I. ĐỌC HIỂU (4,0 điểm)
Đọc bài thơ:
        NGƯỜI ĐÀN BÀ NGỒI ĐAN
                        (Ý Nhi)
Giữa chiều lạnh
Một người đàn bà ngồi đan bên cửa sổ
Vẻ vừa nhẫn nại vừa vội vã
Nhẫn nại như thể đó là việc phải làm suốt đời
Vội vã như thể đó là lần sau chót

Không thở dài
Không mỉm cười
Chị đang giữ kín đau thương
Hay là hạnh phúc
Lòng chị đang tràn đầy niềm tin
Hay là ngờ vực

Không một lần nào chị ngẩng nhìn lên
Chị đang qua những phút giây trước lần gặp mặt
Hay sau buổi chia li

Trong mũi đan kia ẩn giấu niềm hân hoan hay nỗi lo âu
Trong đôi mắt kia là chán chường hay hi vọng

Giữa chiều lạnh
Một người đàn bà ngồi đan bên cửa sổ
Dưới chân chị
Cuộn len như quả cầu xanh
Đang lăn những vòng chậm rãi.
1/ 1984
(Theo nhavanhanoi.vn)
Thực hiện các yêu cầu:
Câu 1 [706473]: Bài thơ được viết theo thể thơ nào?
Bài thơ được viết theo thể thơ tự do.
Câu 2 [706474]: Chỉ ra bối cảnh xuất hiện nhân vật.
Bối cảnh xuất hiện nhân vật: giữa chiều lạnh, bên cửa sổ.
Câu 3 [706475]: Phân tích sự kết hợp giữa các phương thức biểu đạt trong văn bản.
- Văn bản kết hợp các phương thức biểu đạt:
+ Biểu cảm: thể hiện qua nỗ lực (của nhân vật trữ tình) khám phá, suy đoán cảm xúc, ý nghĩ trong người đàn bà ngồi đan bên cửa sổ.
+ Tự sự: kể sự việc có một người đàn bà ngồi đan bên cửa sổ trong một chiều lạnh; dưới chân chị, cuộn len xanh đang lăn.
+ Miêu tả: Trong bài thơ có các chi tiết miêu tả dáng điệu, dáng vẻ bề ngoài (vội vã, nhẫn nại, không thở dài, không mỉm cười, không một lần nào chị ngẩng nhìn lên), suy đoán tâm trạng của người đàn bà ngồi đan (giữ kín đau thương, hạnh phúc, tràn đầy niềm tin, ngờ vực, hân hoan, lo âu, chán chường, hi vọng); miêu tả hình ảnh cuộn len như quả cầu xanh, đang lăn những vòng tròn chậm rãi.
- Tác dụng của sự kết hợp các phương thức biểu đạt trong bài thơ:
+ Khắc hoạ chân dung hình tượng nhân vật người đàn bà ngồi đan trong cái nhìn đa diện, nhiều chiều.
+ Giúp nhân vật trữ tình bộc lộc kín đáo cảm xúc, suy nghĩ của bản thân về đối tượng được khắc hoạ.
Câu 4 [706476]: Phân tích tác dụng của phép đối lập được sử dụng trong bài thơ.
- Phép đối lập được sử dụng triệt để, suốt dọc bài thơ, qua các cặp từ ngữ: vừa nhẫn nại - vừa vội vã, suốt đời - sau chót, thở dài - mỉm cười, đau thương - hạnh phúc, niềm tin - ngờ vực, lần đầu gặp mặt - chia li, hân hoan - lo âu, chán chường - hi vọng.
- Tác dụng:
+ Góp phần làm cho lời thơ trở nên đăng đối, nhịp nhàng, hài hoà, cân xứng; góp phần mang sự sinh động, hấp dẫn cho lời thơ.
+ Tô đậm thế giới nội tâm đầy bí ẩn, khó đoán biết của người đàn bà ngồi đan.
Câu 5 [706477]: Cảm nhận của anh/ chị về một chi tiết khiến anh/chị ấn tượng nhất trong bài thơ (trình bày khoảng 5 - 7 dòng).
Thí sinh tự do bày tỏ chi tiết trong bài thơ khiến bản thân ấn tượng nhất; đồng thời lí giải ngắn gọn lí do. Chẳng hạn:
- Chi tiết ấn tượng: Trong mũi đan kia ẩn giấu niềm hân hoan hay nỗi lo âu.
