I. ĐỌC HIỂU (4,0 điểm)
Đọc bài thơ:
ĐỒNG DAO CHO NGƯỜI LỚN
        (Nguyễn Trọng Tạo)
có cánh rừng chết vẫn xanh trong tôi
có con người sống mà như qua đời

có câu trả lời biến thành câu hỏi
có kẻ ngoại tình ngỡ là tiệc cưới

có cha có mẹ có trẻ mồ côi
có ông trăng tròn nào phải mâm xôi

có cả đất trời mà không nhà ở
có vui nho nhỏ có buồn mênh mông

mà thuyền vẫn sông mà xanh vẫn cỏ
mà đời vẫn say mà hồn vẫn gió

có thương có nhớ có khóc có cười
có cái chớp mắt đã nghìn năm trôi...
Nguyên Đán 1992
(Theo Sông Hương Thơ (1983 - 2003) tuyển chọn, NXB Văn hoá Thông tin, 2003)
Thực hiện các yêu cầu:
Câu 1 [706487]: Bài thơ được viết theo thể thơ nào?
Bài thơ được viết theo thể thơ tám chữ.
Câu 2 [706488]: Nhân vật trữ tình trong bài thơ là ai?
Nhân vật trữ tình trong bài thơ: tác giả (ẩn danh).
Câu 3 [706489]: Chỉ ra giọng điệu của tác phẩm.
Giọng điệu của tác phẩm: suy tư, chiêm nghiệm, triết lí.
Câu 4 [706490]: Phân tích tác dụng của nghệ thuật đối lập được sử dụng trong thi phẩm.
- Phép đối (đối ý)
+ Đối lập (đối tương phản) được sử dụng dày đặc, xuyên suốt thi phẩm: chết - vẫn xanh; sống - qua đời; câu trả lời - câu hỏi; ngoại tình - tiệc cưới; có cha có mẹ - có trẻ mồ côi; ông trăng tròn - trăng khuyết (nào phải mâm xôi); có cả đất trời - không nhà ở; vui nho nhỏ - buồn mênh mông; khóc - cười; chớp mắt - nghìn năm.
+ Đối tương hỗ: mà thuyền vẫn sông - mà xanh vẫn cỏ, mà đời vẫn say - mà hồn vẫn gió.
+ Đối lập giữa bao nghịch lí, khổ đau (thể hiện qua chuỗi đối lập) và cái an yên, đẹp đẽ (thể hiện qua chuỗi đối tương hỗ) trong đời.
- Tác dụng:
+ Tạo nên sự hài hoà, đăng đối cho lời thơ; khiến lời thơ thêm sinh động, hấp dẫn, giàu sức gợi hình, gợi cảm.
+ Phép đối lập nhấn mạnh nét nghĩa về sự tương phản giữa nhiều sự vật, sự việc, hiện tượng trong đời sống, giúp tác giả truyền đi thông điệp.
+ Thể hiện chiêm nghiệm sâu sắc của nhân vật trữ tình - tác giả: Cuộc đời vốn tiềm chứa rất nhiều nghịch lí, mâu thuẫn, xung đột (thậm chí nhiều hơn gấp bội lần những an yên) nhưng không vì thế mà chúng ta cảm thấy bất an. Cuộc sống vẫn rất đẹp, rất thơ, rất thăng hoa (mà thuyền vẫn sông mà xanh vẫn cỏ/ mà đời vẫn say mà hồn vẫn gió).
Câu 5 [706491]: Ghi lại cảm nhận về một cặp câu thơ khiến anh/ chị ấn tượng sâu sắc nhất (trình bày khoảng 5 - 7 dòng).
Thí sinh tự do ghi lại cảm nhận về một cặp câu thơ khiến bản thân ấn tượng sâu sắc nhất; đồng thời lí giải ngắn gọn, thuyết phục vì sao. Chẳng hạn:
- Ấn tượng nhất với cặp câu thơ:
mà thuyền vẫn sông mà xanh vẫn cỏ
mà đời vẫn say mà hồn vẫn gió

