I. ĐỌC HIỂU (4,0 điểm)
Đọc bài thơ:
                        TẠM BIỆT
                        (Thu Bồn)
bởi vì em dắt anh lên những ngôi đền cổ
chén ngọc giờ chìm dưới đáy sông sâu
những lăng tẩm như hoàng hôn chống lại ngày quên lãng
mặt trời vàng và mắt em nâu

xin chào Huế một lần anh đến
để ngàn lần anh nhớ trong mơ
em rất thực nắng thì mờ ảo
xin đừng nhầm em với cố đô

nhịp cầu cong và con đường thẳng
một đời anh tìm mãi Huế nơi đâu
con sông giùng giằng con sông không chảy
sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu

áo trắng hỡi thuở tìm em không thấy
nắng minh mang mấy nhịp Trường Tiền
nón rất Huế mà đời không phải thế
mặt trời lên từ phía nón em nghiêng

tạm biệt Huế với em là tiễn biệt
Hải Vân ơi xin người đừng tắt ngọn sao khuya
tạm biệt nhé với chiếc hôn thầm lặng
anh trở về hóa đá phía bên kia
                                    Huế tháng 8 - 1983
(Theo Sông Hương Thơ (1983 - 2003) tuyển chọn, NXB Văn hoá Thông tin, 2003)
Thực hiện các yêu cầu:
Câu 1 [706494]: Phương thức biểu đạt chính của bài thơ là gì?
Phương thức biểu đạt chính của bài thơ là biểu cảm.
Câu 2 [706495]: Chỉ ra bối cảnh xuất hiện các nhân vật trong bài thơ.
Bối cảnh xuất hiện các nhân vật trong bài thơ:
- Không gian: xứ Huế (với những đền đài lăng tẩm, thành quách: những ngôi đền cổ, những lăng tẩm; sông Hương: đáy sông sâu, con sông giùng giằng con sông không chảy; cầu Tràng Tiền: mấy nhịp Trường Tiền; nón Huế;...).
- Thời gian: thời khắc chia tay (khi nhân vật trữ tình “anh” - người đến Huế rời Huế để trở về phía bên kia)
Câu 3 [706496]: em rất thực nắng thì mờ ảo
xin đừng nhầm em với cố đô

Hai dòng thơ khắc hoạ vẻ đẹp nào của hình tượng “em”?
em rất thực nắng thì mờ ảo
xin đừng nhầm em với cố đô

Với phép đối lập (em rất thực >< nắng thì mờ ảo) và lời “khuyến cáo”/ nhắc nhẹ xin đừng nhầm em với cố đô, hai dòng thơ khắc hoạ vẻ đẹp hiện thời, hiện đại, trẻ trung, tươi tắn của người con gái trong tương quan đối lập (mà bổ sung) với vẻ đẹp trầm mặc, cổ kính của kinh đô xưa cũ.
Câu 4 [706497]: tạm biệt nhé với chiếc hôn thầm lặng
anh trở về hóa đá phía bên kia

Cảm xúc nào trong nhân vật trữ tình được khơi gợi trong hai dòng thơ trên?
tạm biệt nhé với chiếc hôn thầm lặng
anh trở về hóa đá phía bên kia

Hai dòng thơ thể hiện tình yêu lặng lẽ (chiếc hôn thầm lặng) cùng tình cảm thuỷ chung có phần vô vọng (anh trở về hoá đá) của nhân vật trữ tình (“anh”) trong thời khắc phải rời xa Huế và biết chắc tình cảm dành cho “em” chẳng thể đi đến đâu.
Câu 5 [706498]: Ghi lại cảm nhận về hình ảnh thơ khiến anh/ chị ấn tượng sâu sắc nhất (trình bày khoảng 5 - 7 dòng).
Thí sinh tự do ghi lại cảm nhận về hình ảnh thơ khiến bản thân có ấn tượng sâu sắc nhất; đồng thời lí giải ngắn gọn, hợp lí nguyên do. Chẳng hạn:
- Hình ảnh thơ ấn tượng nhất: nón rất Huế mà đời không phải thế.
- Nguyên do: Hình ảnh đẹp và khơi gợi nhiều suy tưởng. Chi tiết nón rất Huế gợi vẻ đẹp thanh nhã, mong manh, nhẹ nhàng, dịu dàng, duyên dáng của chiếc nón - một hình ảnh rất đặc trưng của xứ Huế và cho tính cách của những người con gái Huế. Vế sau của dòng thơ đời không phải thế là nhận thức về hiện thực, nghe có phần xót xa, đắng đót: cuộc đời đâu có được thanh dịu, nhẹ nhàng, thơ mộng, lãng mạn như chiếc nón kia đâu (bằng chứng là tình yêu “anh” dành cho “em” đâu được viên thành!).
