có lúc, có nơi còn chồng chéo, có trường hợp được cấp giấy phép quay phim từ Trung ương, nhưng lại mắc về thủ tục tại địa phương, hoặc cơ quan này đồng ý song cơ quan khác chưa phê duyệt; chưa có cơ chế ưu đãi về tài chính; thủ tục xuất nhập cảnh trang thiết bị chậm trễ và phức tạp; dịch vụ liên quan quá trình làm phim nhỏ lẻ và chưa chuyên nghiệp...”
Trongđoạn (2), tác giả đưa ra 2 nguyên nhân chính và phân tích từng nguyên nhân mộtcách cụ thể
→Thao tác lập luận chính được sử dụng trong đoạn (2) là phân tích.
“Để lừa gạt người dùng mạng xã hội về sự tàn phá của siêu bão Yagi, một số người đã thu thập, cắt ghép, chỉnh sửa hình ảnh, video của những cơn bão khác đã từng xuất hiện ở Tây Thái Bình Dương như Haiyan, Maysak, Noru,...; hoặc cố tình xuyên tạc về tình hình thời tiết, bịa đặt thông tin như “vỡ đập thủy điện Cốc Ly (Lào Cai)”, “Phượng Hoàng, Thanh Hà (Hải Dương) vỡ đê rồi”, “EVN cắt điện toàn Hà Nội”, “nhắn tin để được tặng dung lượng 5G miễn phí của Viettel”,... Một số người nổi tiếng tranh thủ đánh bóng tên tuổi bằng việc tổ chức các đoàn cứu trợ rình rang nhưng chủ yếu mang tính “trình diễn” thay vì quan tâm thật sự đến gia đình các nạn nhân.
Chưa dừng lại ở đó, một số đối tượng còn cố tình đánh cắp hình ảnh, video cá nhân, dựng thành những câu chuyện sống sượng để mua nước mắt cộng đồng mạng như “em bé mất mẹ sau cơn lũ”, “chiến sĩ cứu hộ hy sinh”, “tình nguyện viên thiệt mạng”… bất chấp những cá nhân được nhắc đến trong các bài viết, video này vẫn đang sống, học tập, làm việc bình thường.
Nhiều nạn nhân buộc phải lên mạng xã hội để đính chính những tin đồn ác ý này. “Đục nước béo cò”, một số đối tượng đứng lên kêu gọi quyên góp tiền từ thiện giúp đỡ nạn nhân bão lũ nhưng thực chất là lừa đảo để trục lợi. Nguy hiểm hơn, các thế lực thù địch ra sức khai thác các thông tin xuyên tạc, sai sự thật về tình hình bão lũ, từ đó chỉ trích, lên án công tác phòng, chống thiên tai của Đảng, Nhà nước và chính quyền địa phương.”
-Loại B vì đoạn trích tập trung vào mô tả các hành vi, không phải hậu quả cụ thểtừ những hành vi tiêu cực, phản cảm của một số cá nhân, tổ chức trong và sau siêu bão Yagi.
-Loại C vì lối sống “phông bạt” chỉ là một phần nhỏ được nhắc đến trong đoạn trích.
-Loại D vì hành vi xuyên tạc, thông tin sai sự thật cũng chỉ là một phần nhỏ được nhắc đến trong đoạn trích.
→ A là đáp án đúng vì nội dung chủ yếu được phản ánh trong đoạn trích là những hành vi tiêu cực, phản cảm, gây bức xúc dư luận của một số cá nhân, tổ chức trong và sau siêu bão Yagi.
“Một thói quen sử dụng tiếng Việt đã hình thành không chỉ trên mạng mà ngay trong đời sống hằng ngày. Việc nói tiếng Việt có xen từ tiếng Anh ngày càng được nhiều người coi là bình thường. Một số từ thuần Việt đang dần mất đi, nhường chỗ cho các từ tiếng Anh, thậm chí những từ ghép thuần Việt cũng bị biến thành “nửa nạc nửa mỡ” kiểu như “Thứ high” (Thứ 2), “Thứ bar” (Thứ ba), “xỉu up, xỉu down” (xỉu lên, xỉu xuống)... Từng có một Giáo sư ngôn ngữ phải thốt lên: “Tìm một người trẻ giao tiếp bằng từ ngữ thuần Việt không còn dễ”.
Không chỉ chuyện pha tạp tiếng Anh trong việc sử dụng tiếng Việt, một hiện tượng khác cũng rất đáng lưu tâm, là cách các cư dân mạng dùng tiếng Việt trên mạng xã hội theo những cách thức có chiều hướng làm méo ngôn ngữ mẹ đẻ. Hiện tượng nói lái, viết chệch tiếng Việt trở thành “cơm bữa”, gần như không mấy ai băn khoăn. Chẳng hạn, từ “chị” biến thành “chệ”, “vâng” biến thành “vưng”, “tình yêu” thành “tìn iu”, “ngon” biến thành “nhon”, “yêu thế” biến thành “iu xế”, “không” thành “khum”... Tất nhiên việc nói/viết chệch đi như vậy chỉ nhằm mục đích làm cho không gian chuyện trò dễ thương, vui vẻ thân mật hơn, nhưng nếu không ý thức sâu sắc về điều này thì rất có thể dẫn đến sự méo mó của tiếng Việt, khi thói quen nói và viết như vậy ngày càng trở nên phổ biến.”
Đoạntrích thể hiện sự lo ngại của người viết trước việc sử dụng tiếng Việt không đúng đắn do lạm dụng từ ngữ tiếng Anh và các cách nói/viết sai lệch, làm mất đi sự trong sáng của ngôn ngữ mẹ đẻ.
- Loại A vì trong đoạn trích, tác giả không sử dụng các từ ngữ hay câu văn thể hiện sự phẫn nộ.
- Loại B vì đoạn trích thể hiện sự lo ngại và cảnh báo về việc sử dụng tiếng Việt không đúng đắn, không phải đồng tình.
- Loại D vì trong đoạn trích, tác giả không sử dụng các từ ngữ hay câu văn thể hiện sự xót xa trước hiện tượng.
→C là đáp án đúng, đoạn trích bộc lộ thái độ phê phán các hiện tượng làm mất đisự trong sáng của tiếng Việt.
“Nhân vật chính của Bảo Ninh là lính trận ở cả hai phía, là những thiếu nữ mỏi mòn nhung nhớ ở hậu phương, những cô thanh niên xung phong bị lãng quên trong rừng sâu tút hút, những người mẹ âm thầm ở quê nhà vô vọng gọi con nơi chiến tuyến. Những người ra đi phần lớn còn rất trẻ. Họ tràn trề sức sống, non dại, trong vắt. Một số ít trong họ rất mực tài hoa, quả cảm và quyết liệt. Dường như tất cả những người đẹp nhất, đáng kì vọng nhất của thế hệ này, nghiệt ngã thay, đều thành nạn nhân của chiến tranh (Hà Nội lúc không giờ, Trại 7 chú lùn, Gọi con). Những người may mắn thoát khỏi cuộc chiến chẳng còn cảm nhận được vinh quang, bởi thân thể rã rời, tàn tạ, già nua, tâm hồn bệch bạc. Họ lận đận, khó khăn khi thích ứng, luôn bị kí ức sừng sững ngăn cách, vò nhàu để rồi có nguy cơ mắc kẹt đâu đó trong quá khứ đau nhói tàn tích bom đạn (Rửa tay gác kiếm).”
