I. ĐỌC HIỂU (4,0 điểm)
Đọc đoạn trích:
“Lợi thế sông nước miệt vườn với vườn dừa, vườn cây ăn quả, cây cảnh... là điều kiện để Bến Tre được nhiều khu du lịch, công ty lữ hành chọn thiết kế tour du lịch gắn với bảo vệ môi trường, thu hút nhiều du khách trong và ngoài nước. Những sản phẩm du lịch độc đáo này góp phần giúp người dân nâng cao nhận thức bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu.
Nổi bật nhất là các tour du lịch trồng rừng, tham quan vườn cây, hạn chế rác thải nhựa... Tại Khu du lịch Nông trại Hải Vân - Sân chim Vàm Hồ (xã Tân Mỹ, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre) thiết kế tour du lịch trồng cây bần, dừa nước trên cồn nổi giữa sông Ba Lai làm nhiều du khách rất thích khám phá. Giám đốc Khu du lịch Nông trại Hải Vân - Sân chim Vàm Hồ Đoàn Thị Mỹ Nhu cho biết: “Khu du lịch tổ chức tour trồng rừng hơn ba năm nay được nhiều du khách thích thú và quay trở lại. Khi đến đây, du khách sẽ được tàu gỗ chở gần một km ra giữa sông Ba Lai để trồng bần, dừa nước, vừa để giữ cồn, vừa bảo vệ môi trường sống chung quanh”.
Một số khách du lịch quay trở lại để thăm những cây mình đã trồng bây giờ phát triển như thế nào và tiếp tục trồng thêm cây mới giữa dòng Ba Lai. Chị Lê Hà Trang, du khách từ tỉnh Bình Dương tham gia tour du lịch trồng rừng cho biết: “Lần đầu tiên tôi cùng đoàn anh chị em cùng công ty đến tham gia tour du lịch trồng rừng trên sông Ba Lai. Cảm giác được trải nghiệm lội bùn, trồng cây xanh rất thú vị. Sau khi trồng cây, du khách sẽ khám phá khung cảnh thiên nhiên hoang sơ, vườn cây ăn quả cũng rất độc đáo. Tôi nghĩ đây là tour du lịch sẽ ngày càng được nhiều khách lựa chọn để khám phá những nét mới, lạ và góp phần bảo vệ môi trường sống khi tham quan du lịch”.
Hằng ngày, Khu du lịch Cồn Phụng (xã Tân Thạch, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre) đón trung bình gần một nghìn lượt khách đến tham quan du lịch, sử dụng dịch vụ ăn uống tạo nên áp lực cho công tác giữ gìn vệ sinh, xử lí rác thải, bảo đảm vệ sinh môi trường. Khu du lịch luôn chủ động đề cao ý thức và thực hiện các giải pháp để vừa phát triển du lịch, dịch vụ vừa bảo đảm công tác vệ sinh môi trường, hướng tới du lịch xanh - sạch - đẹp, phát triển bền vững. Giám đốc Khu du lịch Cồn Phụng Phan Văn Thông cho biết: “Bảo vệ môi trường gắn với nhiệm vụ phát triển du lịch dịch vụ là nhiệm vụ rất quan trọng được Khu du lịch đặt lên hàng đầu. Khu du lịch Cồn Phụng đã xây dựng hệ thống xử lí nước thải tập trung bảo đảm quá trình xử lí nước thải luôn đạt yêu cầu trước khi chảy ra ao vườn có trồng lục bình thủy sinh rồi mới thải ra sông Tiền. Rác hữu cơ được thu gom tập trung vào thùng rác, tập kết và ủ làm phân bón cho cây trồng tại Khu du lịch. Ngoài ra, Khu du lịch luôn thường xuyên dọn dẹp vệ sinh, bảo vệ cảnh quan môi trường; bố trí thùng rác, khuyến cáo du khách bỏ rác đúng nơi quy định; khuyến cáo du khách không hút thuốc và cấm cán bộ, nhân viên hút thuốc lá trong khu du lịch nhằm bảo vệ môi trường xanh - sạch - đẹp, bảo đảm sức khỏe cộng đồng...”. Trong thời gian tới, Khu du lịch có kế hoạch khảo sát lắp đặt hệ thống điện năng lượng mặt trời nhằm vừa giảm chi phí sử dụng điện, vừa giảm nhiệt độ tỏa ra trên mái nhà hiện hữu; khuyến khích sử dụng các dụng cụ, chế phẩm thân thiện với môi trường để phục vụ du khách.”