II. VIẾT (6,0 điểm)
Câu 6 [706499]: (2,0 điểm)
Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) phân tích cảm hứng chủ đạo của bài thơ ở phần Đọc hiểu.
Đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) phân tích cảm hứng chủ đạo của bài thơ Tạm biệt (Thu Bồn) có thể được triển khai theo hướng:
- Thu Bồn: một trong những cây bút tài hoa của thơ ca Việt Nam hiện đại. Tên tuổi của ông gắn với những tác phẩm đặc sắc như Bài ca chim Chơ-rao, Tạm biệt,...
- Tạm biệt: thi phẩm đặc sắc về tình yêu. Bài thơ là câu chuyện ăm ắm yêu thương nhưng đượm buồn của nhân vật trữ tình “anh” với “em” - một cô gái Huế. Theo đó xuyên suốt bài thơ là tình yêu và nỗi buồn trong trẻo của “anh”:
+ Đoạn thơ đầu tiên tái hiện kỉ niệm ngày “anh” đến Huế. Kỉ niệm hiện lên qua những chi tiết rất thực (anh dắt em lên những ngôi đền cổ, những lăng tẩm, mặt trời vàng, mắt em nâu) nhưng cũng rất ảo (chén ngọc giờ chìm dưới đáy sông sâu - chi tiết gợi lại giai thoại vua Minh Mạng trong một lần ngự thuyền trên sông Hương, khi đến khúc sông trước điện Hòn Chén đã lỡ tay đánh rơi một chiếc chén ngọc xuống sông sâu. Những tưởng không cách gì lấy lại được thì bỗng nhiên một con rùa to bằng chiếc chiếu nổi lên, ngậm chén ngọc trả lại cho nhà vua.). Lời thơ phảng phất buồn từ những hình ảnh mang đậm màu sắc cổ kính - những đề đài, lăng tẩm, tích truyện cũ xưa và phép so sánh thực lạ những lăng tẩm như hoàng hôn chống lại ngày quên lãng và màu buồn trong đôi mắt cô gái,...
+ Đoạn thơ thứ hai có phần tươi tắn hơn bởi âm điệu và hình ảnh tươi sáng, trẻ trung của “em”. Lời thơ cho phép người đọc hình dung về ánh nhìn say đắm, si mê của “anh” trước “em”: một lần anh đến thôi mà có đến những ngàn lần anh nhớ trong mơ!
+ Đoạn thơ thứ ba, thứ tư gợi hình ảnh “anh” và “em” đi trên cây cầu Tràng Tiền bắc qua sông Hương. Sông Hương với điệu chảy lặng lờ bởi quyến luyến xứ sở cùng hình ảnh thật thơ nắng minh mang mấy nhịp Trường Tiền đã cho “anh” bắt đúng cái thần của Huế - cái thần mà bấy lâu nay anh tìm mãi. Nhưng cũng chính trong khoảnh khắc này, trong “anh” lại thấy thiếu vắng, chơi vơi (áo trắng hỡi thuở tìm em không thấy) và có gì thật xa xót, đắng đót khi nhận ra “em” ở đây, với nón Huế nghiêng nghiêng, thật dịu dàng, duyên dáng và làm mê đắm lòng “anh” nhưng lại không thuộc về “anh” (nón rất Huế mà đời không phải thế).
+ Đoạn thơ cuối cùng khép lại bằng phút giây chia xa. Trong khoảnh khắc này, lời chào được cất lên, và với Huế là tạm biệt còn với “em” là tiễn biệt. Tạm biệt là tạm chia xa, có ngày trở lại nhưng tiễn biệt có lẽ là không. “Anh” trở về phía bên kia đèo Hải Vân (Thu Bồn quê ở Quảng Nam, Huế và Quảng Nam cách nhau bởi đèo Hải Vân), gửi lại “em” chiếc hôn thầm lặng, tình yêu thầm lặng. Và anh trở về hoá đá phía bên kia, hoá đá tình yêu dành cho “em”, thuỷ chung trọn vẹn song cũng thật buồn.
- Tình yêu đan quyện với nỗi buồn là cảm hứng chủ đạo của bài thơ. Tình yêu làm nỗi buồn sáng trong và nỗi buồn làm tình yêu sâu sắc. Sự quyện hoà của tình yêu và nỗi buồn suốt dọc bài thơ chính là một nét đẹp độc đáo của bài thơ này.