- Loại A vì nhân vật trong truyện ngắn “Rửa tay gác kiếm” chỉ tập trung vào một truyện ngắn cụ thể, trong khi đoạn trích miêu tả các nhân vật trong nhiều tácphẩm của Bảo Ninh.
- Loại C vì nhân vật trong truyện ngắn của Bảo Ninh không đủ rõ ràng về việc đề cập đến các nhân vật chính trong truyện ngắn về chiến tranh của ông.
- Loại D vì nhân vật người lính chỉ là một kiểu nhân vật chính được đề cập trongđoạn trích.
→Chủ đề của đoạn trích là nhân vật chính trong truyện ngắn viết về chiến tranh của Bảo Ninh.
“Thơ ca vốn tránh nói thẳng tuột tình cảm của mình, nhưng ở đây, việc tác giả hạ một câu thơ đầy cảm thán: “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”, thiết nghĩ không lúc nào hợp hơn, và xúc động hơn. Càng đáng yêu, đáng cảm động biết bao cách thể hiện tình cảm của những người lính, từ tiếng “đồng chí” thốt lên âm thầm trong đêm, đến cái nắm tay sẻ chia giữa trời sương buốt giá, tất cả đều “lời ít, ý nhiều”...”
Đoạn trích thể hiện sự khen ngợi đối với cách thể hiện tình cảm của những người lính trong thơ ca, đặc biệt là trong việc sử dụng hình ảnh “Thương nhau tay nắm lấybàn tay” và cách thể hiện tình cảm qua những lời nói ít nhưng đầy ý nghĩa.
→Giọng điệu chủ đạo của đoạn trích trên là khen ngợi.
“Tùy văn của Nguyễn Linh Khiếu mang đậm chất thơ và gần gũi với tâm thức người đọc. Nếu thơ ông ít nhiều có sự khó tiếp cận với nhiều bạn đọc thì tùy văn lại vô cùng giản dị, súc tích, dễ đọc. Ông viết về những vẻ đẹp ẩn giấu trong dân gian, vẻ đẹp của mỗi vùng đất mà ông đi qua, mỗi con người mà ông được gặp gỡ, mỗi đời sống mà ông được trải nghiệm... bằng sự chân thật, run rẩy của một trái tim nhiệt thành và tận hiến.”
Câu văn in đậm so sánh sự khác biệt giữa thơ và tùy văn của Nguyễn Linh Khiếu. Thơ của ông “ít nhiều có sự khó tiếp cận với nhiều bạn đọc”, trong khi tùy văn lại “vô cùng giản dị, súc tích, dễ đọc”
→Thao tác lập luận được sử dụng trong câu văn in đậm là so sánh.
“Về đề tài chiến tranh, cách mạng, có thể thấy các sáng tác mang tính chất tự thuật như nhật kí, hồi kí, tự truyện đã được viết như một nhu cầu bức thiết của bản thân tác giả. Là người tham gia, chứng kiến các cuộc chiến và các sự kiện lịch sử trọng đại, họ mong muốn được ghi dấu lại tất cả. Bởi thế mà những cuốn nhật kí đã được viết, ghi lại tỉ mỉ các sự kiện diễn ra hàng ngày trong quá trình sống và chiến đấu của họ. Song song với hàng loạt cuốn nhật kí đã được xuất bản từng gây ra nhiều chấn động trong dư luận như Nhật kí chiến tranh của Chu Cẩm Phong, Mãi mãi tuổi hai mươi của Nguyễn Văn Thạc, Nhật kí chiến trường của Phan Tứ, Nhật kí Đặng Thùy Trâm của Đặng Thùy Trâm..., các cuốn hồi kí chiến tranh cũng xuất hiện như một nghĩa cử tri ân của các tác giả đối với quá khứ và đồng đội của mình.”
Phầnin đậm trong đoạn trích liệt kê các cuốn sách cụ thể như Nhật kí chiến tranh của Chu Cẩm Phong, Mãi mãi tuổi hai mươi của Nguyễn Văn Thạc, Nhật kí chiến trườngcủa Phan Tứ, và Nhật kí Đặng Thùy Trâm làm minh chứng cho luận điểm về các cuốn nhật ký và hồi ký chiến tranh. → Đây là dẫn chứng để hỗ trợ quan điểm của tác giả.
“Cuộc đời của gia đình bác Lê cứ như thế mà lặng lẽ qua ngày nọ rồi lại đến ngày kia. Tuy vậy cũng có những ngày vui vẻ. Những ngày nắng ấm trong năm, hay những buổi chiều mùa hạ, mẹ con bác Lê cùng nhau ngồi chơi ở trước cửa nhà. Các người hàng xóm cũng làm như thế, các bà mẹ ngồi rủ rỉ với nhau những câu chuyện kín đáo; các trẻ con nô đùa dưới quán chợ, còn các bà già thì ngồi giũ tóc cho chúng và gọt tóc chúng bằng mảnh chai sắc. Thằng cả ngồi đan lại cái lờ. Còn những đứa khác chơi quanh gần đấỵ Trong những ngày hè nóng bức, con bác Lê đứa nào cũng lở đầu. Bác ta bảo là một cái bệnh gia truyền từ đời ông tam đại nên bác lấy phẩm xanh bôi cho chúng nó. Trông mẹ con bác lại càng giống mẹ con một đàn gà, mà những con gà con người ta bôi xanh lên đầu cho khỏi lẫn. Người phố chợ thường nói đùa bác Lê về đàn con đông đúc ấy. Bác Đối kéo xe, người vui tánh nhất xóm, không lần nào đi qua nhà bác Lê mà không bảo:
- Bác phải nhớ thỉnh thoảng đếm lại con không quên mất.
Bác Lê bao giờ cũng trả lời một câu:
- Mất bớt đi cho nó đỡ tội.
Nhưng mọi người biết bác Lê quý con lắm. Tuy bác hết sức công bằng, người ta cũng thấy bác yêu thằng Hy hơn cả. Nó là con thứ chín, ốm yếu, xanh xao nhất trong nhà. Bác thường bế nó lên hôn hít, rồi khoe với hàng xóm, nội cả nhà chỉ có nó là giống thầy cháu như đúc. Rồi bác lại ôm con ngồi lặng yên một lát, như để nhớ lại chuyện gì đã lâu lắm.”