- Nguyên do: Đây là hai dòng thơ “lạc điệu” với tất cả các dòng thơ khác trong bài thơ. Duy nhất cặp câu thơ này không diễn đạt các nghịch lí trong cuộc đời mà tập trung gợi cảm nhận về cái đẹp hằng thường, miên viễn của đất trời (thuyền vẫn sông, xanh vẫn cỏ), của con người (đời vẫn say, hồn vẫn gió). Hai dòng thơ như lời “mặc kệ” đầy an nhiên, tự tại của con người biết đứng trên những sai quấy, phi lí, bất công.
II. VIẾT (6,0 điểm)
Câu 6 [706492]: (2,0 điểm)
Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) cảm nhận thông điệp từ bài thơ ở phần Đọc hiểu.
Đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) cảm nhận thông điệp từ bài thơ Đồng dao cho người lớn (Nguyễn Trọng Tạo) có thể được triển khai theo hướng:
- Nguyễn Trọng Tạo là một trong những nghệ sĩ tài hoa xuất sắc của thơ ca nghệ thuật Việt Nam. Ngoài viết thơ, ông còn sáng tác nhạc, viết truyện ngắn, viết phê bình,...
- Đồng dao cho người lớn là bài thơ (cũng là tên một tập thơ) của Nguyễn Trọng Tạo. Bài thơ ngắn gọn, hàm súc và dư ba, để lại trong người đọc nhiều ngẫm ngợi sâu sắc. Thông điệp của bài thơ được thi nhân chuyển tải đến người đọc qua nhiều yếu tố:
+ Nhan đề:
• Đồng dao: lời hát dân gian truyền miệng của trẻ em, thường kèm một trò chơi nhất định.
• Đồng dao cho người lớn: lời hát cho người lớn. Hai chữ đồng dao làm giảm đi tính chất “nghiêm trọng” của những chiêm nghiệm, ngẫm ngợi. Với nhan đề này, có cảm giác tác giả muốn nói rằng: Tôi muốn chia một chút, vui thôi, tin thì tin, không tin thì thôi!
+ Suốt dọc bài thơ là chuỗi nghịch lí:
• Giữa các trạng thái tồn tại (chết - vẫn xanh; sống - qua đời; câu trả lời - câu hỏi; có cha có mẹ - có trẻ mồ côi; ông trăng tròn - trăng khuyết (nào phải mâm xôi); có cả đất trời - không nhà ở; chớp mắt - nghìn năm); giữa các cách ứng xử (ngoại tình - tiệc cưới); giữa các trạng thái cảm xúc (vui nho nhỏ - buồn mênh mông; khóc - cười).
• Giữa bao nghịch lí, khổ đau (thể hiện qua chuỗi đối lập) và cái an yên, cái đẹp đẽ vẫn tự tại, an nhiên, vẫn phơi phới, thăng hoa (mà thuyền vẫn sông mà xanh vẫn cỏ/ mà đời vẫn say mà hồn vẫn gió).
Chuỗi đối lập này trước hết thể hiện nhận thức, chiêm nghiệm thú vị mà sâu sắc của nhân vật trữ tình - tác giả về cuộc đời: Cuộc đời vốn tiềm chứa rất nhiều mâu thuẫn, có cảm giác như những xung đột ấy có mặt ở khắp mọi nơi chốn. Dẫu vậy, chúng ta đừng mất niềm tin với cuộc đời. Hãy ung dung trước nó bởi cuộc sống vẫn còn rất nhiều điều đẹp đẽ, thơ mộng và chúng tồn tại hiển nhiên như quy luật tự nhiên, không khác được (mà thuyền vẫn sông mà xanh vẫn cỏ), để cho mỗi chúng ta có thể say sưa thưởng lãm và thăng hoa với nó (mà đời vẫn say mà hồn vẫn gió).
- Thông điệp của bài thơ nhẹ nhàng mà sâu sắc, cho thấy trí tuệ sắc sảo, thấu đạt trong tâm hồn nghệ sĩ tài hoa; mang đến người đọc bài học giản dị mà đậm chất nhân văn.
<*> Tham khảo bài viết:
Có cánh rừng chết vẫn xanh trong tôi
Có con người sống mà như qua đời

Với mười hai câu thơ, đứng sóng đôi thành từng cặp, từng khổ, bài thơ có cái tên lạ vừa định hướng, vừa gợi nghĩ “Đồng dao cho người lớn” của Nguyễn Trọng Tạo, mở ra cặp thơ đầu như vậy.
Chỉ mới có cặp thơ mở đầu và trình làng này, Nguyễn Trọng Tạo đã gây tác động trực tiếp cho tôi về một cách nhìn, một quan niệm nhân sinh, dung nạp và thỏa mãn ở cả hai chiều hướng: đạo và đời. Cái đạo cho ta nhìn sự khách quan không bằng nhãn quan lạnh lùng như điều nó vốn có - “Có cánh rừng chết vẫn xanh trong tôi”. Và, chất đời thật sự khách quan và nhân ái, lại cho ta có cách nhìn nhân sinh thật bình tĩnh, thông minh: “Có con người sống mà như qua đời”. Bởi thế, người viết bài này không sợ võ đoán và cảm tính, khi đưa ra một lời bình giá khái quát. Rằng: “Đồng dao cho người lớn” của Nguyễn Trọng Tạo với một dung lượng có thể nói là kiệm lời, đã tạo được sự tương hợp tự nhiên của hai tố chất cảm xúc và suy nghĩ, trữ tình và triết lí... để trao gửi bức thông điệp nhân sinh mà như tác giả thật hóm hỉnh và sâu sắc, từ tên bài thơ của mình.
Bài thơ của Nguyễn Trọng Tạo, với những hình tượng thơ được sóng đôi như đã nói ở trên, xét về phương diện cấu tứ đã tạo nên mạch cảm xúc và điểm nhìn đối lập và đồng nhất, khi hướng tới đời người. Cảm quan nhân sinh cũng được khơi gợi và mang dư vị triết lí từ đấy!
Từ sự gửi gắm cách nhìn nhận của những sinh thể sống (cánh rừng hay con người), nhà thơ mở tiếp, mở rộng ra cách nhìn nhận biết trực diện vào cõi nhân sinh; tình ý của Nguyễn Trọng Tạo cũng mở tiếp ra chiều xa rộng của cuộc đời.
Nhà thơ cảm nhận và thấu thị ra những chiều hướng mong manh đi giữa đường biên của những phạm trù được - mất, có - không, hồi đáp - nghi vấn...
Có câu trả lời biến thành câu hỏi
Có kẻ ngoại tình ngỡ là tiệc cưới