<*> Tham khảo bài viết:
Nói đến Thu Bồn là nói đến một văn nhân đa tài, một thi nhân độc đáo, một ngôi sao sáng trên bầu trời văn học cách mạng Việt Nam nửa sau thế kỷ XX. Chào đời năm 1935 tại xã Điện Thắng, huyện Điện Bàn (Quảng Nam), anh được cha mẹ đặt tên là Hà Đức Trọng. Lớn lên trong một gia đình hiếu học và yêu nước, chàng trai xứ Quảng sớm hấp thu được tinh hoa của vùng đất. Ghi tên mình vào Thiếu sinh quân khi chưa đầy 12 tuổi, anh làm liên lạc cho bộ đội và tham gia chiến đấu. Từ tiểu đội trưởng công binh bộ đội địa phương huyện, năm 17 tuổi, Hà Đức Trọng có mặt trong đội hình chiến đấu của Sư đoàn 803 Liên khu 5. Tập kết ra Bắc, chàng khẩu đội trưởng pháo binh đi học và làm giáo viên văn hóa của Trường Sĩ quan Lục quân Việt Nam (nay là Trường SQLQ1).
Đến với văn chương, lấy tên con sông quê hương làm bút danh, năm 1962, Thu Bồn từ giã hậu phương lớn miền Bắc, trở lại khúc ruột miền Trung, một chiến trường nổi tiếng gian khổ, khốc liệt. Như mọi người lính, việc đầu tiên là cầm rựa đi phát nương làm rẫy, trồng mì (sắn) để lấy cái ăn trước đã. Giữa những ngày cơ cực ấy, Thu Bồn xuất thần có “Bài ca chim Chrao” hút hồn nhiều thế hệ bạn đọc, nhất là khi tác phẩm được đưa vào sách giáo khoa ở miền Bắc. Đến nay, chưa có trường ca nào sánh được về tầm vóc, cũng như giọng điệu trữ tình của Thu Bồn viết trong lửa đạn. Một khúc tráng ca bi hùng về những con người kiên cường, bất khuất, họ thắm thiết yêu nhau và yêu đất nước. Tiếng hát của đôi trai gái hòa cùng tiếng chim Chrao giữa rừng đại ngàn vang xa, lay động lòng người.
Là phóng viên Tạp chí Văn nghệ Quân giải phóng Trung Trung bộ, năm 1969, Thu Bồn được chuyển ra Bắc. Ông địu đứa con trai đầu lòng bị nhiễm chất độc da cam trong chiếc ba lô đục 2 lỗ để cháu thò chân ra ngoài, cứ thế, ròng rã 3 tháng trời vượt Trường Sơn. Về đến số 4 Lý Nam Đế, Hà Nội, ít lâu sau thì cháu bé mất. Nỗi đau không thể nói bằng lời. Thế nhưng “mùa hè đỏ lửa” 1972, Thu Bồn cùng một số nhà văn của Tạp chí Văn nghệ Quân đội vào tận chiến trường Quảng Trị…
Trước đó, năm 1965, “Bài ca chim Chrao” được nhận Giải thưởng Văn học Nguyễn Đình Chiểu của Ủy ban Trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam. Đến năm 1973, tác phẩm này được Hội Nhà văn Á - Phi vinh danh bằng Giải thưởng Lotus (Bông Sen). Với 5 tập thơ, 10 trường ca và 10 tiểu thuyết, 1 tập truyện ngắn, năm 2001, Thu Bồn nhận Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật (VHNT) đợt đầu tiên. Trong lần đi trại viết, tôi kịp đến thăm ông đang dưỡng bệnh tại nhà riêng ở suối Lồ Ồ, xã Bình An, huyện Dĩ An, tỉnh Bình Dương. Rời đi trong ánh hoàng hôn nhòa nhợt, tôi không dám nhìn lâu ánh mắt vời vợi, da diết của thi nhân. Vào trung tuần tháng 6-2003, cánh chim Chrao vạm vỡ đã bay về núi xa. Năm 2017, ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về VHNT.
Đóng góp chủ yếu của Thu Bồn ở mảng trường ca, nhưng âm hưởng hùng ca và cảm hứng lạc quan luôn in đậm trong nhiều tập thơ. Chịu khó tìm tòi, đổi mới thi pháp, bởi vậy, thơ ông giàu cảm xúc, đậm đà tình cảm, câu chữ trau chuốt, mạch thơ như bazan từ núi lửa cuộn trào.