“Vẫn phía khu rừng tràm có bóng xuồng và mất hút vào tối tăm. Nửa đêm thì có tiếng súng rộ ở phía bốt Cầu Ngang. Tiếng súng nổ rất lâu rồi lửa cháy sáng một góc trời. Có dễ đánh nhau to. Gần sáng, trời vẫn mờ mờ, tôi đang lúi húi thu lưới thì nghe tiếng chèo khỏa nước gấp gáp. Tôi căng mắt nhìn qua ánh đèn soi cá và chợt kêu: “Chị Ngàn!”. Chị bảo: “Khe khẽ chớ Kiên”. Chị đội cái mũ tai bèo, mặc bộ đồ bà ba đen tối hôm thả lưới vẫn thường mặc. Dưới lòng xuồng là một người con trai mặc quân phục xanh lá cây. Cái mũ tai bèo đặt hờ trên bụng ảnh, trán quấn băng trắng. Tôi nhận ra có một cái gì đó rất hệ trọng. Chị nói vội vã: “Chị đi kẻo trời sáng”. “Thế ra chị là...”. “Thôi, giữ cho chị cái nè, cái ảnh chị đó, Kiên à”. Tôi cầm nhanh ấn vào túi ngực. “Còn cái nè đưa cho má chị khi nào con út Nga lớn nó dùng, cái vòng đeo tay làm bằng mai rùa Kiên cho chị đó”. “Chị Ngàn. Chị định đi luôn sao?”. “Chị sẽ dìa. Nói giùm má chị cứ yên tâm”. Chị xoa xoa tay lên đầu tôi rồi bất chợt kéo đầu tôi ôm vào ngực chị. Hai con xuồng chòng chành, chòng chành, chị buông tôi ra: “Thôi chị đi kẻo mấy ảnh chờ”. [...]
Chị Ngàn đi một tháng không về, ba tháng không về, chẵn tám tháng thì giải phóng cũng không về. Tôi lớn lên, rồi vô bộ đội chủ lực, đánh đấm liên miên ở biên giới. Thư má tôi viết cũng nói chị Ngàn chưa thấy về ấp. Một thời gian nữa, má tôi biên thư báo tin gia đình bác Tám đã chuyển về phố huyện...”
“Hôm nay sinh nhật con gái. Nó tròn mười sáu tuổi. Mặt con gái tôi giống người bố của nó. Nó không bao giờ biết được điều đó vì khi nó hiện hữu trên đời này thì người thực sự là bố của nó đã ở một nơi xa tít tắp. Bây giờ, khi tôi bốn mươi tuổi, chợt thấy tại sao lâu nay mình để tuổi thơ của con trôi qua trong nỗi buồn của sự cô đơn và hứng chịu nỗi cay đắng của một người đàn bà bị phụ bạc. Bỗng nhiên, lâu lắm rồi, tôi mới lại thấy tội nghiệp nó. Ngày xưa, đã một lần tôi thấy tội nghiệp nó, khi nó chạy ra đón tôi đi họp về. Nó với tay đỡ lấy bó hoa của tôi, và ngã lăn xuống cầu thang. Máu trên đầu nó loang xuống mặt. Nó không khóc, chỉ mím môi lại và bảo: “Không sao đâu mẹ ạ. Con không đau đâu. Mẹ về, con mừng quá”. Tôi đỡ nó dậy và nói: “Thì đã bao giờ mẹ không về đâu. Chỉ có sớm hay muộn thôi”. Nó hơi cố cười. Dù sao tôi biết lúc ấy, nó rất đau: “Mẹ về sớm, hôm nay là sinh nhật con, mẹ mua hoa cho con, con sung sướng quá nên chạy ra đón”. Tôi cay đắng nhận ra là con nói với tôi bằng tất cả tình cảm và sự mong chờ tình yêu của tôi với nó. Còn tôi. Lúc ấy, tôi không hề nhớ rằng ngày hôm nay là sinh nhật nó. Bó hoa ấy cắm ở hội nghị. Tan cuộc họp, hai ba người đàn ông loe xoe lôi nó ra khỏi những cái lọ và kính cẩn tặng tôi. Họ rất biết kết hợp những nhu cầu của bản thân và hoàn cảnh khách quan bên ngoài, làm sao vừa được lòng những người đàn bà như tôi. Và họ thì chẳng mất gì cả. Chỉ có con tôi là khổ thôi.”
“Năm nay trời rét đậm hơn mọi năm, lại rét muộn nữa. Rét muộn thì sẽ rét lâu rét dài, tháng ba tháng tư có nắng rồi vẫn rét. Ra giêng hoa đào hoa lê mới đua nhau nở, ai cũng bảo năm nay Tết mùng năm tháng năm sẽ mất vui. Nhưng Tết mùng năm còn lâu mới tới, trời thay đổi tính nết thì con người khổ, khổ vì gieo hạt ngô lúa xuống đất mãi vẫn chưa thấy lá chồi lên. Đất càng ngày càng khô đi. Ở những nương đá mới xếp đất xẹp gí xuống, đợi hạt giống đâm mầm lá lên mới bón thêm phân được. Nhưng lo thì cứ lo vậy thôi, hội hai bảy vẫn chẳng kém vui hơn mọi năm đâu.”
“Mỗi tháng hai chị em chạy tiếp sức quán cơm bà chủ thanh toán sáu trăm nghìn đúng ngày mồng hai tháng sau. Hai chị em tính một công vì còn phải thay nhau đi học nhưng đã trang trải đủ học phí tiền nọ tiền kia, thậm chí đã mua được quà sinh nhật vì hầu như tuần nào cũng có lời mời dự sinh nhật... Hai chị em không ăn cơm ở quán. Kiếm cái nồi cơm điện rẻ tiền bỏ ít gạo vào cắm điện kí túc để nồi gầm giường. Bạn bè biết hai đứa nghèo không ai nói gì với quản lí. Cứ thế rồi cảm thấy mình lớn lên. Rồi chịu đựng nổi cái nhìn ông chủ viên chức nhà nước ngành xã hội chiều về hay lại quầy lấy chai bia. Chịu đựng được lời mời chào đi hát với tớ tớ giới thiệu anh này siêu giàu. Chịu đựng được gã nào đó tuần nào cũng gửi tới cái thiếp ướp nước hoa “đến công ty anh giới thiệu việc làm phù hợp lương cao chót vót học làm gì cho phí nhan sắc?”. Gã nào đó khá dai nghe nói nhiều hôm đến quán cơm ăn nhưng không ra mặt...
Cạm bẫy giăng đầy. Ông ơi! Nhưng dòng máu sạch giống như dòng nước chảy từ nguồn ông ơi. Không ai ngăn được! Ông đừng lo.”
⟶ Đoạn trích tập trung khắc hoặc phẩm cách trong sạch, thuần khiết, bất chấp cuộc sống xô bồ, nhiều cạm bẫy chốn thành thị ở các nhân vật “hai chị em”. Đáp án: D
“Anh kể, ngõ phố nhà anh rục rịch đón tết, chăng đèn kết hoa đủ kiểu. Một cái ngõ dài vài trăm mét, cờ đỏ sao vàng treo bên trên, bên dưới giăng một hàng dài cả trăm cái đèn lồng đỏ. Đèn lồng đỏ. Hỏi một cụ sao lại treo đèn lồng đỏ, cụ bảo treo thế cho nó đẹp, cho nó khí thế, cho nó tưng bừng. Lại hỏi một cụ đứng bên cạnh, cụ có biết cái đèn lồng đỏ nó là cái gì không. Chịu, thấy nó rực rỡ thì treo vậy thôi. Thưa với các cụ, nó là hình quả thuốc phiện.
Một cụ gật gù ờ ờ nhỉ, lại cứ nghĩ nó là truyền thống dân tộc.
