I. ĐỌC HIỂU (4,0 điểm)
Đọc văn bản:
            TRONG NHÀ TAGOR
                    (Hữu Thỉnh)
Trong nhà ông, tôi nhận ra
không phải sự giàu có nào cũng ti tiện
không phải sự đói rách nào cũng bao dung

này im lặng của hai nghìn bản nhạc
này lên tiếng của hai nghìn bức tranh
này những khu rừng thơ
chân dung ông, một tạo hóa hiền từ

ông dư thừa tài năng đến mức
quá nhiều vị thần nhờ ông mà được sinh ra
người làm lại thế giới này quá cũ.

vượt đẳng cấp để yêu một người dưới đáy
vượt tôn giáo để yêu một người khác đạo
vượt vàng son tìm ổ rạ ngả lưng
vượt Chúa để nhìn thấy bàn tay thứ hai
của Chúa

ông tháo cởi giàu sang vuốt ve đàn gia súc
như người ta từng tháo mọi danh vọng
xưa nay
để kết bạn với mắt buồn góc khuất.
tôi gặp trong nhà ông nhiều sự quý phái
lỉnh kỉnh
nhưng nhiều hơn là những phận người
người ta bảo sông Hằng vừa đến thăm ông
để lại dấu chân nơi mái gianh đọng nước.

tôi xin ông một viên sỏi trong vườn
viên sỏi nhiều lần bước chân ông chạm tới
với báu vật hiếm hoi này
cả vũ trụ đang đến ở cùng tôi.
                             Tây Ben-gan 10/2014
                             Hà Nội 8/7/2020
(Theo baovannghe.vn)
Thực hiện các yêu cầu:
Câu 1 [706313]: Phương thức biểu đạt chính trong bài thơ là gì?
Phương thức biểu đạt chính trong bài thơ: biểu cảm.
Câu 2 [706314]: vượt đẳng cấp để yêu một người dưới đáy
vượt tôn giáo để yêu một người khác đạo
vượt vàng son tìm ổ rạ ngả lưng
vượt Chúa để nhìn thấy bàn tay thứ hai
của Chúa

Chỉ ra các biện pháp tu từ được sử dụng trong đoạn thơ trên.
vượt đẳng cấp để yêu một người dưới đáy
vượt tôn giáo để yêu một người khác đạo
vượt vàng son tìm ổ rạ ngả lưng
vượt Chúa để nhìn thấy bàn tay thứ hai
của Chúa

Các biện pháp tu từ được sử dụng trong đoạn thơ trên:
- Phép điệp (điệp từ vượt, điệp cấu trúc vượt ... để ...).
- Liệt kê (đối tượng được Tagor yêu, tìm đến: một người dưới đáy, một người khác đạo, ổ rạ, bàn tay thứ hai của Chúa)
- Đối ý (đối lập): đẳng cấp trên (Tagor xuất thân từ một gia đình quý tộc có sở hữu đất đai trong các điền trang ở khu vực ngày nay là Bangladesh) >< người dưới đáy; tôn giáo (gia đình Tagor theo đạo Hindu) >< người khác tôn giáo (khác đạo); vàng son >< ổ rạ; bàn tay trái (của Chúa thì đáng yêu) >< bàn tay phải (của Chúa thì kinh khủng).
Câu 3 [706315]: ông dư thừa tài năng đến mức
quá nhiều vị thần nhờ ông mà được sinh ra
người làm lại thế giới này quá cũ.

Hình tượng Tagor được khắc hoạ như thế nào qua những dòng thơ trên?
ông dư thừa tài năng đến mức
quá nhiều vị thần nhờ ông mà được sinh ra
người làm lại thế giới này quá cũ.