- Lí do ấn tượng: Đan (len) là hành vi kết dệt, móc nối các sợi len với nhau theo quy luật nhất định để tạo nên thành phẩm hoàn thiện (khăn, mũ, áo, găng tay,...). Hành vi này gợi đến hành trình kiến tạo cuộc sống, sự sống. Các từ ngữ hân hoan, lo âu gợi các sắc thái cảm xúc trong tâm trạng của con người. Hình ảnh mũi đan trong chi tiết bởi thế khiến chúng ta nghĩ đến hành trình kiến tạo sự sống. Cuộc đời của mỗi con người luôn được đan dệt bởi biết bao nhiêu những vui buồn sướng khổ, mừng vui hi vọng, thấp thỏm âu lo... như thế.
II. VIẾT (6,0 điểm)
Câu 6 [706478]: (2,0 điểm)
Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) cảm nhận hình tượng nhân vật người đàn bà ngồi đan trong bài thơ ở phần Đọc hiểu.
Đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) cảm nhận về hình tượng nhân vật người đàn bà ngồi đan trong bài thơ cùng tên của nhà thơ Ý Nhi có thể được triển khai theo hướng:
- Ý Nhi là một trong những gương mặt tiêu biểu của thơ ca Việt Nam hiện đại, cùng thế hệ với các nhà thơ nữ tài hoa như Xuân Quỳnh, Phan Thị Thanh Nhàn, Nguyễn Thị Hồng Ngát,...
- Người đàn bà ngồi đan là một trong những thi phẩm đặc sắc góp phần làm nên tên tuổi của nhà thơ Ý Nhi. Hình tượng người đàn bà ngồi đan trong bài thơ mang đến người đọc nhiều ấn tượng:
+ Nhân vật được đặt trong bối cảnh giữa chiều lạnh, bên cửa sổ, rất rõ ràng về vị trí chỗ ngồi và về không gian, thời gian. Các chi tiết ngoài sự rõ ràng còn lại không khơi gợi thêm bất cứ điều gì ngoài cảm giác về sự sơ giản, đời thường.
+ Người đàn bà ngồi đàn được nhân vật trữ tình quan sát khá chi tiết:
• Dáng điệu, dáng vẻ bề ngoài: vừa nhẫn nại vừa vội vã, không thở dài, không mỉm cười, không một lần nào chị ngẩng nhìn lên. Chi tiết gợi hình ảnh người đàn bà liên tục, liên tiếp, miệt mài, mải miết với những mũi đan lên xuống nhịp nhàng, không ngừng dứt, không ngơi nghỉ. Và bởi chị cúi xuống với những mũi đan, gương mặt gần như không một nét biểu cảm (không mỉm cười, không thở dài) nên nhân vật trữ tình không thể đoán biết được bất cứ điều gì trong cảm xúc, suy nghĩ của chị.
• Từ việc không thể đoán định được tâm trạng thực sự của người đàn bà ngồi đan nên nhân vật trữ tình đã liên tục có những suy đoán về chị. Một loạt chi tiết đối lập (đang giữ kín đau thương/ hay là hạnh phúc; lòng tràn đầy niềm tin/ hay là ngờ vực; đang đi qua những phút giây trước lần gặp mặt/ hay sau buổi chia li; hân hoan hay lo âu; chán chường hay hi vọng) là những giả định về trạng thái tâm lí người đàn bà ngồi đan. Những hoài nghi liên tiếp càng cho thấy sự bất lực trong việc ấn định, luận giả tâm trạng nhân vật. Mặc kệ tất cả, người đàn bà vẫn cúi xuống với những mũi đan của mình, mải miết, mải miết ngồi đan bên cửa sổ. Chuỗi chi tiết miêu tả những suy đoán của nhân vật trữ tình về tâm trạng của người đàn bà ngụ ý thực nhiều điều: nội tâm ấy bí ẩn quá, phức tạp quá, thật khó lường, khó đoán; mặc kệ mọi cuồng quay, xoay trở bên ngoài, người đàn bà vẫn đóng kín nội tâm và an nhiên với công việc của mình, không mảy may quan tâm đến thế giới xung quanh. Với ngụ ý thứ hai, hình tượng người đàn bà ngồi đan được khoác lên một vẻ đẹp, vẻ đẹp của một người phụ nữ với tâm thế tự tại, làm chủ cuộc đời.
• Hình ảnh người đàn bà ngồi đan bên cửa sổ/ dưới chân chị/ cuộn len như quả cầu xanh/ đang lăn những vòng chậm rãi lặp lại sự xuất hiện ban đầu của nhân vật, gấp đôi thêm lần nữa cảm nhận về một vẻ đẹp giản dị, đời thường, an nhiên, tự tại giữa những vòng xoáy của cuộc đời.