“Lợi thế sông nước miệt vườn với vườn dừa, vườn cây ăn quả, cây cảnh... là điều kiện để Bến Tre được nhiều khu du lịch, công ty lữ hành chọn thiết kế tour du lịch gắn với bảo vệ môi trường, thu hút nhiều du khách trong và ngoài nước. Những sản phẩm du lịch độc đáo này góp phần giúp người dân nâng cao nhận thức bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu.
Nổi bật nhất là các tour du lịch trồng rừng, tham quan vườn cây, hạn chế rác thải nhựa... Tại Khu du lịch Nông trại Hải Vân - Sân chim Vàm Hồ (xã Tân Mỹ, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre) thiết kế tour du lịch trồng cây bần, dừa nước trên cồn nổi giữa sông Ba Lai làm nhiều du khách rất thích khám phá. Giám đốc Khu du lịch Nông trại Hải Vân - Sân chim Vàm Hồ Đoàn Thị Mỹ Nhu cho biết: “Khu du lịch tổ chức tour trồng rừng hơn ba năm nay được nhiều du khách thích thú và quay trở lại. Khi đến đây, du khách sẽ được tàu gỗ chở gần một km ra giữa sông Ba Lai để trồng bần, dừa nước, vừa để giữ cồn, vừa bảo vệ môi trường sống chung quanh”.
Một số khách du lịch quay trở lại để thăm những cây mình đã trồng bây giờ phát triển như thế nào và tiếp tục trồng thêm cây mới giữa dòng Ba Lai. Chị Lê Hà Trang, du khách từ tỉnh Bình Dương tham gia tour du lịch trồng rừng cho biết: “Lần đầu tiên tôi cùng đoàn anh chị em cùng công ty đến tham gia tour du lịch trồng rừng trên sông Ba Lai. Cảm giác được trải nghiệm lội bùn, trồng cây xanh rất thú vị. Sau khi trồng cây, du khách sẽ khám phá khung cảnh thiên nhiên hoang sơ, vườn cây ăn quả cũng rất độc đáo. Tôi nghĩ đây là tour du lịch sẽ ngày càng được nhiều khách lựa chọn để khám phá những nét mới, lạ và góp phần bảo vệ môi trường sống khi tham quan du lịch”.
Hằng ngày, Khu du lịch Cồn Phụng (xã Tân Thạch, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre) đón trung bình gần một nghìn lượt khách đến tham quan du lịch, sử dụng dịch vụ ăn uống tạo nên áp lực cho công tác giữ gìn vệ sinh, xử lí rác thải, bảo đảm vệ sinh môi trường. Khu du lịch luôn chủ động đề cao ý thức và thực hiện các giải pháp để vừa phát triển du lịch, dịch vụ vừa bảo đảm công tác vệ sinh môi trường, hướng tới du lịch xanh - sạch - đẹp, phát triển bền vững. Giám đốc Khu du lịch Cồn Phụng Phan Văn Thông cho biết: “Bảo vệ môi trường gắn với nhiệm vụ phát triển du lịch dịch vụ là nhiệm vụ rất quan trọng được Khu du lịch đặt lên hàng đầu. Khu du lịch Cồn Phụng đã xây dựng hệ thống xử lí nước thải tập trung bảo đảm quá trình xử lí nước thải luôn đạt yêu cầu trước khi chảy ra ao vườn có trồng lục bình thủy sinh rồi mới thải ra sông Tiền. Rác hữu cơ được thu gom tập trung vào thùng rác, tập kết và ủ làm phân bón cho cây trồng tại Khu du lịch. Ngoài ra, Khu du lịch luôn thường xuyên dọn dẹp vệ sinh, bảo vệ cảnh quan môi trường; bố trí thùng rác, khuyến cáo du khách bỏ rác đúng nơi quy định; khuyến cáo du khách không hút thuốc và cấm cán bộ, nhân viên hút thuốc lá trong khu du lịch nhằm bảo vệ môi trường xanh - sạch - đẹp, bảo đảm sức khỏe cộng đồng...”. Trong thời gian tới, Khu du lịch có kế hoạch khảo sát lắp đặt hệ thống điện năng lượng mặt trời nhằm vừa giảm chi phí sử dụng điện, vừa giảm nhiệt độ tỏa ra trên mái nhà hiện hữu; khuyến khích sử dụng các dụng cụ, chế phẩm thân thiện với môi trường để phục vụ du khách.”