Trong đoạn thơ trên, phép phóng đại được sử dụng nhằm hình tượng Tagor với đặc điểm nổi bật: dư thừa tài năng sáng tạo (ông tạo ra các vị thần, làm mới lại thế giới qua các sáng tác của mình).
Câu 4 [706316]: Bài thơ bộc lộ tình cảm, thái độ nào của người viết đối với Tagor?
Tình cảm, thái độ của người viết đối với Tagor trong bài thơ: thấu hiểu, đồng cảm; yêu mến, trân trọng, thành kính; ngưỡng mộ, ngợi ca.
Câu 5 [706317]: Ghi lại cảm nhận sâu sắc nhất của anh/chị về cảm hứng nhân văn của bài thơ (trình bày khoảng 5 - 7 dòng).
- Cảm hứng nhân văn của bài thơ được thể hiện qua tình cảm yêu mến, kính trọng; thái độ ngưỡng mộ, ngợi ca của tác giả (Hữu Thỉnh - nhà thơ hiện đại xuất sắc của Việt Nam) với Tagor - nhà thơ vĩ đại của văn học Ấn Độ nói riêng và thế giới nói chung.
- Cảm hứng nhân văn từ bài thơ có giá trị kết nối tác giả với Tagor (nhà thơ hậu bối và nhà thơ tiền bối); khơi gợi trong người đọc những xúc cảm, ấn tượng đẹp đẽ, sâu đậm về Tagor.
II. VIẾT (6,0 điểm)
Câu 6 [706318]: (2,0 điểm)
Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) cảm nhận về hình tượng nhân vật trong bài thơ ở phần Đọc hiểu.
Đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) cảm nhận về hình tượng nhân vật được khắc hoạ trong bài thơ Trong nhà Tagor (Hữu Thỉnh) có thể được triển khai theo hướng:
- Tagor (Ra-bin-đra-nát Ta-go, 1861 - 1941) là nhà văn, nhà văn hoá lớn của Ấn Độ. Suốt đời mình, ông đã phấn đấu không mệt mỏi và có những cống hiến quan trọng cho sự nghiệp phục hưng văn hoá Ấn Độ, giải phóng Ấn Độ khỏi ách thực dân; góp phần vào cuộc đấu tranh của nhân loại vì độc lập, hoà bình, hữu nghị giữa các dân tộc.
Tagor để lại một gia tài khổng lồ các tác phẩm thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau mà ở lĩnh vực nào cũng thành công xuất sắc: 52 tập thơ, 12 bộ tiểu thuyết, hàng trăm truyện ngắn, 42 vở kịch, 63 tập tiểu luận triết học, khoảng 2000 bài ca, hàng nghìn bức hoạ,... Trong đó, tập Thơ Dâng đã đem đến cho ông vinh dự của người châu Á đầu tiên được nhận Giải thưởng Nô-ben về văn học vào năm 1913.
- Cảm nhận về hình tượng Tagor trong bài thơ Trong nhà Tagor (Hữu Thỉnh):
+ Tài năng tột bậc:
này im lặng của hai nghìn bản nhạc/ này lên tiếng của hai nghìn bức tranh/ này những khu rừng thơ. Phép liệt kê kết hợp cấu trúc điệp đã tô đậm chân dung của người nghệ sĩ tài hoa.
ông dư thừa tài năng đến mức/ quá nhiều vị thần nhờ ông mà được sinh ra/ người làm lại thế giới này quá cũ: Phép phóng đại khắc sâu ấn tượng về khả năng sáng tạo của Tagor.
+ Nhân cách cao đẹp:
vượt đẳng cấp để yêu một người dưới đáy/ vượt tôn giáo để yêu một người khác đạo/ vượt vàng son tìm ổ rạ ngả lưng/ vượt Chúa để nhìn thấy bàn tay thứ hai/ của Chúa: Trong trái tim Tagor là tình yêu không giới hạn dành cho muôn người, muôn vật. Tình yêu ấy lớn lao đến mức có thể vượt qua mọi biên giới, mọi trở lực của giai cấp, tôn giáo, địa vị xã hội,...
ông tháo cởi giàu sang vuốt ve đàn gia súc/ như người ta từng tháo mọi danh vọng/ xưa nay/ để kết bạn với mắt buồn góc khuất./ tôi gặp trong nhà ông nhiều sự quý phái/ lỉnh kỉnh/ nhưng nhiều hơn là những phận người: Tagor luôn chủ động đến và yêu thương muôn vật, muôn loài, không mảy may bận tâm đến sự khác biệt nào.
+ Con người vĩ đại: người ta bảo sông Hằng vừa đến thăm ông/ để lại dấu chân nơi mái gianh đọng nước. Phép nhân hoá kết hợp cách nói phóng đại gây ấn tượng về sự vĩ đại của Tagor.
+ Đấng thần linh vĩ đại mà gẫn gũi: với báu vật hiếm hoi này (viên sỏi trong vườn nhà Tagor)/ cả vũ trụ đang đến ở cùng tôi. Hai dòng thơ khắc hoạ sức sống, sự bất tử của Tagor trong lòng nhân vật trữ tình nói riêng và trong nhân loại muôn đời nói chung.
- Hình tượng Tagor trong bài thơ hiện lên tuyệt đẹp trong cảm xúc nhân văn cao cả của lời thơ.
<*> Tham khảo bài viết:
BẢO TÀNG TAGORE, NGÀY ĐẦU XUÂN
(Hồ Anh Thái)