<*> Tham khảo bài viết:
Bài thơ của Ý Nhi đem ra cái lạnh của không gian đất trời và cái hạn hẹp của không - gian - nhà để mà tượng hình lên chân dung Người đàn bà ngồi đan. Tư thế và tâm thế của một nhân vật trữ tình cụ thể hiện lên trong công việc đời thường - công việc của người đàn bà rất Á Đông. Nếu kể cả tên bài thơ, hình ảnh đầy chất gợi cảm và gợi suy, được tác giả điệp lại tới ba lần. Và, hình ảnh ấy vừa chạm khắc nên hình, lại vừa tỏa lan tâm tình đi suốt bài thơ.
Ý Nhi như “bắt mạch” ra tâm tư nhân vật thơ của mình - ấy là những trạng thái nhất quán và trái chiều, đồng nhất và khác biệt của con người “ngồi đan bên cửa sổ” với vẻ vừa nhẫn nại vừa vội vã; cả niềm hân hoan hay nỗi lo âu; và, với cả Trong đôi mắt kia là chán chường hay hi vọng… Có một thời gian và không gian xác định của sự hiện diện hình ảnh Người đàn bà ngồi đan. Con người lặng thầm với công việc của mình kia giữa chiều lạnh. Một chiều lạnh hay nhiều buổi chiều như thế của đời người, làm sao mà đo đếm hết được!(?)
Bài thơ của Ý Nhi vẽ ra cảnh tượng con người trong đời sống lành thường, quen thuộc. Từ tả công việc ngồi đan của người đàn bà, nhà thơ với xúc cảm phụ nữ mà đan tiếp, dệt tiếp vào chiều sâu nội tâm của Người đàn bà ngồi đan. Bao nhiêu là chiều hướng tâm sự ẩn sâu bên trong cái vẻ ngoài nhẫn nại - Nhẫn nại như thể đó là việc phải làm suốt đời. Mượn cái không của vẻ ngoài người đàn bà: Không thở dài/ không mỉm cười… không một lần chị ngẩng nhìn lên, để rồi nhà thơ gợi mở cho sự khám phá của người đọc thơ về khả năng vô tận, muôn chiều của cái có trong tâm tư nhân vật trữ tình.
Những cái có thực sự ắp đầy và trào dâng trong chiều sâu nội tâm của người đàn bà giữa đời thường. Song, điều đáng nói là ở chỗ những cái có trong tâm tư ấy, lại hiện hữu ở hai chiều tương phản, đối lập: đau thương hay hạnh phúc, niềm tin hay ngờ vực, gặp mặt hay chia li, hân hoan hay lo âu...
Những trạng thái tâm tư trái chiều ấy, có mặt ở mọi nơi từ phía người đàn bà ngồi đan. Từ tâm tư ẩn chứa mà chị đang giữ kín, từ trong đôi mắt kia là chán chường hay hi vọng của chị, tâm tư bộn bề và phức điệu ấy dường như cũng nương náu, trú ngụ cả trong mũi kim kia ẩn giấu… Hình ảnh Người đàn bà ngồi đan với cả hai tầng diện mạo: diện mạo bên ngoài và diện mạo nội tâm, được nhà thơ nữ lặng lẽ quan sát. Lặng lẽ ghi nhận và đồng cảm để rồi đan dệt nên những lời thơ bình dị mà rất đỗi sâu xa, gợi nghĩ như hơi thở của cuộc sống thường nhật:
Chị đang giữ kín đau thương
Hay hạnh phúc
Lòng chị đang tràn đầy niềm tin
Hay ngờ vực
… Trong mũi đan kia ẩn giấu niềm hân hoan
Hay nỗi lo âu
Trong đôi mắt kia là chán chường hay hi vọng

Mượn hàng loạt những yếu tố không xác định, cứ chơi vơi, lửng lơ theo hai hướng: được - mất; buồn - vui; hợp - tan..., nhà thơ như muốn nhìn sâu vào hiện thực nhân sinh để khái quát về sự tất yếu khách quan - sự tất yếu nằm ngoài mọi toan tính chủ quan của chính con người. Bài thơ khép lại bằng một hình ảnh được ví như quả cầu xanh - Đang lăn những vòng chậm rãi - cuộn len lăn ngoài vòng đời!
Phải chăng những điều “ý tại ngôn ngoại” mà nhà thơ muốn tâm tình và nhắn nhủ: con người biết sống giữa cuộc đời bởi chính khả năng tự tại, tự ý thức của mình. Bài thơ của Ý Nhi dường như cũng giấu đi những lời khen, chê, bình luận về cuộc sống và phận người. Mà, để cho ta tự ngẫm thêm về hình ảnh Người đàn bà ngồi đan giữa chiều lạnh cuộc đời.