Vâng thưa cụ, truyền thống dân tộc thật, nhưng nó là dân tộc Trung Hoa. Ngày xưa đèn lồng hình quả thuốc phiện này treo trong các vương phủ, các hành cung, để tăng kích thích khoái lạc cho vua chúa. Treo nó trên những phố đèn đỏ nhà chứa cũng là nhằm mục đích khoái lạc ấy. Không nói với các cụ, nhưng anh nghĩ thêm, bây giờ thì đến cả chùa chiền cũng treo đèn lồng đỏ, lễ hội người Việt cũng đèn lồng đỏ, mít tinh hội nghị cũng đèn lồng đỏ. Chẳng biết còn có sự kiện gì của sở Văn hóa cũng treo đèn lồng đỏ hay không.”
“Như vậy được hơn một tháng, một hôm đương lúc ngồi nhàn. Dĩ Thành thấy một người tự xưng là sứ giả của Minh Ty, đến xin mời chàng đi. Dĩ Thành toan lảng tránh, thì người ấy nói:
- Đó là mệnh lệnh của đức Diêm Vương. Vì ngài thấy ông là người cương nghị, định đem phẩm trật tặng cho, chứ không làm phiền gì đâu, đừng nên từ chối. Có điều là xin để cho ông được rộng kì hạn, ông sẽ tự đến, tôi đợi ông ở dọc đường.
Nói xong không thấy đâu nữa.”
⟶ Nhân vật Dĩ Thành được khắc hoạ bằng cách hiện lên qua lăng kính của nhân vật khác. Đáp án: B
“Người chồng là tay thợ săn cự phách. Khẩu súng kíp trong tay lão như có mắt. Mỗi khi khẩu súng giơ lên, ít khi có chim chóc hoặc thú rừng nào thoát chết. Đằng sau nhà lão, lông chim, xương thú chất đầy thành đống. Những đống lông chim xơ xác đen xỉn như màu mực tàu, còn những đống xương thú màu đá vôi thì lốm đốm những vệt nước tủy vàng khè, hôi hám. Những đống ấy to như những cái mả. Lão thợ săn như là hiện thân thần Chết của rừng. Chim chóc và thú rừng sợ hãi lão. Cánh thợ săn ở Hua Tát vừa ghen tị, vừa bất bình với lão. Lão không tha bất cứ con vật nào trong tầm súng của mình. Có người kể rằng đã tận mắt nhìn thấy lão bắn chết một con công đang múa. Một con công đang múa nhé: cái đầu cong như lá lúa, cái đuôi xòe nửa vòng cung với đủ màu sắc, tia nắng mặt trời hắt ánh lửa lấp lánh như vàng, đôi chân kheo khéo lượn vòng. Chỉ có tình yêu thì mới lượn vòng tinh tế như thế. Con công đang múa, thế mà - “Đùng” - khẩu súng trong tay lão già giật lên, phụt ra một lưỡi lửa đỏ. Con công ngã gục, cái cánh có ánh cầu vồng ngũ sắc nhòe máu. Vợ lão già đến, khô đét, đen ngòm, âm thầm nhặt con công cho vào cái lếp sau lưng.”
“Nhưng có lần, nó đến gần mọi người, và khi họ xông vào nó thì nó đứng yên không nhúc nhích, không hề tỏ ý định tự vệ. Thế là một người trong bọn họ đoán ra và thét lớn:
- Đừng động đến nó! Nó muốn chết đấy!
Mọi người dừng lại, không muốn giảm nhẹ số phận của kẻ đã làm hại họ, không muốn giết nó. Họ dừng lại và cười nhạo nó. Còn nó run lên khi nghe tiếng cười của họ, hai tay túm lấy ngực, tìm kiếm cái gì trên ngực, bỗng nhiên nó nhặt một hòn đá và xông vào họ. Nhưng họ dạt cả ra tránh nó và không đánh nó một cái nào, rồi khi nó mệt lả, thét lên một tiếng ai oán và ngã vật xuống đất thì họ lùi ra xa đứng nhìn nó. Nhưng nó bỗng đứng lên, nhặt lấy con dao không rõ của ai đã đánh rơi trong lúc xô xát với nó, và tự đâm vào ngực. Nhưng con dao gãy gập như đâm phải đá. Nó lại ngã nhào xuống và cứ đập đầu xuống đất mãi. Nhưng đất tránh né nó, lún sâu xuống mỗi khi đầu nó đập xuống.
- Nó không thể nào chết được! - Mọi người sung sướng nói.
Họ kéo nhau đi, bỏ mặc nó. Nó nằm ngửa mặt lên trời và thấy những con đại bàng dũng mãnh lượn tít trên trời cao như những chấm đen nhỏ. Cặp mắt nó chứa chất biết bao buồn khổ, tưởng chừng có thể đủ để đầu độc cả nhân loại. Thế rồi từ đấy, nó vẫn cô độc một mình, tự do và chờ đợi cái chết đến với nó. Cho đến giờ nó chỉ còn là cái bóng và sẽ như vậy mãi mãi. Nó không hiểu cả tiếng nói lẫn hành động của mọi người, nó chẳng hiểu gì cả. Nó vẫn tìm kiếm, đi lại đây đó... Nó không có cuộc sống, cái chết cũng không rước nó đi. Nó không có chỗ dung thân giữa mọi người. Đấy, một con người bị trừng phạt về tội kiêu ngạo như thế đó!”
⟶ Theo đoạn trích, sự trừng phạt lớn nhất đối với một kẻ kiêu ngạo là sự cô độc. Đáp án: A
“Đó là năm 1972.
Tiểu đội trinh sát của tôi được bổ sung một lính mới, rất trẻ, vừa tròn mười tám tuổi. Cậu ta tên là Minh, người Hà Nội. Tuổi trẻ mà, chúng tôi quý nhau ngay như anh em ruột thịt. Một đêm mưa rừng, cánh lính trẻ chúng tôi mắc võng nằm tán gẫu... Tôi lấy tấm hình vợ chưa cưới của mình ra cho đồng đội xem. Đến lượt Minh, cậu ta cầm tấm ảnh trên tay bỗng cười cười cất tiếng:
- Vợ chưa cưới của tiểu đội trưởng rất đẹp... Nhưng chưa đẹp bằng người yêu của em.
Cả tiểu đội nhao nhao:
- Ảnh đâu!... Đưa ra đây xem nào?
Minh gãi đầu buồn bã:
- Các vị quên à?... Trước khi đi B, cấp trên chẳng thu hết các giấy tờ, các tấm ảnh của người thân rồi còn gì.
- Sao mày không cố giấu lấy tấm hình của người yêu?
- Ngày đó không biết, nghe lời cấp trên mới ngốc chứ!
- Người yêu làm nghề gì?
- Học sinh trường múa Việt Nam.
- Trời!
Tất cả trầm trồ xuýt xoa. Bởi chắc chắn rằng học sinh trường múa phải đẹp hớp hồn. Có tiếng nói lại vang lên:
- Tên là gì?
- Tên là Hạnh.
- Làm quen... Và yêu như thế nào, kể cho bọn tao nghe đi.
Minh lại cười cười.
- Ờ thì kể. Nhưng cấm mọi người được cười đấy.”