Nhà thơ Hữu Thỉnh và nhà văn Hoàng Quốc Hải tại Bảo tàng Tagore
Thời bấy giờ dòng họ Thakur ở vùng Bengal thuộc số những lãnh chúa có thế lực. Trong tiếng Bengali, Thakur có nghĩa là chúa đất. Những người Anh đến Ấn Độ mở mang thuộc địa không phát âm được cái họ Thakur.
Một ông công chức bàn giấy người Anh nào đó trong một phút đánh vật với thổ âm Bengali, tai nghe Thakur mà tay cầm bút lại phiên thành Tagore.

Thế là từ đó trong công văn giấy tờ được Ănglê hóa, Thakur đã được phiên âm thành Tagore. Một cái tên sinh ra từ nhầm lẫn, giống như nhiều điều cơ bản của đời sống cũng sinh ra từ nhầm lẫn và ngộ nhận. Thế giới sẽ không mấy ai biết đến sự nhầm lẫn này, nếu như từ dòng họ Thakur ở Bengal không sinh ra một nhân vật xuất chúng, đại thi hào Rabindranath Tagore.
Giai thoại này vương vấn trong đầu khi ta bước chân vào Bảo tàng Tagore, thấy cái tên Tagore ở khắp mọi nơi, trong những dòng chữ lớn nhỏ ghi chú hiện vật, cũng như trong lời giới thiệu của hướng dẫn viên. Dinh cơ của dòng họ Tagore, tòa ngang dãy dọc bây giờ đã trở thành Trường đại học Tổng hợp Rabindra Bharati. Khu nhà ở của mấy thế hệ Tagore bây giờ được giữ nguyên trạng làm nhà tưởng niệm.
Đang là giờ nghỉ trưa, sinh viên tản ra đứng ngồi trên hành lang, đứng ngồi sưởi nắng trên các bãi cỏ. Giá vé cho người nước ngoài vào bảo tàng khá cao, nhưng khi nghe nói đây là đoàn nhà văn từ VN sang, người ta không thu vé mà cả một sự đón tiếp nồng nhiệt diễn ra. Hướng dẫn viên say sưa hùng biện. Các nhân viên bảo tàng đi theo từng bước, mang theo từng giỏ cánh hoa hồng để chúng tôi tự tay bốc hoa thả xuống những âu nước như một cử chỉ tưởng niệm trong các gian phòng.
Dinh nhà Tagore xây dựng năm 1784, những bức tường màu đỏ gạch bền vững gây cảm tưởng từ hơn 200 năm trước dinh thự vẫn thế. Đây là phòng sinh con, rất nhiều người trong dòng họ được sinh ra ở đây, Tagore sinh ra ở đây, bà mẹ lâm bồn ở gian trong, rồi đứa trẻ sơ sinh khóc ré lên được bế ra phòng ngoài cho người cha và họ hàng đứng chờ ở gian ngoài.
Cánh cửa gỗ giữa hai gian phòng đã mục vỡ, hướng dẫn viên giải thích người ta không thay thế cánh cửa mới mà giữ nguyên di vật cũ nát, đấy là vì quyền lợi của khách tham quan. Toàn bộ phòng của các thành viên trong dòng tộc được bài trí đơn sơ, nhưng chứng tỏ gia phong của một bậc quí tộc lớn. Hướng dẫn viên hùng biện: “Người ta bảo dòng họ Tagore là giàu sang, thật ra nói như vậy chưa đủ. Còn hơn cả giàu sang nữa, phải nói thế này mới đúng: giàu sang cộng với văn hóa cộng với tinh thần nhân văn”...
Phần dinh dành làm nơi cầu nguyện là cả một đại sảnh. Những cột đá cẩm thạch màu trắng. Một giáo đường tại gia cho mọi thành viên trong gia đình. Không một tượng thần như truyền thống đền thờ Hindu đa thần. Một giáo đường theo đúng tinh thần tôn giáo của Tagore, không có thần thánh nào ở trong đó, thần thánh chúa trời ở bên ngoài khả năng nhận biết của con người.
Đền thờ chỉ là nơi thanh tịnh, ta có thể ngồi đó mà tri ngộ, mà tưởng đến tất cả những gì không hiện hữu, cao hơn cả đời sống con người. Giáo đường không tượng thánh có lẽ vì ở trong đây chỉ có một Tagore thôi cũng đã là chật chội. Với nhiều người, Tagore giống như hình ảnh một vị thánh.