Một người lính thực thụ, một nghệ sĩ tài hoa, hai phẩm chất ấy kết đọng nơi Thu Bồn. Tôi đoc “Tạm biệt Huế” ngay trong nửa đầu thập niên 80 của thế kỷ trước. Một bài thơ giàu nhạc tính, hay đến lạ, cứ ám ảnh và giăng mắc trong trí nhớ của bao bạn đọc. Khó kể hết những thi phẩm viết về Huế “mộng mơ”, dẫu mỗi sáng tác ít nhiều đều có những đóng góp nhất định, nhưng mức độ thành công và để lại dấu ấn thì rất khác nhau. Thu Bồn độc đáo ở chỗ ông chọn cho mình một góc nhìn riêng và lối diễn đạt không lẫn với bất kỳ ai cả về giọng điệu và ngôn ngữ. Khắc họa một dáng Huế thâm trầm, cổ kính mà lắng sâu, mà dào dạt thật không phải dễ. Bởi thế, chẳng lạ khi bài thơ này có nhiều dị bản.
Không trần tình, cũng chẳng vòng vo, duy cảm, tác giả khai mở bài thơ đậm chất hội họa với những mảng màu đắm say của một cặp đôi yêu nhau. “bởi vì em dắt anh lên những ngôi đền cổ”. Một chút gì đó cơ hồ như tiếc nuối. “chén ngọc giờ chìm đáy sông sâu/ những lăng tẩm như hoàng hôn chống lại ngày quên lãng”. Nhưng quan trọng hơn là “mặt trời vàng và mắt em nâu”.
Từ rất lâu, có lẽ là xa xưa lắm rồi, xứ Huế và đất Quảng cách nhau không chỉ một ải Hải Vân thôi đâu, mà còn có nhiều sự khác biệt cả văn hóa lẫn tính cách con người nữa. Chỉ một câu ca dao: “Học trò xứ Quảng ra thi…” mà mỗi nơi “chế” vế sau thành ra một kiểu của riêng mình thì đủ biết là đâu dễ ai đã chịu nhường ai.
Nhưng trên hết, Thu Bồn là một công dân nước Việt, một thi sĩ “không biên giới”. Vượt lên tất cả, tác giả bày tỏ tấm tình xiết bao đắm đuối và không kém phần nồng nhiệt. “xin chào Huế một lần anh đến/ để ngàn lần anh nhớ trong mơ”. Và thật tài hoa: “em rất thực nắng thì mờ ảo/ xin đừng lầm em với cố đô”. Vâng, đâu cứ phải tha thướt áo dài tím, anh vẫn nhận ra thần thái và hồn cốt nơi em, một người con gái sống động bằng xương, bằng thịt.
Đa tài nên đa tình. Thi sĩ trải lòng chân thực về một tình yêu Huế, có thể là trong quá vãng. Là anh đã từ lâu để ý rồi, chỉ là chưa có duyên kỳ ngộ thôi. “áo trắng hỡi thuở tìm em không thấy”. Xin hãy chú ý câu này: “nắng minh mang mấy nhịp Tràng Tiền”. Nếu quen tay, người viết có thể dùng các từ “mênh mang”, hay “mênh mông” đều được, nhưng Thu Bồn sử dụng phương ngữ điêu luyện, ông lựa chữ “minh mang” thì quá ư đắc địa, khiến câu thơ vừa cổ kính lại vừa rất hiện đại, hàm chứa được nhiều điều. Đắm say, nhưng thi nhân vẫn kịp ngộ ra: “nón rất Huế mà đời không phải thế”. Và câu “mặt trời lên từ phía nón em nghiêng” vừa thực lại vừa ảo, như là một phát hiện.
Con mắt của thi sĩ vẽ nên: “nhịp cầu cong và con đường thẳng”, chỉ để nói điều giản dị “một đời anh tìm mãi Huế nơi đâu”. Vâng, em ở đây mà anh mãi cứ đi tìm sự cao siêu diệu vợi, buồn vậy. Có lẽ chưa một thi sĩ nào viết được những câu lột tả chất Huế đậm, sâu và có hồn như Thu Bồn. “con sông dùng dằng con sông không chảy/ sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu”. Vâng, ấy là dòng Hương, con sông thơm chảy mà như không chảy, lặng lờ giữa cố đô, càng điểm tô thêm dáng vẻ trầm mặc, nhưng thanh tao mà sâu thẳm của xứ sở “thần kinh”. Hai chữ “dùng dằng” về mặt nào đó còn diễn tả thật hay một tâm trạng, mà không chỉ của riêng ai.