(Trích Trải nghiệm độc đáo ở Xứ Dừa - Hoàng Trung, theo nhandan.vn)
Thực hiện các yêu cầu:
Câu 1 [702267]: Đoạn trích đề cập đến mối quan hệ giữa các vấn đề gì?
Đoạn trích đề cập đến mối quan hệ giữa các vấn đề du lịch và bảo vệ môi trường.
Câu 2 [702268]: Theo đoạn trích, hằng ngày, Khu du lịch Cồn Phụng phải đối mặt với những áp lực nào?
Theo đoạn trích, hằng ngày, Khu du lịch Cồn Phụng phải đối mặt với những áp lực trong công tác giữ gìn vệ sinh, xử lí rác thải, bảo đảm vệ sinh môi trường.
Câu 3 [702269]: Việc dẫn các ý kiến của Giám đốc Khu du lịch Nông trại Hải Vân - Sân chim Vàm Hồ, Giám đốc Khu du lịch Cồn Phụng và du khách trong đoạn trích có ý nghĩa gì?
Việc dẫn các ý kiến của Giám đốc Khu du lịch Nông trại Hải Vân - Sân chim Vàm Hồ, Giám đốc Khu du lịch Cồn Phụng và du khách trong đoạn trích có ý nghĩa:
- Thể hiện nhận thức và nỗ lực của Khu du lịch Nông trại Hải Vân - Sân chim Vàm Hồ trong việc kết hợp triển khai dịch vụ du lịch với bảo vệ môi trường (tổ chức tour trồng rừng hơn ba năm nay; trải nghiệm lội bùn, trồng cây xanh).
- Khẳng định hiệu quả của việc kết hợp giữa các hoạt động dịch vụ du lịch và bảo vệ môi trường (chia sẻ của Giám đốc Khu du lịch: nhiều du khách thích thú và quay trở lại; trồng bần, dừa nước, vừa để giữ cồn, vừa bảo vệ môi trường sống chung quanh; chia sẻ của du khách: Cảm giác được trải nghiệm lội bùn, trồng cây xanh rất thú vị.; Tôi nghĩ đây là tour du lịch sẽ ngày càng được nhiều khách lựa chọn để khám phá những nét mới, lạ và góp phần bảo vệ môi trường sống khi tham quan du lịch.)
- Thể hiện nhận thức và nỗ lực của Khu du lịch Nông trại Hải Vân - Sân chim Vàm Hồ trong việc kết hợp triển khai dịch vụ du lịch với bảo vệ môi trường (tổ chức tour trồng rừng hơn ba năm nay; trải nghiệm lội bùn, trồng cây xanh).
- Khẳng định hiệu quả của việc kết hợp giữa các hoạt động dịch vụ du lịch và bảo vệ môi trường (chia sẻ của Giám đốc Khu du lịch: nhiều du khách thích thú và quay trở lại; trồng bần, dừa nước, vừa để giữ cồn, vừa bảo vệ môi trường sống chung quanh; chia sẻ của du khách: Cảm giác được trải nghiệm lội bùn, trồng cây xanh rất thú vị.; Tôi nghĩ đây là tour du lịch sẽ ngày càng được nhiều khách lựa chọn để khám phá những nét mới, lạ và góp phần bảo vệ môi trường sống khi tham quan du lịch.)
Câu 4 [702270]: “Khu du lịch tổ chức tour trồng rừng hơn ba năm nay được nhiều du khách thích thú và quay trở lại.”
Chia sẻ trên của Giám đốc Khu du lịch Nông trại Hải Vân - Sân chim Vàm Hồ khẳng định kết quả nào của tour du lịch trồng cây bần, dừa nước trên cồn nổi giữa sông Ba Lai?
Chia sẻ trên của Giám đốc Khu du lịch Nông trại Hải Vân - Sân chim Vàm Hồ khẳng định kết quả nào của tour du lịch trồng cây bần, dừa nước trên cồn nổi giữa sông Ba Lai?
“Khu du lịch tổ chức tour trồng rừng hơn ba năm nay được nhiều du khách thích thú và quay trở lại.”
Chia sẻ trên của Giám đốc Khu du lịch Nông trại Hải Vân - Sân chim Vàm Hồ khẳng định tính hấp dẫn, sức hút và sự bền vững của tour du lịch trồng cây bần, dừa nước trên cồn nổi giữa sông Ba Lai đối với du khách.