Sinh năm 1861, Tagore có 80 năm hiện hữu trên cõi trần thế ở vùng Bengal, xứ sở văn hóa sâu đậm bậc nhất trên đất nước Ân Độ. Đó là cái nôi của những bậc vĩ nhân, đặc biệt là những nhà tư tưởng như Ramakrishna, Swami Vivekananda, “ông hoàng điện ảnh” Satyajit Ray..., là nơi vun đắp tư tưởng nhân văn của những người như Mẹ Teresa...
Người Ấn thường tự hào về tiếng Bengali là ngôn ngữ của triết học và thơ ca. Tagore được tôn vinh là “cha đẻ của văn học tiếng Bengali hiện đại”, người đã làm cho tiếng Bengali đẹp hơn, khả năng diễn đạt mở rộng hơn, tới những sắc độ tinh tế bậc nhất. Xin hãy lắng nghe những vần điệu Bengali này: Jana gana mana adhinayaka jaya he jaya he jaya he... Thời là nghiên cứu sinh ở Ân Độ, chúng tôi đã hát vang bài ca ấy vào những dịp lễ hội long trọng. Hãy cất bước đi lên, chiến thắng, chiến thắng và chiến thắng. Đó là quốc ca Ấn Độ.
Và câu này nữa: Amar sonar Bangla ami tomay bhalo basi!... Xứ sở Bengal vàng mười, ta yêu người! Đó là quốc ca Bangladesh. Còn có ai khác ngoài Rabindranath Tagore là tác giả hai bài quốc ca của hai đất nước? Bangladesh và xứ Tây Bengal thuộc lãnh thổ Ấn Độ bây giờ, vì hoàn cảnh lịch sử mà phải chia cắt, còn xưa nay vẫn chung một nền văn hóa Bengal, chung một thứ tiếng Bengali của Tagore, đến bây giờ người dân hai nước vẫn trân trọng những vần thơ và bài ca Tagore để lại.
Sự nghiệp đồ sộ hàng nghìn bài thơ, hàng trăm truyện ngắn, hàng chục tiểu thuyết, hàng trăm bài hát vẫn còn đang được hát lên khắp xứ sở. Năm 1912 Tagore trở thành người châu Á đầu tiên đoạt giải Nobel văn học, tác phẩm chính được Viện Hàn lâm Thụy Điển nêu ra để tôn vinh là tập Thơ dâng (Gitanjali).