Và, cuộc gặp gỡ nào rồi cũng sẽ đến lúc phải chia xa. Anh về xứ Quảng, em ở lại với “dòng sông phẳng lặng”, với áo trắng và nón bài thơ rất thơ. “tạm biệt Huế với em là tiễn biệt” bởi yêu anh, em vững tin rằng anh sẽ trở lại. “Hải Vân ơi xin người dừng tắt ngọn sao khuya”. Cái hình tượng “ngọn sao khuya” ấy cứ vằng vặc, sáng soi, cứ lung linh như “đèn trời”, như vật chứng cho mối tình của hai ta. Một lời cầu nguyện rất thành thực, như rút ruột ra mà nói vậy. Nhưng bài thơ khép lại với “tạm biệt nhé với chiếc hôn thầm lặng/ anh trở về hóa đá phía bên kia” thì có lẽ còn hơn… cả một lời thề.
Bài thơ được nhạc sĩ Xuân An chắp cánh trong ca khúc cùng tên, nhờ vậy nó đến với hàng triệu khán, thính giả trong cả nước. Không phải ngẫu nhiên mà “Tạm biệt Huế” có mặt trong tập “100 bài thơ Việt Nam hay nhất thế kỷ XX”, do Trung tâm Văn hóa doanh nhân và Nhà xuất bản Giáo dục tuyển chọn. Xin mượn câu của Chế Lan Viên để khép lại bài viết này: “Thơ dở không dịch được. Thơ hay như người đẹp, ở đâu đi đâu cũng lấy được chồng”.
(Theo Nguyễn Minh Ngọc, phunuquandoi.vn)
Câu 7 [706500]: (4,0 điểm)
Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ), trình bày suy nghĩ của anh/ chị về trách nhiệm của người trẻ hôm nay trong việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt.
Bài văn trình bày suy nghĩ về trách nhiệm của người trẻ hôm nay trong việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt có thể được triển khai nhiều cách. Song cần bảo đảm các ý:
1. Mở bài (gián tiếp)
- Dẫn dắt vấn đề
- Nêu vấn đề
Ví dụ:
Tiếng tha thiết nói thường nghe như hát
Kể mọi điều bằng ríu rít âm thanh
Như gió nước không thể nào nắm bắt
Dấu huyền trầm, dấu ngã chênh vênh

Những dòng thơ trong bài thơ Tiếng Việt của nhà thơ Lưu Quang Vũ đã làm mỗi chúng ta càng thêm thiết tha yêu tiếng mẹ đẻ hơn bao giờ hết. Nhưng ngay cả khi say đắm trong tình yêu này, có phải tất cả chúng ta đều nhận thức sâu sắc về sứ mệnh giữ gìn sự trong sáng của tiếng nói quê hương?
2. Thân bài
- Giải thích ngắn gọn:
+ “Sự trong sáng của tiếng Việt”: vẻ đẹp của tiếng Việt - tiếng nói của dân tộc (được thể hiện qua nhiều mặt: ngữ âm, ngữ nghĩa, ngữ pháp, ngữ dụng).
+ “Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt”: hành động bảo vệ vẻ đẹp của tiếng Việt; trách nhiệm của mọi thế hệ người dân Việt Nam trong công cuộc bảo vệ, xây dựng đất nước.
- Vì sao cần giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt?
+ Tiếng nói là tài sản của dân tộc, phản ánh lịch sử, văn hoá của dân tộc, là món quà quý giá tổ tiên dân tộc Việt truyền lại cho con cháu muôn đời.
+ Trải qua hàng ngàn năm phong kiến phương Bắc đô hộ, sau đó là khoảng thời gian thực dân Pháp xâm lược, tiếng Việt đã từng bị các ngôn ngữ nước ngoài (tiếng Hán, tiếng Pháp) xâm lấn, chèn ép. Trong thời đại hiện đại, ở bối cảnh quốc tế hoá, ngôn ngữ của nhiều quốc gia (tiếng Anh, tiếng Hàn,...) trở nên khá thịnh hành với giới trẻ. Nhiều bạn trẻ chưa ý thức được tầm quan trọng của việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt nên đã lạm dụng ngôn ngữ nước ngoài: sử dụng tuỳ tiện tiếng nước ngoài, chen tiếng nước ngoài vào lời nói, câu văn với tâm lí cho muốn thể hiện đẳng cấp, sự “sang chảnh”; sử dụng tiếng nước ngoài trong trường không cần thiết (khi tiếng Việt đã có từ ngữ tương đương). Nhiều bạn trẻ lại có thói quen nói năng thô tục, thiếu văn hoá, bất lịch sự, làm mất đi vẻ đẹp thanh lịch của ngôn ngữ...
+ Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt cũng là cách thế hệ ngày nay thể hiện tình yêu và trách nhiệm với thế hệ cháu con sau này.
- Làm thế nào để giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt?