⟶ Trong đoạn trích, đặc điểm không được khắc hoạ ở nhân vật Minh là dũng cảm. Đáp án: C
“Một đời người mà chiến chinh nhiều quá
Em níu giường níu chiếu đợi anh
Em tránh những người con trai đẹp
Đợi anh
Chỉ mong anh về
Áo rách cũng thơm
Chiếc chạn nhỏ với vài đôi đũa mộc
Anh cứ tưởng sau chiến tranh chỉ toàn là hạnh phúc
Chúng ta đã từng vò võ đợi nhau
Nhưng không phải em ơi, cuốc kêu không phải thế”
“Những ngón chân xương xẩu, móng dài và đen toẽ ra như móng chân gà mái
Đã năm năm, mười lăm năm, ba mươi năm và nửa đời tôi thấy
Những người đàn bà xuống gánh nước sông
Những bối tóc vỡ xối xả trên lưng áo mềm và ướt
Một bàn tay họ bám vào đầu đòn gánh bé bỏng chơi vơi
Bàn tay kia bấu vào mây trắng
Sông gục mặt vào bờ đất lần đi
Những đàn ông mang cần câu và cơn mưa biển ra khỏi nhà lặng lẽ
Những con cá thiêng quay mặt khóc
Những chiếc phao ngô chết nổi
Những người đàn ông giận dữ, buồn bã và bỏ đi”
⟶ Trình tự các từ chỉ số lượng trong bài thơ (“bốn” - “ba” - “đôi”) có ý nghĩa là biểu đạt cho sự rút ngắn, thu hẹp dần khoảng cách giữa “em” và “anh”, từ đó bộc lộ khao khát gần gũi, yêu thương trong cô gái, bất chấp sự cách trở của không gian địa lí. Đáp án: B
“Hôm nay đi chùa Hương
Hoa cỏ mờ hơi sương
Cùng thầy me em dậy
Em vấn đầu soi gương.
Khăn nhỏ, đuôi gà cao
Em đeo dải yếm đào
Quần lĩnh, áo the mới
Tay cầm nón quai thao.”
BUỔI CHIỀU CUỐI CÙNG
(Nguyễn Thuý Quỳnh)
Sách đã gọn gàng trên kệ
Sàn nhà sạch bong
Chậu cảnh cuối cùng đã tưới xong
Người khách cuối cùng rời đi sau một lời chúc đẹp
Cầu dao đã dập
Cả tòa nhà cơ quan lặng phắc
Chỉ còn ta với ấm trà vừa pha
Pha trà đãi khách
Khách chưa kịp chờ trà ngấm đã vội đi
Ngoài kia nườm nượp chợ đông
Trăm nghìn âm thanh theo Tết về
Người rẽ lao xao tìm lối
Ta làm chi với ấm trà bé nhỏ
Đang lặng lẽ tỏa hương?
Thanh khiết còn một chút này
Tĩnh lặng còn một chút này
Năm cũ chiều nay chưa qua
Năm mới ngày mai chưa tới
Ta một mình trong nhập nhoạng chiều
luẩn quẩn nghĩ về việc làm sao mang theo, làm sao để lại.
Trà một mình thơm.
“Lần đầu gặp nhau tình đầu chưa có
Chỉ nhớ mắt đầm má non tay nhỏ
Chiều vẩn vơ leo tầu điện trốn về nhà
Tối lẽo đẽo theo trăng về nẻo nhớ
Môi rằm đầu run bắn nụ hôn mơ
Bím thắt tóc đôi
Miệng cười trong vắt
áo sáng hồn nhiên ngực hiền mây ấm lòng lành
quyết liệt nhân từ long lanh...”
“Nếu một ngày có ai ngang qua cửa
Thì đó là cơn gió
có thể là cơn gió đó thôi
ngang qua cửa đùa chơi
như trẻ nhỏ
Lẽ gì khi về già
mình lại ngóng có ai ngang qua cửa,
như một niềm vui
nho nhỏ
Ngày chiến tranh nhiều đêm đi một mình giữa rừng
không hề cô đơn
sao bây giờ ở phố
cứ nhìn mãi cơn gió ngang qua cửa”
BUỔI CHIỀU
(Nguyễn Linh Khiếu)
thế là mùa đông đã đến
giọt mưa lạnh buốt buổi chiều
con đường ngày qua hoa nở
cây đơn độc đứng liêu xiêu
buổi chiều lặng nghe tiếng mưa
những giọt cuối cùng rơi xuống
gió lạnh đứng ngoài cửa kính
rét run khóc lóc từng hồi
thế là mùa thu đi rồi
những bông hoa mùa thu ấy
thế là đi rồi cô gái
mắt nai ngơ ngác của tôi
buổi chiều nghe giọt mưa rơi
những bông hoa mùa thu ấy.
⟶ Cô gái ra đi không phải là yếu tố gợi tả bối cảnh nảy sinh tâm trạng của nhân vật trữ tình. Đáp án: A
“Rừng sâu đầy bí hiểm. Nhưng rừng sâu cũng là điểm tựa, là chốn nương thân, bởi cuộc đời ta gắn bó với rừng. Ơ thần Núi, thần Sông, thần Mưa, thần Gió, thần Lửa! Thần của các thần!... Ðó là câu mở đầu cho mọi bài cúng, là tiếng kêu gọi thiết tha của các nhân vật trong những bản trường ca hùng tráng dài bất tận, được miệng người già kể, rồi sau đó lan truyền sang con cháu, các thành viên của cộng đồng, từ đời này qua đời khác, như là sự nhắc nhở rằng, cái Núi, cái Sông, cái Lửa, cái Gió, cái Mưa kia không phải tự nhiên mà có. Nó có được là nhờ sự kì diệu của thần linh (Yàng). Yàng vừa là Trời, vừa là thần linh như người Việt vẫn thường gọi, nhưng có cái khác, ấy là ở nơi đây, mỗi vật dụng đều có Yàng của mình.
Mỗi loài cây, loài con cũng có Yàng của mình. Ðối với con người ta, Yàng là thần linh, lại cũng là bạn, là một thành viên trong sinh hoạt cộng đồng, có ưu có khuyết, có đúng có sai. Ưu thì ta học, ta theo. Khuyết thì ta làm lễ “phê bình”, nếu quá nữa ta làm lễ chia tay “li dị” luôn! Tất thảy, nhất nhất đều được hội đồng già làng xét xử và vị già làng có tín nhiệm nhất ra quyết định.”
“Đã bao năm nay như thế. Mỗi lần Hồ Tây lăn tăn ánh vàng nắng thu, mỗi lần những chòm mây mùa thu dãy Ba Vì và dãy Tam Đảo soi vào lòng sóng Hồ Tây, thì (ba mươi sáu) phố phường Hà Nội lại thấy xuất hiện cái bóng dáng êm ả của người gánh cốm Vòng tiến vào theo đường cửa ô Cầu Giấy. Lúc này cũng là lúc khắp nơi nơi, nắng mùa thu đang vẫy những đốm trứng cuốc vào mọi trái chuối tiêu đang vuốt cong lên cái màu vàng ngọt, và nắng mùa thu cũng đang làm bóng lên cái màu đỏ hổ phách bay phấn của những quả hồng trứng cũng đang vểnh hết cả tai hồng lên. Không hiểu đây là sự dàn xếp của mùa thu Việt Nam hay là sự hẹn hò của thời trân phẩm quả mà chuối tiêu trứng cuốc lại hay gặp mùa cốm và cốm lại gặp hồng trứng. Chất nó ăn ý với nhau mà màu sắc nó còn gắn bó với nhau hơn nữa.”