Không chỉ giới hạn ở văn học và âm nhạc, ở tuổi 65, Tagore bắt đầu cầm cọ vẽ, màu nguyên thủy tự chế từ hoa cỏ và các nguyên liệu tự nhiên. Hơn 2.000 bức tranh trong suốt 15 năm cuối đời, hẳn một phòng tranh lớn bây giờ trở thành một phần quan trọng của bảo tàng.
Thăm hết nhà bảo tàng trong một buổi trưa. Chia tay, ai cũng lưu luyến. Chuyến thăm bảo tàng nằm ngoài chương trình, không ai mang theo vật lưu niệm gì tặng lại nhà bảo tàng. Nhà thơ Hữu Thỉnh rút trong túi ra tờ giấy bạc 10.000 đồng đỏ au mới cứng. Kỷ niệm đây, đây là hình Chủ tịch Hồ Chí Minh. Mấy người Ấn Độ reo lên: Thành phố Kolkata (tên cũ là Calcutta) của chúng tôi có một đường phố mang tên Hồ Chí Minh, các bạn biết chưa?
Năm 1929 Tagore đã đến thăm Sài Gòn và có bài diễn thuyết về sự hài hòa vũ trụ, các bạn biết chưa? Nhưng chúng tôi không dám nhận tờ tiền này đâu. Phải giải thích đây là tờ giấy bạc in hình Hồ Chí Minh, ở VN chúng tôi thì đây là cử chỉ lì xì mừng tuổi đầu năm mới.
Nói thì mới nhớ, chúng tôi đang đứng giữa Bảo tàng Tagore vào trưa 31-1-2006, ở nhà bây giờ mới là trưa mồng 3 Tết Bính Tuất.
(Theo tuoitre.vn)
Câu 7 [706319]: (4,0 điểm)
Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ), trình bày suy nghĩ của anh/ chị về vai trò của phụ nữ và vấn đề bình đẳng giới.
Bài văn trình bày suy nghĩ về vai trò của phụ nữ và vấn đề bình đẳng giới có thể được triển khai nhiều cách. Song cần bảo đảm các ý:
1. Mở bài (gián tiếp)
- Dẫn dắt vấn đề
- Nêu vấn đề
Ví dụ:
Đời thiếu mẹ hiền, không phụ nữ
Anh hùng, thi sĩ hỏi còn đâu