Hà Nội, 6/4/2007
(Theo nhavanhanoi.vn)
Câu 7 [706479]: (4,0 điểm)
Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ), trình bày suy nghĩ của anh/chị về câu nói sau đây:
Quá nhiều người trong chúng ta không sống với ước mơ bởi vì chúng ta đang sống trong nỗi sợ hãi của chính mình. (Les Brown)
Bài văn trình bày suy nghĩ về câu nói của Les Brown: Quá nhiều người trong chúng ta không sống với ước mơ bởi vì chúng ta đang sống trong nỗi sợ hãi của chính mình. có thể được triển khai nhiều cách. Song cần bảo đảm các ý:
1. Mở bài (gián tiếp)
- Dẫn dắt vấn đề
- Nêu vấn đề
Ví dụ: Khi chúng ta thổi tắt những ngọn nến trên chiếc bánh sinh nhật, khi chúng ta thả những chùm bóng bay sắc màu lên bầu trời, khi chúng ta gấp trăm nghìn con hạc giấy,... chúng ta đều gửi vào đó những giấc mơ. Và với một số người, họ quyết tâm để thực hiện những ước mơ của cuộc đời mình. Với một số khác, như Les Brown nói, họ lại không sống với ước mơ bởi vì chúng ta đang sống trong nỗi sợ hãi của chính mình. Điều Les nói có thực đúng?
2. Thân bài
- Giải thích ngắn gọn ý nghĩa câu nói: Câu nói khẳng định nỗi sợ hãi là trở lực/ lực cản khiến khiến nhiều người không dám sống với ước mơ.
- Bình luận câu nói:
+ Câu nói đúng, bởi lẽ:
• Ước mơ là mong muốn thiết tha điều tốt đẹp trong tương lai. Song điều tốt đẹp sẽ không bao giờ hiện hữu trong tương lai nếu con người ta chỉ đứng yên đó và chờ may mắn đưa đến. Ước mơ sẽ mãi mãi chỉ là ước mơ khi chúng ta không hiện thực hoá nó.
Để ước mơ thành hiện thực thì con người phải hành động, thậm chí phải tích cực, nỗ lực hành động, nỗ lực vượt qua những trở lực, trở ngại có thể xảy đến. (Một học trò muốn vượt qua các kì thi chắc chắn phải có những ngày đêm miệt mài đèn sách; một vận động viên thể thao muốn chạm tay vào những tấm huy chương danh giá chắc chắn phải không ngừng rèn tập mỗi ngày; người nông dân muốn có vụ mùa bội thu không thể không đổ mồ hôi công sức; người nghệ sĩ muốn có tác phẩm nghệ thuật để đời không thể không khổ nhọc trong hành trình sáng tạo;...)
• Trong hành trình chinh phục ước mơ, nếu chúng ta sợ hãi chùn bước trước những trở lực hiện hữu thì trở lực ấy sẽ vẫn luôn sừng sững để cản đường chúng ta. (Nỗi sợ thi rớt sẽ làm mất tinh thần cậu học trò; nỗi sợ thất bại sẽ làm nhụt chí vận động viên; nỗi sợ thất bát khiến người nông dân không dám đầu tư công sức; nỗi sợ không tạo nên thành quả khiến người nghệ sĩ mãi mãi nhàn nhạt, một màu, lu mờ giữa muôn vàn;...)
+ Ý kiến xác đáng nhưng chưa thực sự đầy đủ: Triệt tiêu ước mơ của con người không chỉ có nỗi sợ hãi trong mỗi người, đôi khi lại là chính ước mơ ấy không đủ lớn hoặc quá viển vông, xa vời, không tưởng. Cũng đôi khi nguyên do lại xuất phát từ chính sự may rủi được mang đến từ hoàn cảnh khách quan...
+ Để vượt qua nỗi sợ hãi, chạm tay vào ước mơ, mỗi người cần:
• Có nhận thức đúng đắn về sự cần thiết phải biết mơ ước trong cuộc đời: Ước mơ không chỉ là mục tiêu mà còn là động lực để mỗi chúng ta không ngừng vươn lên trong cuộc đời; ước mơ góp phần mang lại vẻ đẹp lãng mạn, thi vị trong cuộc sống của chúng ta.
• Biết nuôi ước mơ đủ lớn, rèn giũa cho mình một ý chí, nghị lực phi thường, một quyết tâm cao độ để hiện thực hoá ước mơ.
3. Kết bài
Rút ra bài học nhận thức và hành động

- Ước mơ điều tốt đẹp là khát vọng chúng ta nên có trong cuộc đời.
- Hãy nỗ lực hết mình, đạp bằng mọi trở lực, vượt lên nỗi sợ hãi trong chính bản thân để hiện thực hoá khát vọng ấy.
(Lưu ý: Bổ sung dẫn chứng để hoàn thiện bài văn.)