“Quê tôi, chỉ vụ tháng mười khô ráo người ta mới cấy lúa nếp, đương nhiên là lúa nếp cái hoa vàng kén đất hơn mẹ chồng thời ấy kén dâu. Bọn chuột vốn là loại tinh ranh, lại rất sành ăn, thường dồn về những ruộng lúa nếp, cũng là những thửa ruộng gặt sau cùng. Khi cánh đồng lúa thu hẹp dần, lũ chuột buộc phải tìm cách ẩn náu trong hang.
Hang chuột phát hiện không khó. Chúng đầy rẫy trên khắp cánh đồng. Cái khó nhất là đoán xem trong hang có chuột hay không, chuột to hay bé. Khi quyết định tấn công một hang chuột nào đó, chúng tôi có đủ các cách khác nhau. Thông dụng nhất là dùng thuổng đào. Nếu gặp đất rắn, việc đào khó khăn thì có thể dùng ngay rạ trên đồng đốt lên rồi quạt khói hun chuột. Còn có cách nữa là thay nhau múc nước đổ vào tổ hang. Chuột không chịu được khói và nước sẽ phải theo ngách thoát hiểm ra ngoài và chúng tôi chỉ chờ có thế để chịt cổ.”
- Loại B vì chi tiết này thể hiện sự hiểu biết về hành vi của chuột đồng khi cánh đồng thu hẹp và chúng phải tìm chỗ trú ẩn.
- Loại D vì đây cũng là một chi tiết thể hiện sự hiểu biết về tập tính của chuột, cho thấy chúng tìm cách thoát hiểm khi gặp khói và nước.
⟶ C là đáp án đúng vì đây là một phép so sánh mang tính hình tượng, so sánh lúa nếp cái hoa vàng với người mẹ chồng khó tính, không thể hiện sự am hiểu của người viết về giống chuột đồng Đáp án: C
“Sơn Trà bây giờ đã thành một địa điểm du lịch nghỉ dưỡng nổi tiếng cả thế giới. Một quần thể khách sạn và khu resort cực kì cao cấp nương theo cây lá và sinh thái để mọc lên. Khách du lịch đến đây, vừa thư thái hưởng thụ những tiện ích phục vụ xa hoa, lại có thể thả lỏng lòng mình mà nghe gió hát, chim reo, ngắm voọc nâu, voọc trắng chuyền cành thân thiện... Nhiều tỉ phú thế giới đã đến đây nghỉ lại. Có những đám cưới vương giả của con cái những nhà giàu siêu sang trên thế giới đã diễn ra ở đây... Sơn Trà cũng là một địa điểm cho nhiều cuộc gặp gỡ lãnh đạo cấp cao của các quốc gia trên toàn cầu và đã mấy lần được chọn để tổ chức Hội nghị thượng đỉnh APEC. Bây giờ thì cả những nghĩa tình xưa cùng với cả những thù nghịch xưa, đã trở nên bạn bè, là đối tác tin cậy và hiểu biết lẫn nhau, cùng hẹn đến Sơn Trà, để cùng bàn cách làm ăn, cùng phát triển và thịnh vượng.”
- Loại C vì đây là một dẫn chứng rõ ràng minh hoạ cho tính chất du lịch nghỉ dưỡng nổi tiếng của Sơn Trà, với mô tả về các tiện ích và không gian thư giãn, thiên nhiên hấp dẫn.
- Loại D vì đây cũng là một dẫn chứng minh hoạ cho sự phát triển du lịch nghỉ dưỡng của Sơn Trà, với các khu resort cao cấp được xây dựng.
⟶ B là đáp án đúng vì dẫn chứng này liên quan đến các hoạt động chính trị, không minh hoạ cho nội dung “Sơn Trà bây giờ đã thành một địa điểm du lịch nghỉ dưỡng nổi tiếng cả thế giới.” Đáp án: B
“Dọn dẹp xong mới nghĩ đến việc sửa sang sơn tút lại những khoảng tường ố vàng. Những cánh cửa xệ xuống chạm sàn. Gần Tết, cánh thợ nề, thợ mộc làm không hết việc. Công một ngày có khi đến cả triệu đồng gọi họ vẫn không dễ. Khắp phố phường vang dội tiếng máy cắt gạch, máy khoan tường. Thợ thuyền tối đến tụ tập rượu chè rôm rả khắp ngõ xóm. Vài anh hứng chí mang chiếc loa thùng kéo tay ra hát karaoke. Nửa đêm rồi vẫn còn giọng khê nồng nặc “Con biết xuân này mẹ chờ tin con...”. Ông lão hàng xóm không ngủ được thò đầu ra ngoài ban công quát “Tết nhất ai bắt chúng mày ở đây làm gì...”.”
“27.4.70
Thường đã bị bắt sống?!!
Ôi, đứa con trai duy nhất của một bà mẹ già đã suốt một cuộc đời cặm cụi nuôi con, ước mơ hi vọng cũng chỉ là đứa con ấy... bây giờ!!! Ôi đứa em ngoan ngoãn dịu hiền, đứa em sâu sắc và sớm trưởng thành trong cách mạng, đứa em của mình giờ đây đã nằm trong bàn tay đẫm máu của kẻ thù.
Bất giác mình nhớ lại một đêm cuối cùng mình gặp Thường. Hôm ấy ánh trăng mờ đã soi tỏ nét mặt buồn buồn của em, em cầm tay mình nói khẽ: “Chắc lần này không gặp chị nữa đâu”. Mình la em: “Sao lại nói bậy như vậy”. Nhưng giọng em trầm trầm: “Không bậy đâu chị à. Làm cách mạng hi sinh là chuyện thường tình. Em đã sống mười năm nay, may mắn nhiều rồi không lẽ may mắn hoài vậy sao.”.
Chao ôi sao em lại tiên đoán như vậy để hôm nay lòng chị rớm máu khi hay tin em sa vào tay giặc. Vậy là hết đó sao em? Không còn được gặp lại đứa em giản dị hiền lành của quê hương Phổ Hiệp nữa hay sao? Đau buồn bây giờ không thể biểu hiện bằng nước mắt mà hãy bằng ý chí trả thù, bằng sự nghiến răng lại ngẩng đầu mà bước tiếp chặng đường gian khổ.”
“Thì ra phở không những là một món ăn, một sự thích thú cho khứu giác, mà còn là cả một vấn đề; vấn đề ăn phở, vấn đề làm phở.
Muốn thấu triệt hai phương diện của vấn đề, chúng ta cần phải bỏ mấy tiếng đồng hồ lên trước cửa đường Hàng Than để quan sát một hàng phở nổi danh nhất bấy giờ; phở Tráng - mà có người yêu mến quá mực đã gọi (chẳng biết đùa hay thực?) là “Vua phở 1952”.