+ Nhận thức: Mỗi người Việt cần nhận thức đúng đắn tiếng nói là tài sản quý giá của dân tộc, từ đó có tình cảm yêu mến và ý thức quý trọng tiếng mẹ đẻ. (Hồ Chí Minh: “Tiếng nói là thứ của cải vô cùng lâu đời và vô cùng quý báu của dân tộc. Chúng ta phải giữ gìn nó, quý trọng nó, làm cho nó phổ biến ngày càng rộng khắp.”)
+ Hành động:
• Cần có hiểu biết cần thiết và không ngừng trau dồi hiểu biết về tiếng Việt (ở mọi mặt ngữ âm, ngữ nghĩa, ngữ pháp, ngữ dụng). Muốn có hiểu biết, cần tích luỹ kinh nghiệm từ thực tế giao tiếp, từ sự trau dồi vốn ngôn ngữ qua sách báo, qua việc học tập trong nhà trường, trong đời sống, ở mọi nơi, mọi lúc.
• Hoạt động sử dụng tiếng Việt cần tuân thủ đúng các chuẩn mực và quy tắc ngôn ngữ (tiếng Việt): nói đúng, viết đúng; nói hay, viết hay và có văn hoá; không pha tạp, lai căng song vẫn cần tiếp nhận những yếu tố tích cực của tiếng nước ngoài; tránh những cách nói thô tục, kệch cỡm.
3. Kết bài
Rút ra bài học nhận thức và hành động

- Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt là trách nhiệm và là biểu hiện lớn lao của tình yêu nước.
- Mỗi người có thể thực hiện sứ mệnh giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt ở mọi lúc, mọi nơi, từ những phát ngôn bình thường trong giao tiếp thường ngày, từ những con chữ ít ỏi qua mỗi tin nhắn,...
<*> Tham khảo bài viết:
GIỮ GÌN SỰ TRONG SÁNG CỦA TIẾNG VIỆT
TRONG BỐI CẢNH VĂN HOÁ TOÀN CẦU
(Uông Triều)
“Tôi nghĩ tiếng Việt chưa bao giờ thay đổi nhanh chóng và nhiều như bây giờ. Trong thời kì quốc tế hoá, toàn cầu hoá, tiếng Việt phải chịu những áp lực lớn hoặc tự thích nghi để phù hợp với tình hình mới.
Bây giờ, gặp những thanh thiếu niên thêm những từ tiếng Anh trong những câu giao tiếp như “good”, “sexy”, “done”, “cancel”… không phải là hiếm. Những từ ấy không chỉ những người trẻ hay dùng mà đã trở thành những từ gần như cửa miệng, ít nhất là với những cư dân thành thị từ trung niên trở xuống. Thay vì nói “Em chuyển hàng cho chị lúc 5h chiều” thì một chị trung niên ở thành phố sẽ điềm nhiên bảo “Ship lúc 5h nhé”, hoặc các cô gái kể với bạn bè “Bọn mình vừa mới check in ở Mộc Châu”, “Hôm nay đi phỏng vấn viết review mà gặp nhiều drama quá”... Các câu bị tỉnh lược nhiều, giảm bớt cả thành phần và đưa những từ tiếng Anh thông dụng vào.
Không những những từ tiếng Anh phổ biến được dùng trong sinh hoạt hàng ngày, những thuật ngữ là những từ ngữ kĩ thuật, chuyên môn ví dụ như “check in sân bay”, “scan ảnh”, “ship COD”… đã được dùng rộng rãi trong các văn bản chính thức của nhiều đơn vị kinh doanh, các thực thể có tư cách pháp nhân.
Con trai tôi mới năm tuổi, trong mười câu nói, cháu đệm khoảng hai, ba từ tiếng Anh. Vì sao, vì những đứa trẻ này học ngoại ngữ từ nhỏ, gần như song song với tiếng mẹ đẻ và thậm chí có những từ tiếng Anh chúng hiểu ngữ nghĩa chuẩn hơn từ tiếng Việt. Chúng không cảm thấy tiếng Anh là ngoại ngữ như đa số những người trưởng thành học ngoại ngữ khi tiếng Việt của họ đã thành thạo, với nhiều người trẻ thế hệ mới, tiếng Anh gần như là ngôn ngữ thứ hai.