Với những lời thơ này, Nguyễn Trọng Tạo vừa gửi tâm tình vào thực tế cuộc đời; mặt khác, người thơ lại chạm vào một thứ chân lí đích đáng mà những điều khách quan cuộc sống giúp ta thức ngộ. Hình như giữa muôn hình vạn nẻo của đời thường, của kiếp nhân sinh, có bao giờ tìm được đáp số duy nhất, như nhất. Thế nên, câu trả lời thoắt “biến thành câu hỏi”. Ngỡ như đi tìm đáp số, đi tìm lời giải cho muôn thuở cuộc đời, trớ trêu thay, con người lại tự rơi tiếp vào thế giới mông lung, mơ hồ. Và, cả niềm day dứt, băn khoăn khôn nguôi. Nỗi niềm day dứt về cõi nhân sinh, trở thành điểm chung ý, chung tình của biết bao thi nhân kim - cổ. Từng có một Nguyễn Du khắc khoải trước nỗi “kì oan” của khách đa tình, đa cảm: “Cổ kim hận sự thiên nan vấn” (Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi); để rồi lại từng có tiếng lòng quằn quại trước tình nhân thế mà không một hồi âm của thi nhân lãng mạn thời Thơ mới:
Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?

(Hàn Mặc Tử - Đây thôn Vĩ Dạ)
Và, cái mẫu số chung của tâm hồn thi sĩ đi tìm câu trả lời cho sự sống của con người, thì vẫn rơi vào biệt vô âm tín. Để mãi thành “Một câu hỏi lớn không lời đáp” (Huy Cận).
Với “Đồng dao cho người lớn”, Nguyễn Trọng Tạo không ngần ngại mà tung ra những chiều hướng trái ngược từ chính cuộc đời - cuộc đời phức điệu mà cũng lắm nỗi truân chuyên. Lắm cảnh đa đoan đến đau lòng:
... Có kẻ ngoại tình ngỡ là tiệc cưới
Có cha có mẹ có trẻ mồ côi
Có ông trăng tròn nào phải mâm xôi
Có cả đất trời mà không nhà ở
Có vui nho nhỏ có buồn mênh mông...

Xin đừng vội nghĩ giản đơn mà quy kết cách nhìn tinh tế và sâu sắc chất nhân sinh, chất nhân văn của nhà thơ, thành cái nhìn buồn bã và tiêu cực. Và, cũng đừng vội vã mà cho rằng những câu thơ như thế này của nhà thơ họ Nguyễn, thuần túy chứa đựng chủ nghĩa lạc quan:
Mà thuyền vẫn sông mà xanh vẫn cỏ
Mà đời vẫn say mà hồn vẫn gió.

Bởi, với những lời thơ trên, Nguyễn Trọng Tạo chỉ muốn mang ra một đối sánh mà cũng là một đối đáp của những Con - Người - Lớn trước những bộn bề phức tạp vạn nẻo của kiếp nhân sinh. Vẫn biết rằng ngay giữa cuộc đời này, đang tấu trình bao khúc nhạc buồn vui: “Có thương có nhớ có khóc có cười”, thì con người ta biết sống và dám sống, vẫn phải tự tìm ra chất men say tự tại của lòng mình.
Say, để mà nhận ra sắc xanh của cây cỏ đất trời. Say, để mà nhận ra thẳm sâu tự hồn mình, không thể bao giờ tắt gió.
Và, thêm nữa, hình như nhà thơ đa cảm và cũng đa suy này còn muốn trao gửi cho ta bức thông điệp khẩn thiết về thời gian và đời người. Bởi:
Có thương có nhớ có khóc có cười
Có cái chớp mắt đã nghìn năm trôi.