Tráng là tên ông “Vua phở” này. Nhưng người ta không gọi anh bằng tên, cũng như người ta ít khi gọi những hàng phở ngon bằng tên của người bán, mà gọi bằng tên phố người hàng phở đứng bán (như phở Tráng thì gọi là phở Hàng Than, phở Sứt thì gọi là phở Hàng Khay), hoặc gọi bằng sước hiệu (như phở Lùn, phở Cụt, phở Mũ Đỏ) hoặc gọi bằng đặc điểm nào đó của cái cửa hàng (phở xe đầu Hàng Cá), hoặc gọi bằng tên tự (như phở Đông Mỹ, phở Tân Tân, Phú Xuân) và có khi lại gọi bằng một phù hiệu (như phở Tầu Bay, Tầu Bò)...
Vậy thì ông vua ấy tên là Tráng, nhưng người ta vẫn gọi là phở Hàng Than.”
“Nhà tôi hồi đó nghèo thật, nhưng mua một chiếc máy thu thanh không phải là điều quá khó. Cậu Sáu tôi cũng đi tập kết, về Nam sau cha tôi vài năm, hoạt động ở ngay địa bàn Quảng Ngãi, nhưng không dám về thăm nhà trong vùng quốc gia. Sức khỏe cậu yếu, những năm đó gia đình tìm mọi cách tiếp tế cho cậu, thường là thuốc tây, sữa hộp. Cậu nhắn về cậu cần một chiếc máy thu thanh để phục vụ công tác. Nhà tôi cách trạm giao liên ở vùng giải phóng khoảng năm cây số, để chuyển quà cho cậu, phải đi ngang cánh đồng rộng mênh mông dưới cặp mắt của những người làm ruộng. Dì Bảy tôi gánh một gánh phân hóa học, phủ kín lên những gói thuốc tây, những hộp sữa, những viên pin và chiếc radio giấu bên dưới đáy thúng. Trên đường nếu gặp người quen, dì nói dối đi xuống ruộng rải phân; tìm được giao liên nhờ chuyển cho quà cậu xong, dọc đường về dì rải hết phân cho những đám ruộng của người không quen biết.”
- Loại B vì đây là chi tiết liên quan đến tình huống, nhưng không phải yếu tố gây khó khăn trong việc chuyển quà.
- Loại D vì việc gặp người quen và nói dối không trực tiếp làm nổi bật sự gian nan trong việc chuyển chiếc máy thu thanh so với việc phải giấu nó cẩn thận trong thúng.
⟶ C là đáp án chính xác vì điều này chứng tỏ việc vận chuyển quà cho cậu Sáu phải hết sức thận trọng, trong khi vẫn phải đảm bảo không bị lộ trước mắt những người làm ruộng hoặc các quan sát viên. Đáp án: C
“Nghề văn, sống là để đi, để viết. Nguyễn Tuân đã đi nhiều, đã viết nhiều. Tất nhiên, so với cái diện đi của anh, thì cái anh viết ra hãy còn quá ít. Bệnh xê dịch của anh, lúc nào cũng muốn đi đây đi đó, đều có chủ đích, quan tâm chú mục tới một điều gì...
Sắp đi tới nơi nào, anh đều tìm hiểu nghiên cứu trước kia mà. Ngày kháng chiến chống Mỹ, anh chưa đặt chân tới Cà Mau, tuy nhiên anh vẫn viết về biển trời, đất mặn Cà Mau như người từng sống lâu năm ở đó, khiến Anh Đức ngồi giữa rừng đước Cà Mau phải sửng sốt.
- Còn đi được ngày nào, có dịp là cứ đi! Ngộ nhỡ nay mai thằng Mỹ siêu côn đồ đó, nó giở giói leo thang lần nữa thì sao? Xe cộ, tàu thuyền đi lại sẽ gặp nhiều khó khăn. Ta làm một chuyến du xuân trên các đảo biển... cũng lắm cái hay. Biết đâu rồi sẽ chẳng còn được đi nữa!
Họp liên hoan tất niên tại báo Thống Nhất, anh đã bảo với chúng tôi như vậy. Tất cả mấy anh em đều hoan hỉ, bởi tòa soạn sẵn sàng cho các cộng tác viên mượn chiếc com - măng - ca và anh nào cũng vừa lãnh nhuận bút bài báo Tết của mình, khỏi phải tạm vay, tạm ứng... phiền gì đến cơ quan.”
- Loại B vì câu này thể hiện sự lo lắng của Nguyễn Tuân về tương lai, không bao quát toàn bộ nội dung về cuộc sống và lý tưởng văn chương của Nguyễn Tuân.
- Loại C vì câu này miêu tả đam mê “xê dịch” của Nguyễn Tuân. không bao quát toàn bộ nội dung về cuộc sống và lý tưởng văn chương của Nguyễn Tuân.
⟶ D là đáp án đúng vì câu này tóm tắt ý tưởng chính của đoạn trích, phản ánh quan niệm của Nguyễn Tuân về cuộc đời và nghề văn – rằng cuộc sống của người làm văn là một hành trình không ngừng nghỉ để khám phá và ghi chép lại. Đáp án: D
“NGUYỄN TRÃI: - Đông Quan bên kia rồi... Cát bay mờ mịt cả... Gió quá... Đông Quan... Chiếc lá rụng trong cơn binh lửa đã dạt về tới đây... Tội nghiệp, cái bến đò nhỏ mà quân Ngô nó cũng đốt phá! Chiếc bia nơi miếu cũ, chúng nó cũng đốt phá! Chiếc bia nơi miếu cũ, chúng nó cũng đập nát! (Đọc trên mảnh bia vỡ) “Thuý trúc, hoàng hoa... Bạch vân, minh nguyệt”... Hai câu đời Thông Thuy... “Trúc biếc, hoa vàng... Mây trắng, trăng trong”... Bây giờ nhìn đâu cũng chỉ thấy lởm chởm giáo mác quân cuồng bạo! Kinh điển chữ nghĩa cả nước đã thành đá vụn, tro tàn!... Vậy mà bên túp lều kia, cây đỗ quyên đang nở muôn nghìn đốm son phấp phới... Mùa xuân về đấy ư...
CÚC: - Gió to thế này, đò chưa sang được, ông khách ạ.”
“Vũ Như Tô - Cảnh ngộ chúng tôi có khác chi cảnh ngộ bà? Có phần khổ nhục hơn nữa. Chế độ thì nghiệt ngã vô lí: nhà không cho làm cao, áo không cho mặc đẹp. Ai xây một kiểu nhà mới khả quan, thì lập tức kết vào tội lộng hành đem chém. Thành thử không ai dám vượt ngoài khuôn sáo nghìn xưa, nghề kiến trúc đọng lại như một vũng ao tù. Người có tài không được thi thố đành phải tiến về mặt tiểu xảo. Mà nói ngay đến những bọn này nào họ có được yên thân. Họ phải lẩn lút, giấu giếm. Vô phúc mà triều đình biết, thế là gia đình tan nát. Họ bị đóng cũi giải kinh, để làm những công việc nhà vua, thân giam trong nội như một tên trọng phạm, mãi đến khi mắt mờ, tay chậm, họ mới được thải hồi nguyên quán. Triều đình còn không ban cho họ một chút bổng nhỏ để mưu sống buổi tàn niên. Cách đối đãi như thế, thì nhân tài nhiều sao được, mà ai chịu luyện tập cho thành tài? Thậm chí người ta nói kẻ có tài đã không giúp cho gia đình, còn là một cái vạ nữa.