Cách đây gần hai mươi năm, khi tôi có dịp sang Nhật Bản, tôi bị sốc về một hiện tượng ngôn ngữ. Ấy là nhiều người Nhật dùng nhiều từ tiếng Anh phổ biến thay thế cho từ tiếng Nhật một cách rất tự nhiên và thoải mái trong giao tiếp hàng ngày. Rất nhiều từ tiếng Anh đã được “Nhật hoá” chứ không phải là ngoại ngữ nữa. Giống như bây giờ hầu hết người Việt có thể hiểu “stop” là dừng lại và người ta hầu như không giải thích vì nó xuất hiện ở các biển hiệu giao thông, các chỉ dẫn quen thuộc và trở thành một bộ phận của tiếng Việt. Tiếng Việt đã ở trạng thái giống như tiếng Nhật từ rất nhiều năm trước khi các ngôn ngữ nước ngoài thâm nhập sâu vào đời sống và điều này là tất yếu khi quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, cả về kinh tế, văn hoá, giáo dục cũng như số lượng người Việt thông thạo ngoại ngữ hoặc coi chúng là ngôn ngữ thứ hai ngày càng tăng lên.
Những từ ngoại lai được Việt hoá là điều không mới. Nhiều từ tiếng Pháp, ví dụ “ghi đông”, “gác ba ga”, “com plê”, “bia”… đã trở thành từ tiếng Việt cả trăm năm nay. Xa hơn nữa, rất nhiều từ tiếng Hán đã xâm nhập vào tiếng Việt hàng ngàn năm, trở thành từ Hán Việt và được coi như ngôn ngữ dân tộc, là thành tố lớn và quan trọng trong tiếng Việt. Từ Hán Việt xuất hiện và được sử dụng ở mọi nơi mọi chỗ một cách tự nhiên và không ai cảm thấy sự ngoại lai nào hết.
Như vậy sự xâm nhập từ vựng/tiếng từ các ngôn ngữ nước ngoài vào tiếng Việt là điều bình thường và không tránh khỏi. Không có ngôn ngữ nào lại không bổ sung vốn từ vựng, ngữ nghĩa có nguồn gốc từ các ngôn ngữ khác vào kho tàng của mình, kể cả những ngôn ngữ mạnh như tiếng Anh, tiếng Pháp. Mỗi năm các nhà ngôn ngữ, các nhà làm từ điển thường đưa ra danh sách những từ ngoại lai, từ mới vào danh mục từ vựng ngôn ngữ của mình. Ngay cả tiếng Việt cũng đóng góp vào quá trình toàn cầu hoá này, ví dụ những từ như “đổi mới”, “áo dài”, “phở”… đã được coi là những từ quốc tế, không cần phải dịch nghĩa. Giống như tiếng Nhật đã đóng góp với thế giới những từ như “karaoke”, “tsunami”, tiếng Hàn là “kim chi”, “hanbok”…
Tất nhiên những từ mang tính chất quốc tế và phổ biến thì sự thâm nhập vào tiếng Việt khác là tất yếu vì tiếng Việt, hoặc là không có từ ngữ tương ứng hoặc có những khái niệm liên quan tới công nghệ, kĩ thuật có nguồn gốc nước ngoài mà nếu diễn giải ra tiếng Việt có thể gây khó hiểu, dài dòng, bất tiện, ví dụ như các từ internet, blog, check in, logistics... Thậm chí cả với những từ tiếng Việt tưởng chừng như đã rất quen thuộc nhưng khi phát sinh những tình huống mới, bối cảnh mới vẫn khiến người ta tranh luận như “trường đại học”, “viện đại học”, “đại học” khác nhau thế nào...
Thêm nữa, trong khi có những từ ngữ nước ngoài chủ yếu được thâm nhập bằng công nghệ, kinh tế thì vẫn có trường hợp lan truyền qua văn hoá và thay đổi bản chất vốn có. Cách đây mấy chục năm, một bộ phim truyền hình của Nhật Bản có tên Oshin được chiếu ở Việt Nam, nhân vật chính là một cô bé cùng tên đi làm giúp việc cho một gia đình giàu có và sau nhiều khó khăn đã trưởng thành và thành công. Bộ phim được khán giả Việt Nam rất yêu thích và hâm mộ, đặc biệt với nhân vật chính, dần dần tên nhân vật chính đã trở thành một từ trong tiếng Việt phổ thông. Chị giúp việc ở thành phố được gọi là “chị osin”, hay “cô ấy đi làm osin”, “tuyển osin”. Osin vừa là một nghề, vừa là danh từ chỉ người làm nghề ấy, đây là một ví dụ khá thú vị về sự lan truyền và thâm nhập ngôn ngữ qua điện ảnh. Nhưng ví dụ này cũng không phải duy nhất hay quá mới, đã có những trường hợp tương tự từ rất lâu đời như tên các nhân vật Sở Khanh, Tú Bà trong Truyện Kiều của Nguyễn Du - cốt truyện có nguồn gốc từ một tác phẩm của Trung Hoa cổ điển đã được Việt hoá và mang một sắc thái khác, ví dụ: “thằng ấy sở khanh lắm”, “mụ ta chính là một tú bà”…
Nhưng nói đi thì cũng phải nói lại, một ngôn ngữ bị pha tạp quá nhiều các từ ngoại lai là điều không hay và không nên. Sự trong sáng của tiếng Việt là sự uyển chuyển và thích ứng, không quá cứng nhắc nhưng cũng không dễ dãi buông tuồng. Một liều lượng thích hợp và được kiểm soát, kể cả với thói quen xã hội và các văn bản chính thức là một điều cần thiết. Thậm chí có những quốc gia, để bảo vệ sự trong sáng/ thuần khiết của tiếng mẹ đẻ/ ngôn ngữ chính thức của mình, họ đã ban hành các đạo luật để xử phạt việc sử dụng tiếng nước ngoài không đúng nơi, đúng chỗ, ví dụ trên truyền hình, trong thảo luận ở quốc hội, văn bản luật, sách giáo khoa… Nghĩa là có sự mềm dẻo trong sử dụng ngoại ngữ nhưng khi cần siết chặt thì vẫn cần những chế tài, công cụ cần thiết để bảo vệ sự thuần khiết/ trong sáng của một ngôn ngữ nào đấy.