Chia sẻ trên của Giám đốc Khu du lịch Nông trại Hải Vân - Sân chim Vàm Hồ khẳng định tính hấp dẫn, sức hút và sự bền vững của tour du lịch trồng cây bần, dừa nước trên cồn nổi giữa sông Ba Lai đối với du khách.
Câu 5 [702271]: Mô hình du lịch gắn liền với bảo vệ môi trường đòi hỏi du khách tham gia cần có ứng xử như thế nào cho phù hợp?
Mô hình du lịch gắn liền với bảo vệ môi trường đòi hỏi du khách tham gia cần có ứng xử phù hợp trên các phương diện nhận thức, hành động.
- Về mặt nhận thức, bản thân khách du lịch hiểu rõ tầm quan trọng của việc bảo vệ môi trường và trách nhiệm, khả năng đóng góp của bản thân trong việc bảo vệ môi trường du lịch.
- Về mặt hành động, mỗi du khách cần tuân thủ nghiệm ngặt quy định bảo vệ môi trường tại điểm du lịch, tích cực hưởng ứng các hoạt động bảo vệ môi trường trong chuyến du lịch mình đang tham gia; lan toả ý thức bảo vệ môi trường đến mỗi thành viên trong đoàn;...
- Về mặt nhận thức, bản thân khách du lịch hiểu rõ tầm quan trọng của việc bảo vệ môi trường và trách nhiệm, khả năng đóng góp của bản thân trong việc bảo vệ môi trường du lịch.
- Về mặt hành động, mỗi du khách cần tuân thủ nghiệm ngặt quy định bảo vệ môi trường tại điểm du lịch, tích cực hưởng ứng các hoạt động bảo vệ môi trường trong chuyến du lịch mình đang tham gia; lan toả ý thức bảo vệ môi trường đến mỗi thành viên trong đoàn;...
II. VIẾT (6,0 điểm)
Câu 6 [702272]: (2,0 điểm)
Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về tầm quan trọng của việc bảo vệ môi trường trong việc phát triển kinh tế du lịch ở nước ta hiện nay.
Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về tầm quan trọng của việc bảo vệ môi trường trong việc phát triển kinh tế du lịch ở nước ta hiện nay.
Đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ về tầm quan trọng của việc bảo vệ môi trường trong việc phát triển kinh tế du lịch ở nước ta hiện nay có thể được triển khai theo theo hướng:
- Môi trường sống của chúng ta đang bị ô nhiễm nặng nề và gây ra nhiều hệ luỵ trước mắt; các nhà khoa học, các tổ chức quốc tế vẫn liên tục cảnh báo hậu quả của tình trạng ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu trong tương lai gần và xa; ý thức bảo vệ môi trường của nhiều người chưa cao;... (Theo một số liệu thống kê, Việt Nam hiện đứng thứ 4 trên thế giới về “năng lực” sản sinh rác thải nhựa, với 0,28 - 0,73 triệu tấn mỗi năm (tương đương 6% tổng lượng rác thải nhựa xả ra biển của thế giới); lượng rác thải phát sinh ở Hội An - điểm đến du lịch nổi tiếng - mỗi ngày là gần 100 tấn, trong đó rác thải nhựa dùng một lần chiếm 15 - 23%...)
- Bảo vệ môi trường là việc làm cấp thiết để chúng ta cứu vãn tình trạng hiện tại, phục hồi, tái tạo môi trường trong lành, an toàn trong tương lai. (Dẫn chứng: Khu du lịch Cồn Phụng phát triển du lịch bền vững, vừa phát triển du lịch dịch vụ vừa bảo đảm vệ sinh môi trường; từ tháng 9/2023, huyện đảo Cô Tô (Quảng Ninh) bắt đầu thí điểm áp dụng quy định du khách không mang chai nhựa, túi nilon, vật liệu có nguy cơ ô nhiễm môi trường khi đi du lịch...)
- Môi trường sống của chúng ta đang bị ô nhiễm nặng nề và gây ra nhiều hệ luỵ trước mắt; các nhà khoa học, các tổ chức quốc tế vẫn liên tục cảnh báo hậu quả của tình trạng ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu trong tương lai gần và xa; ý thức bảo vệ môi trường của nhiều người chưa cao;... (Theo một số liệu thống kê, Việt Nam hiện đứng thứ 4 trên thế giới về “năng lực” sản sinh rác thải nhựa, với 0,28 - 0,73 triệu tấn mỗi năm (tương đương 6% tổng lượng rác thải nhựa xả ra biển của thế giới); lượng rác thải phát sinh ở Hội An - điểm đến du lịch nổi tiếng - mỗi ngày là gần 100 tấn, trong đó rác thải nhựa dùng một lần chiếm 15 - 23%...)