Những dòng thơ của M. Gorki đã ngợi ca tột cùng những người phụ nữ - một nửa thế giới của chúng ta. Thực vậy, phụ nữ có vai trò vô cùng quan trọng trong cuộc đời này, song sự hiện diện của họ đã thực sự được ngang hàng, bình đẳng với những người đàn ông - nửa còn lại của nhân loại?
2. Thân bài
- Giải thích ngắn gọn:
+ “Bình đẳng giới”: là sự bảo đảm mọi người đều được đối xử công bằng, có các cơ hội và quyền lợi tương đương, không phân biệt giới tính.
+ “Vai trò của phụ nữ”: trách nhiệm, khả năng đóng góp của phụ nữ (trong việc tạo nên sự bình đẳng giữa nam và nữ trong xã hội).
- Nguyên do khiến bình đẳng giới trở thành vấn đề của xã hội:
+ Trong xã hội phong kiến, người phụ nữ gần như không có vị trí trong xã hội. Các quan niệm “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” (Có một con trai cũng là có, có mười con gái cũng như không), “Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử” (Ở nhà phải theo cha, lấy chồng phải theo chồng, chồng chết phải theo con), “Cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy” (cha mẹ có quyền sắp xếp, lựa chọn, quyết định hôn nhân của con cái, đặc biệt là con gái), “Trai năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên chỉ lấy một chồng” (đàn ông được lấy nhiều vợ nên đàn bà phải nhận kiếp chung chồng),... trở thành những chế đình kìm kẹp, trói buộc cuộc đời, số phận của người phụ nữ. Những quan niệm này khiến người phụ nữ không được sống cuộc sống bình thường như đàn ông: học hành, tham gia các công việc xã hội, tự do yêu đương,...
+ Trong xã hội hiện đại:
• Ngày 8/3/1857, các công nhân ngành dệt tại thành phố New York (Mỹ) biểu tình phản đối điều kiện làm việc tồi tàn và đấu tranh đòi hỏi cải thiện môi trường lao động của họ. Một số sự kiện sau đó diễn ra trên thế giới thể hiện rõ nét tầm quan trọng ngày càng cao của phong trào nữ quyền.
• Năm 1975, Liên Hiệp Quốc lần đầu tiên tổ chức Ngày Quốc tế Phụ nữ, đánh dấu một bước ngoặt lớn trong việc công nhận vai trò và quyền lợi của phụ nữ. Năm 1977, Liên Hiệp Quốc chính thức đề nghị các quốc gia dành một ngày để tôn vinh quyền lợi của phụ nữ và thúc đẩy hòa bình thế giới và ngày 8/3 hằng năm được chọn là Ngày Quốc tế Phụ nữ.
- Bình luận về vai trò của phụ nữ và vấn đề bình đẳng giới: Phụ nữ có vai trò đầu tiên và đặc biệt quan trọng trong vấn đề bình đẳng giới. Bởi lẽ hơn ai hết, chính chính người phụ nữ phải nhận thức và nỗ lực hành động để giành lại sự bình đẳng cho chính mình trước nam giới. (Có những người phụ nữ xuất phát từ nhận thức, tâm lí cam chịu, nô lệ nên tự nguyện để mình lép vế trước chồng, con.
• Về nhận thức: Phụ nữ cần hiểu bình đẳng giới góp phần ngang hàng vị thế của phụ nữ với người đàn ông trong xã hội, mang lại cho họ đầy đủ quyền con người: quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc (được học hành, được tham gia vào mọi công việc của xã hội, phát triển bản thân,...). Lịch sử phát triển xã hội cho thấy không thể có tiến bộ xã hội nếu như một bộ phận của xã hội còn bị hạn chế hay bị loại trừ ra khỏi những hoạt động chính của xã hội, do đó sự tiến bộ xã hội chỉ có thể đạt được khi bình đẳng nam nữ được thực hiện, phụ nữ được tham gia mọi hoạt động xã hội ngang bằng với nam giới.
• Về hành động: Sự bình đẳng không do bất kì thế lực nào mang đến cho phụ nữ nên chính họ phải hành động để khẳng định sự bình đẳng của mình so với đàn ông trong xã hội.
+ Vai trò của phụ nữ đối với vấn đề bình đẳng giới được thể hiện ở các phạm vi:
• Đối với bản thân: biết nâng niu, tôn trọng, trân trọng chính bản thân mình; không ngừng học hỏi để phát triển, hoàn thiện bản thân; chủ động, độc lập trong cuộc sống của chính mình.
• Đối với gia đình: yêu thương người thân; làm tròn bổn phận, trách nhiệm của một người vợ, người mẹ trong gia đình; đồng hành cùng gia đình trong mọi điều kiện, hoàn cảnh sống.
• Đối với xã hội: tham gia và có những đóng góp tích cực trong khả năng của bản thân để xây dựng cộng đồng xã hội.
+ Thực tế, trong xã hội ngày nay, về cơ bản phụ nữ được bình quyền với nam giới ở mọi mặt. Họ có mặt trong mọi vị trí, công việc và gặt hái được những thành công đáng trân trọng. Tuy nhiên, đâu đó ở một số vùng xa xôi, hẻo lánh hoặc những nơi còn tư tưởng phong kiến với những định kiến hà khắc đối với phụ nữ, nhiều người phụ nữ vẫn phải chịu thiệt thòi, thậm chí có cuộc đời, số phận bất hạnh. Kinh khủng hơn, nạn buôn bán phụ nữ vẫn đang diễn ra ở một số quốc gia bất chấp nỗ lực ngăn chặn của các Nhà nước và các tổ chức nhân quyền...
- Để vai trò của phụ nữ góp phần tích cực trong việc tạo nên bình đẳng giới
+ Người phụ nữ: nhận thức đúng đắn về bình đẳng giới, nỗ lực không ngừng để có được sự bình đẳng trong chính cuộc sống của mình.
+ Gia đình: Mỗi thành viên trong gia đình cần yêu thương, tôn trọng, sẻ chia với bà, với mẹ, với các chị em gái của chúng ta bởi họ là một nửa vô cùng quan trọng trong cuộc đời của chúng ta.
+ Xã hội: Tăng cường bình đẳng và công bằng giữa các giới và trao quyền lực cho phụ nữ, xoá bỏ mọi loại bạo lực xâm hại đến phụ nữ và đảm bảo cho phụ nữ khả năng kiểm soát, khả năng sinh sản của chính họ là những nền tảng của các chương trình dân số và các chương trình có liên quan đến phát triển.
3. Kết bài
Rút ra bài học nhận thức và hành động

- Nhận thức: Hãy yêu thương, tôn trọng, trân trọng phụ nữ.
- Hành động: Luôn thể hiện tình cảm yêu thương, trân trọng phụ nữ từ những việc bình thường, nhỏ nhặt nhất trong cuộc sống đời thường.
(Lưu ý: Bổ sung dẫn chứng để hoàn thiện bài văn.)