Đan Thiềm - Thảo nào mà nước ta không có lấy một lâu đài nào ra hồn, khả dĩ sánh với những lâu đài Trung Quốc. Ngay cả Chiêm Thành cũng hơn ta nhiều lắm...
Vũ Như Tô - Tôi bẩm sinh có khiếu về kiến trúc. Tôi đã vào học văn, sau bỏ văn tập nghề, nhưng tập thì tập, vẫn lo nơm nớp, chỉ sợ triều đình biết, thì vợ con ở nhà nheo nhóc, mà mình cũng không biết bao giờ được tháo cũi, sổ lồng. Vua Hồng Thuận ngày nay càng khinh rẻ chúng tôi, cách đối đãi lại bạc ác. Chẳng qua là cái nợ tài hoa, chứ thực ra theo nghề ở ta lợi chẳng có mà nhục thì nhiều.”
⟶ D là đáp án đúng. Đáp án: D
“Anh con trai: (Nhếch mép) Thầy cứ quát cho hả giận, cũng chẳng thay đổi gì được đâu. Chẳng phải chỉ cái giọng, toàn bộ cái lốt thầy mang giờ đã chẳng phải của thầy. Bản thân con người thầy đứng kia đã là một cái gì... một cái gì... không ngay thật rồi!
Chị con dâu: Nhà, không được nói thế!
Vợ Trương Ba: Cả! Mày nỡ nói vậy sao?
Anh con trai: Tôi chỉ nói sự thật. Lạ quá, tại sao mọi người lại sợ sự thật nhỉ?
Hồn Trương Ba: Mày bước ngay đi, bước đi với những việc làm ăn của mày, những sự thật gớm ghiếc của mày!
Anh con trai: Gớm ghiếc? Cả nhà cứ việc khinh thị tôi. Thử hỏi nhờ ai mà giữa thời buổi này nhà ta còn được đàng hoàng tươm tất như vậy? Cả thầy nữa, giờ thầy ăn mỗi bữa tám, chín bát cơm, rồi nào rượu, nào thịt,... Tiền làm ruộng làm vườn của u mà đủ cung phụng thầy chắc? Tiền làm vườn chỉ đủ nuôi thân ông Trương Ba chứ không đủ nuôi ông hàng thịt. U lo thắt ruột, nhưng không dám hé răng với thầy, chỉ còn biết trông cậy vào tôi, vào đồng tiền tôi buôn bán chạy chợ mang về... Thầy còn xỉ vả tôi nỗi gì? Đã đến nước này, thầy còn cao đạo!
Hồn Trương Ba: (Lắp bắp) Mày... mày... (Tát mạnh anh con trai. Anh con trai ngã xuống, lồm cồm đứng dậy, ôm má. Vợ Trương Ba và chị con dâu kêu lên).”
- Loại C vì chi tiết này chỉ cho thấy sự thay đổi hoàn cảnh của Hồn Trương Ba.
- Loại D vì chi tiết này chỉ nói về sự thay đổi về thể xác của Hồn Trương Ba.
⟶ A là đáp án đúng vì hành động bạo lực này cho thấy sự biến đổi rõ rệt trong nhân cách của ông, biểu hiện cụ thể cho sự tha hóa của Hồn Trương Ba khi sống trong cái lốt xa lạ. Đáp án: A
“TIẾNG ĐỨA CON: (Khóc) Mẹ ơi... Mẹ ơi...
TIẾNG NGƯỜI CHỒNG: Khổ con tôi!... Con không sợ gì cả, có bố đây rồi, từ bây giờ bố ở luôn với con. À, tối quá rồi. Bố đi thắp đèn nhé, bố thắp đèn, rồi buông màn, cho bé Đản đi ngủ nhé. Ừ, bé ngoan nào, ngồi đây cho bố đi thắp đèn.
(Ánh lửa. Rồi ánh đèn. Người ta trông thấy rõ cái bóng của người của người chồng động đậy trên tường nhà.)
TIẾNG ĐỨA CON: (Reo) A!.. Đây rồi. Bố đây rồi!
TIẾNG NGƯỜI CHỒNG: Ừ. Bố đây. Thế cu Đản không sợ nữa nhỉ.
TIẾNG ĐỨA CON: Không phải. Bố Đản kia kìa, bố Đản đến trên tường kia kìa. Bố Đản đến rồi. Ông thắp đèn mà bố Đản cũng đến.
TIẾNG NGƯỜI CHỒNG: Cái gì? Bố Đản trên tường kia à?
TIỀNG ĐỨA CON: Mẹ ơi... Bố Đản đến kia rồi. Mẹ đâu, mẹ em đi đâu mất rồi! (Khóc).
TIẾNG NGƯỜI CHỒNG: Giời ơi... Con ơi... Con nói lại cho bố nghe, thế nào, bố đây kia mà.
TIẾNG ĐỨA CON: Hôm nay bố làm sao thế kia! Tại ông đấy. Bố Đản giống mẹ kia, bố không nói câu nào, mẹ đứng thì bố cũng đứng, mẹ ngồi thì bố cũng ngồi im kia mà.
TIẾNG NGƯỜI CHỒNG: Bố Đản là cái người trên tường kia?”
“CA-PIU-LÉT PHU NHÂN - Con ơi, bây giờ là lúc phải nghĩ đến chuyện nhân duyên rồi. Nhiều người còn ít tuổi hơn con, ở ngay thành Vê-rô-na này, mà toàn là những người được trọng vọng cả, cũng đã tay bồng tay mang. Tính ra thì bằng trạc tuổi con bây giờ mẹ đã sinh con rồi, vậy mà con thì vẫn còn là con gái. Thôi để mẹ nói vắn tắt cho con hay: Chàng Pa-rít tài năng muốn hỏi con làm vợ đấy.
NHŨ MẪU - Tiểu thư ơi, người này mới thật!... Úi chao, dễ chừng cả thế gian này... Chà, con người cứ như là sáp nặn ấy!
CA-PIU-LÉT PHU NHÂN - Mùa hạ ở Vê-rô-na cũng chẳng có bông hoa nào bằng.
NHŨ MẪU - Vâng, đẹp như hoa thật đấy!
CA-PIU-LÉT PHU NHÂN - Con nghĩ sao? Con liệu có ưng chàng quý tộc này không? Tối nay, con sẽ thấy chàng ở buổi dạ yến nhà ta. Con hãy ngắm nhìn dung mạo của chàng Pa-rít trẻ tuổi như nhìn vào trang sách quý, con sẽ thấy vẻ thanh tao hiện ra dưới nét bút tuyệt trần. Con hãy nhìn kĩ từng nét cân đối của chàng, nét nọ như làm tăng vẻ đẹp của nét kia. Và nếu trên trang sách đó còn nét nào chưa rõ, thì như lời chú ghi bên lề sách, đôi mắt chàng sẽ làm sáng tỏ. Chàng chưa từng gắn bó với một ai, chàng như một tập tình ca quý giá chỉ cần một tấm bìa bọc lại là nên thiên tuyệt tác!”