- Bảo vệ môi trường là việc làm cấp thiết để chúng ta cứu vãn tình trạng hiện tại, phục hồi, tái tạo môi trường trong lành, an toàn trong tương lai. (Dẫn chứng: Khu du lịch Cồn Phụng phát triển du lịch bền vững, vừa phát triển du lịch dịch vụ vừa bảo đảm vệ sinh môi trường; từ tháng 9/2023, huyện đảo Cô Tô (Quảng Ninh) bắt đầu thí điểm áp dụng quy định du khách không mang chai nhựa, túi nilon, vật liệu có nguy cơ ô nhiễm môi trường khi đi du lịch...)
Câu 7 [702273]: (4,0 điểm)
Viết bài văn (khoảng 600 chữ) phân tích bài thơ sau:
Trong thế giới phút chim bay.
Non cao non thấp mây thuộc,
Cây cứng cây mềm gió hay.
Nước mấy trăm thu còn vậy,
Nguyệt bao nhiêu kiếp nhẫn nay .
Ngoài chưng mọi chốn đều thông hết,
Bui một lòng người cực hiểm thay.
Viết bài văn (khoảng 600 chữ) phân tích bài thơ sau:
MẠN THUẬT
(Nguyễn Trãi, bài 4)
Đủng đỉnh chiều hôm dắt tay,Trong thế giới phút chim bay.
Non cao non thấp mây thuộc,
Cây cứng cây mềm gió hay.
Nước mấy trăm thu còn vậy,
Nguyệt bao nhiêu kiếp nhẫn nay .
Ngoài chưng mọi chốn đều thông hết,
Bui một lòng người cực hiểm thay.
(Theo Nguyễn Trãi thơ và đời, NXB)
Bài văn phân tích bài thơ Mạn thuật (Nguyễn Trãi) có thể triển khai theo nhiều cách, song cần bảo đảm các ý chính:
* Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm
- Nguyễn Trãi:
+ Vị trí: một trong những tác gia văn học xuất sắc của nền văn học Việt Nam.
+ Đặc điểm sáng tác:
• Nguyễn Trãi là nhà văn chính luận kiệt xuất với những áng văn đạt tới trình độ nghệ thuật mẫu mực từ việc xác định đối tượng, mục đích để sử dụng bút pháp thích hợp đến kết cấu chặt chẽ, lập luận sắc bén.
• Nguyễn Trãi là nhà thơ trữ tình sâu sắc với những áng thơ vừa khắc hoạ chân dung một bậc anh hùng vĩ đại với lí tưởng cao cả, vừa tô đậm hình tượng một con người trần thế với tình yêu mãnh liệt dành cho thiên nhiên, đất nước, con người, cuộc sống.
- Mạn thuật (bài 4):
+ Xuất xứ: Thuộc Quốc âm thi tập - tập thơ Nôm sớm nhất hiện còn. Với tập thơ này, Nguyễn Trãi là một trong những người đặt nền móng và mở đường cho sự phát triển của thơ tiếng Việt.
+ Hoàn cảnh sáng tác: Bài thơ nói riêng và phần lớn các sáng tác trong Quốc âm thi tập nói chung được viết trong thời gian Nguyễn Trãi về ở ẩn ở Côn Sơn (Chí Linh - Hải Dương).
+ Thể thơ: thất ngôn bát cú Đường luật xen lục ngôn.
+ Nhan đề:
• Mạn: tản mạn
• Thuật: kể
⟶ Mạn thuật: kể ra một cách tản mạn.
+ Chủ đề: suy tư, chiêm nghiệm về thế giới và thế thái nhân tình.
+ Nhân vật trữ tình: nhà thơ Nguyễn Trãi.
+ Bố cục:
• Sáu câu đầu: Chiêm nghiệm về thế giới thiên nhiên bao la, rộng lớn.
• Hai câu cuối: Nhận thức về con người, lòng người.
* Phân tích bài thơ Mạn thuật (bài 4)
- Sáu câu đầu
+ Hai câu đầu gợi bối cảnh xuất hiện nhân vật trữ tình: chiều hôm, trong thế giới phút chim bay.