Hà Nội, 26/4/2007
(Theo Trần Trung, nhavanhanoi.vn)
Câu 7 [706493]: (4,0 điểm)
Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ), trình bày suy nghĩ của anh/ chị về tinh thần hợp tác của con người trong xã hội hiện đại.
Bài văn trình bày suy nghĩ về tinh thần hợp tác của con người trong xã hội hiện đại có thể được triển khai nhiều cách. Song cần bảo đảm các ý:
1. Mở bài (gián tiếp)
- Dẫn dắt vấn đề
- Nêu vấn đề
Ví dụ: Ngày bé thơ, trong những câu ca đầu tiên được bà, được mẹ ru hời, tôi vẫn nhớ như in lời dạy:
Một cây làm chẳng nên non
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao
Sau này, lớn khôn hơn, tôi mới hiểu đó chính là lời nhắc dạy của ông bà cha mẹ về tinh thần đoàn kết hợp tác. Bài học ấy, trong thời đại ngày nay, với chúng ta có lẽ càng sâu sắc hơn bao giờ hết.
2. Thân bài
- Giải thích ngắn gọn “tinh thần hợp tác”:
+ “Hợp tác”: cùng chung sức giúp đỡ lẫn nhau trong một công việc, một lĩnh vực nào đó, nhằm một mục đích chung.
+ “Tinh thần hợp tác”: trạng thái tâm lí sẵn sàng chung sức đồng lòng, cùng nhau thực hiện công việc nào đó để đạt được mục đích tốt đẹp. Tinh thần hợp tác luôn cần thiết trong đời sống.
- Vì sao con người trong xã hội hiện đại cần có tinh thần hợp tác?
+ Với cộng đồng:
• Hợp tác tạo nên sức mạnh lớn lao giúp con người vượt qua mọi khó khăn, trở lực, nguy tai trong cuộc sống. Bất kể cộng đồng nào ở thời đại nào, đặc biệt là thời đại hiện đại, cũng luôn có những vấn đề đòi hỏi sự chung tay góp sức của đông đảo mọi người (chẳng hạn: lớn là các vấn đề ô nhiễm môi trường - biến đổi khí hậu, dịch bệnh toàn cầu, chiến tranh - khủng bố,...; nhỏ hơn là các dự án học tập, dự án kinh tế,...).
• Hợp tác tạo nên chuỗi mắt xích tương tác qua lại giữa các đối tượng, thúc đẩy sự chuyên môn hoá, gia tăng sự phát triển của các công việc, lĩnh vực (chẳng hạn: một chiếc điện thoại nhỏ xíu hay một ô tô to đùng được lắp ráp bởi muôn vàn chi tiết, linh kiện. Các linh kiện ấy được sản xuất theo hướng chuyên môn hoá ở nhiều quốc gia.).
+ Với cá nhân:
• Mỗi chúng ta là một cá thể cá nhân, tồn tại độc lập song chúng ta không thể tách rời cộng đồng. Mọi hoạt động sống của chúng ta luôn được thực hiện trong mối tương tác, qua lại với các đối tượng khác (chẳng hạn: các công việc thường ngày như ăn uống sinh hoạt của chúng ta, nếu chúng ta ở vai người có nhu cầu tiêu thụ thì ta có thể cần người cung cấp nguồn thực phẩm, có người chế biến; đến trường, là người học, ta cần có thầy cô dạy dỗ, cần có bạn bè để vui chơi, trao đổi học tập;...).
• Hợp tác giúp mỗi cá nhân được kết nối với cộng đồng, từ đó tìm thấy niềm vui sống, sự hoà hợp trong cộng đồng.
• Hợp tác giúp mỗi cá nhân có cơ hội để thể hiện ưu thế của bản thân, từ đó phát triển năng lực sở trường và loại bỏ những hạn chế, yếu kém của bản thân.
- Làm thế nào để gia tăng tinh thần hợp tác giữa người với người trong xã hội hiện đại?
+ Về nhận thức: Cá nhân mỗi người cần nhận thức sâu sắc về ý nghĩa, giá trị, tầm quan trọng của tinh thần hợp tác trong cuộc sống.
+ Về hành động: Mỗi cá nhân cần tự giác, chủ động hoà mình vào các công việc chung, tích cực đóng góp tâm sức, trí tuệ vào các hoạt động của cộng đồng, tập thể; không ngừng thể hiện ưu thế của bản thân;...
- Mở rộng:
+ Hợp tác không đồng nhất với việc dựa dẫm, ỷ lại vào cộng đồng, tập thể.
+ Hợp tác cũng không đồng nhất với việc đánh mất đi giá trị bản thân, để bản thân lu mờ trong cộng đồng.
3. Kết bài
Rút ra bài học nhận thức và hành động

- Hợp tác là một ứng xử văn minh trong thời đại hiện đại.
- Chủ động hợp tác để cùng nhau đạt đến hiệu quả cao nhất trong công việc.