• Chiều, chiều tối là thời gian, không gian nghệ thuật quen thuộc trong thơ ca; thường gợi buồn, gợi tâm tư:
Tiếng ốc xa đưa vẳng trống đồn
+ Bốn câu tiếp theo là kết quả của sự quan sát cùng những chiêm nghiệm của nhân vật trữ tình khi ngắm nhìn thế giới thiên nhiên:
• Giữa thiên nhiên kì vĩ, lớn lao, nhân vật trữ tình đã nhận ra: núi non kia dù cao ngất, hùng vĩ bao nhiêu nhưng đỉnh núi cũng bị mây mù che khuất (Non cao non thấp mây thuộc); cây cối dù lớn hay bé, cứng hay mềm cũng đều bị gió lay, đều ngả nghiêng trước gió, thậm chí có thể gãy đổ bởi gió (Cây cứng cây mềm gió hay); dòng nước, vầng trăng bao đời nay thứ vẫn mềm mại chảy trôi, uốn lượn theo dòng, thứ vẫn kiên trì rọi ánh vàng xuống trần gian dù thế cuộc có đổi thay, “thương hải biến vi tang điền” (biển xanh biến thành nương dâu). Hoá ra, vạn vật trong vũ trụ thiên nhiên, hết thảy đều có thể nhận biết, đoán biết được, ít nhất bằng mắt thường, bằng sự quan sát, trông nhìn. Sừng sững như núi cao, tưởng khó mà chinh phục nhưng áng mây bé nhỏ lại có thể đo áng được tầm cao của núi. Gió, bằng sức mạnh của nó, có thể biết được cây cứng hay mềm. Nước và trăng thì ngàn đời nay vẫn không thay đổi bởi dòng chảy của nước và cơ chế chiếu sáng của vầng trăng đã thành quy luật.
• Nghệ thuật đối (đối ý) trong thơ Đường được sử dụng một cách triệt để (đối ngang: non cao - non thấp, cây cứng - cây mềm; non cao non thấp - mây thuộc, cây cứng cây mềm - gió hay; nước mấy trăm thu - nguyệt bao nhiêu kiếp, còn vậy - nhẫn nay); kết hợp phép liệt kê các hình ảnh thuộc thế giới thiên nhiên (non, mây, cây, gió, nước, trăng) ⟶ dựng lên một không gian vũ trụ có cao xa có thấp gần; có lớn rộng, kì vĩ có nhỏ bé, gần gũi; có hữu hình có vô hình;...
Toàn bộ sáu dòng đầu là thơ lục ngôn (trong bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật) cùng cách ngắt nhịp linh hoạt (câu 1: 2/2/2, câu 2: 3/3/, câu 3-4: 2/2/2, câu 5-6: 1/3/2) ⟶ mang lại vẻ đẹp độc đáo cho lời thơ; gây ấn tượng mạnh cho người đọc về những khám phá, chiêm nghiệm thú vị của nhân vật trữ tình về thế giới thiên nhiên bao la, rộng lớn, tưởng chừng khó nắm bắt, đoán biết; kéo gần thiên nhiên với con người, tô đậm cảm giác hoá ra thiên nhiên ấy thật gần gũi chứ không hề xa cách với con người.
- Hai câu cuối:
+ Câu thứ bảy là sự tổng kết, đúc rút về sự gần gũi, dễ hiểu, dễ nhận biết, đoán biết của thế giới thiên nhiên: mọi chốn đều thông hết.
+ Câu thứ tám:
• Đối lập hoàn toàn với bảy dòng trước về ý nghĩa: Thế giới thiên nhiên bao la, rộng lớn, kì vĩ nhường ấy vẫn có thể cảm nhận, đoán biết, riêng lòng người là không thể lường đoán được (Bui một lòng người cực hiểm thay). Ý thơ này của Nguyễn Trãi là sự nối dài, thừa tiếp của câu ca dao:
Phượng những tiếc cao diều lượn
Hoa thường hay héo cỏ thường tươi
+ Hai câu thơ cuối quay trở lại hình thức thất ngôn như một cách để nhấn mạnh sự khác biệt, sự đối lập về ý tình so với sáu câu đầu.
* Đánh giá chung
- Bài thơ với sự phá cách táo bạo trong thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật cùng giọng điệu suy tư, chiêm nghiệm đã bộc bạch nhận thức sâu sắc của nhân vật trữ tình - Nguyễn Trãi - về thế giới, về lòng người.
- Bài thơ mang đến người đọc bài học sâu sắc về sự cẩn trọng trong việc nắm bắt, đoán biết, thấu hiểu con người; từ đó có cách ứng xử phù hợp với con người.
* Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm
- Nguyễn Trãi:
+ Vị trí: một trong những tác gia văn học xuất sắc của nền văn học Việt Nam.
+ Đặc điểm sáng tác:
• Nguyễn Trãi là nhà văn chính luận kiệt xuất với những áng văn đạt tới trình độ nghệ thuật mẫu mực từ việc xác định đối tượng, mục đích để sử dụng bút pháp thích hợp đến kết cấu chặt chẽ, lập luận sắc bén.
• Nguyễn Trãi là nhà thơ trữ tình sâu sắc với những áng thơ vừa khắc hoạ chân dung một bậc anh hùng vĩ đại với lí tưởng cao cả, vừa tô đậm hình tượng một con người trần thế với tình yêu mãnh liệt dành cho thiên nhiên, đất nước, con người, cuộc sống.
- Mạn thuật (bài 4):
+ Xuất xứ: Thuộc Quốc âm thi tập - tập thơ Nôm sớm nhất hiện còn. Với tập thơ này, Nguyễn Trãi là một trong những người đặt nền móng và mở đường cho sự phát triển của thơ tiếng Việt.
+ Hoàn cảnh sáng tác: Bài thơ nói riêng và phần lớn các sáng tác trong Quốc âm thi tập nói chung được viết trong thời gian Nguyễn Trãi về ở ẩn ở Côn Sơn (Chí Linh - Hải Dương).
+ Thể thơ: thất ngôn bát cú Đường luật xen lục ngôn.
+ Nhan đề:
• Mạn: tản mạn
• Thuật: kể
⟶ Mạn thuật: kể ra một cách tản mạn.
+ Chủ đề: suy tư, chiêm nghiệm về thế giới và thế thái nhân tình.
+ Nhân vật trữ tình: nhà thơ Nguyễn Trãi.
+ Bố cục:
• Sáu câu đầu: Chiêm nghiệm về thế giới thiên nhiên bao la, rộng lớn.
• Hai câu cuối: Nhận thức về con người, lòng người.
* Phân tích bài thơ Mạn thuật (bài 4)
- Sáu câu đầu
+ Hai câu đầu gợi bối cảnh xuất hiện nhân vật trữ tình: chiều hôm, trong thế giới phút chim bay.
• Chiều, chiều tối là thời gian, không gian nghệ thuật quen thuộc trong thơ ca; thường gợi buồn, gợi tâm tư:
- Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều
(Ca dao)
- Bóng ta như giục cơn buồn
(Truyện Kiều - Nguyễn Du)
- Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hônTiếng ốc xa đưa vẳng trống đồn
(Chiều hôm nhớ nhà - Bà Huyện Thanh Quan)
• Giữa không gian, thời gian chiều hôm, phút chim bay (khoảnh khắc chiều muộn, chim về tổ) nhân vật trữ tình trong bài thơ của Nguyễn Trãi xuất hiện trong tâm thế của con người thong thả, thư nhàn, dạo bước giữa thiên nhiên: Đủng đỉnh chiều hôm dắt tay. Từ đủng đỉnh gợi phong thái ung dung, nhàn nhã của bậc ẩn sĩ lánh đời, đồng thời cũng mở ra tâm thế của người nhàn nhã, có thời gian quan sát, chiêm nghiệm, nghĩ suy về thế giới bao la, rộng lớn.+ Bốn câu tiếp theo là kết quả của sự quan sát cùng những chiêm nghiệm của nhân vật trữ tình khi ngắm nhìn thế giới thiên nhiên:
• Giữa thiên nhiên kì vĩ, lớn lao, nhân vật trữ tình đã nhận ra: núi non kia dù cao ngất, hùng vĩ bao nhiêu nhưng đỉnh núi cũng bị mây mù che khuất (Non cao non thấp mây thuộc); cây cối dù lớn hay bé, cứng hay mềm cũng đều bị gió lay, đều ngả nghiêng trước gió, thậm chí có thể gãy đổ bởi gió (Cây cứng cây mềm gió hay); dòng nước, vầng trăng bao đời nay thứ vẫn mềm mại chảy trôi, uốn lượn theo dòng, thứ vẫn kiên trì rọi ánh vàng xuống trần gian dù thế cuộc có đổi thay, “thương hải biến vi tang điền” (biển xanh biến thành nương dâu). Hoá ra, vạn vật trong vũ trụ thiên nhiên, hết thảy đều có thể nhận biết, đoán biết được, ít nhất bằng mắt thường, bằng sự quan sát, trông nhìn. Sừng sững như núi cao, tưởng khó mà chinh phục nhưng áng mây bé nhỏ lại có thể đo áng được tầm cao của núi. Gió, bằng sức mạnh của nó, có thể biết được cây cứng hay mềm. Nước và trăng thì ngàn đời nay vẫn không thay đổi bởi dòng chảy của nước và cơ chế chiếu sáng của vầng trăng đã thành quy luật.
• Nghệ thuật đối (đối ý) trong thơ Đường được sử dụng một cách triệt để (đối ngang: non cao - non thấp, cây cứng - cây mềm; non cao non thấp - mây thuộc, cây cứng cây mềm - gió hay; nước mấy trăm thu - nguyệt bao nhiêu kiếp, còn vậy - nhẫn nay); kết hợp phép liệt kê các hình ảnh thuộc thế giới thiên nhiên (non, mây, cây, gió, nước, trăng) ⟶ dựng lên một không gian vũ trụ có cao xa có thấp gần; có lớn rộng, kì vĩ có nhỏ bé, gần gũi; có hữu hình có vô hình;...
Toàn bộ sáu dòng đầu là thơ lục ngôn (trong bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật) cùng cách ngắt nhịp linh hoạt (câu 1: 2/2/2, câu 2: 3/3/, câu 3-4: 2/2/2, câu 5-6: 1/3/2) ⟶ mang lại vẻ đẹp độc đáo cho lời thơ; gây ấn tượng mạnh cho người đọc về những khám phá, chiêm nghiệm thú vị của nhân vật trữ tình về thế giới thiên nhiên bao la, rộng lớn, tưởng chừng khó nắm bắt, đoán biết; kéo gần thiên nhiên với con người, tô đậm cảm giác hoá ra thiên nhiên ấy thật gần gũi chứ không hề xa cách với con người.
- Hai câu cuối:
+ Câu thứ bảy là sự tổng kết, đúc rút về sự gần gũi, dễ hiểu, dễ nhận biết, đoán biết của thế giới thiên nhiên: mọi chốn đều thông hết.
+ Câu thứ tám:
• Đối lập hoàn toàn với bảy dòng trước về ý nghĩa: Thế giới thiên nhiên bao la, rộng lớn, kì vĩ nhường ấy vẫn có thể cảm nhận, đoán biết, riêng lòng người là không thể lường đoán được (Bui một lòng người cực hiểm thay). Ý thơ này của Nguyễn Trãi là sự nối dài, thừa tiếp của câu ca dao:
Sông sâu còn có kẻ dò
Đố ai lấy thước mà đo lòng người
Những suy tư, nhận thức về con người của Nguyễn Trãi như thế này cũng khá phổ biến trong Quốc âm thi tập. Chẳng hạn như:Phượng những tiếc cao diều lượn
Hoa thường hay héo cỏ thường tươi
(Tự thuật, bài 9)
• Câu thơ mang giọng điệu xót xa, đắng đót, không chỉ là sự chiêm nghiệm mà còn là sự đúc kết đầy cay đắng của nhân vật trữ tình về con người. Nó khiến người đọc hình dung rõ hơn về tâm thế của nhân vật trữ tình: Đi giữa thiên nhiên tươi đẹp ở chốn thanh dã ẩn cư nhưng tâm trí của nhân vật trữ tình không đặt ở việc thưởng ngoạn cảnh trí mà ở sự nghĩ suy về thế thái nhân tình, về sự hiểm độc của lòng người. Kết nối với hoàn cảnh sáng tác của bài thơ, tập thơ, ta có thể phần nào lí giải được nỗi niềm tâm sự này của Nguyễn Trãi.+ Hai câu thơ cuối quay trở lại hình thức thất ngôn như một cách để nhấn mạnh sự khác biệt, sự đối lập về ý tình so với sáu câu đầu.
* Đánh giá chung
- Bài thơ với sự phá cách táo bạo trong thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật cùng giọng điệu suy tư, chiêm nghiệm đã bộc bạch nhận thức sâu sắc của nhân vật trữ tình - Nguyễn Trãi - về thế giới, về lòng người.
- Bài thơ mang đến người đọc bài học sâu sắc về sự cẩn trọng trong việc nắm bắt, đoán biết, thấu hiểu con người; từ đó có cách ứng xử phù hợp với con người.