Với tư cách là người sử dụng ngôn ngữ như công cụ làm việc (biên tập, sáng tác, đọc), tôi thấy nhiều từ tiếng Việt đã bị lãng quên nhanh chóng hoặc bị thay thế bằng những từ ít biểu cảm hơn. Nhiều nhà văn, nhất là những người trẻ hay dùng những từ quá mới hoặc ít sự tinh tế, cảm giác không thuần Việt trong cả tiếng nói và cách hành văn, câu cú ngữ pháp. Ví dụ câu “Tôi nom thấy người đàn ông áo đen đi trên đường” có thể diễn đạt thành “Tôi nhìn thấy một người đàn ông áo đen đi trên đường”. Từ “nom” bây giờ đã ít người dùng, còn từ “một” là cách diễn đạt ngôn ngữ kiểu nước ngoài, yêu cầu chính xác số từ, trong khi tiếng Việt thì không quá chú trọng đến số từ trong trường hợp tương tự nếu không cần nhấn mạnh. Tất nhiên trong so sánh kể trên, sự khác biệt giữa tiếng Việt và kiểu ngôn ngữ nước ngoài là không nhiều nhưng nếu một văn bản, một tác phẩm dày đặc kiểu văn phong này sẽ tạo ra ấn tượng tương đối lớn và cảm giác rõ nhất là không thuần Việt hoặc khiên cưỡng.
Lại nữa, một xu hướng rất đáng chú ý, cũng do sự phát triển của công nghệ và mạng xã hội tạo ra là sự tỉnh lược, biến thái của từ ngữ, câu cú tiếng Việt. Các ứng dụng trên điện thoại, máy tính, mạng xã hội giúp người ta giao tiếp với nhau dễ dàng nhanh chóng, tiết kiệm hơn nhưng chúng cũng ảnh hưởng khá nhiều đến hành vi ngôn ngữ. Vì các ứng dụng này khuyến khích sự ngắn gọn, dễ hiểu để tiết kiệm dung lượng và thời gian nên các cụm từ ngắn được sử dụng một cách tối đa, các thành phần câu bị lược bỏ, chỉ dùng những nội dung cốt lõi nhất. Cách sử dụng này có ưu điểm là nhanh chóng, thuận tiện, tiết kiệm được cả dung lượng và thời gian viết/ đọc nhưng lâu dài sẽ tạo ra những quán tính nguy hiểm. Đó là cách hành văn thiếu các thành phần, câu què, câu cụt, những từ giàu sắc thái biểu cảm ít được sử dụng hay bị quên lãng. Dần dần chỉ còn những lớp nghĩa trơ khấc, trần trụi được ưa dùng vì tính thực dụng, dễ sử dụng; nếu giữ mãi thói quen đó, tiếng Việt sẽ thành một ngôn ngữ chỉ còn cái lõi, khô cứng và đơn điệu. Nếu ai muốn thấy sự giàu có và biểu cảm của tiếng Việt, hãy về những vùng nông thôn và nói chuyện với những người phụ nữ trên sáu mươi tuổi, sẽ thấy họ dùng thứ tiếng Việt tinh tế, sinh động và uyển chuyển thế nào. Giờ đây lớp người ấy đang mất dần đi và kéo theo cả sự hao mòn, quên lãng không ít của một thứ tiếng Việt rất đẹp và sinh động.
Về mặt nào đấy, chính những nhà văn, nhà báo là những người có sứ mệnh quan trọng trong việc giữ gìn sự trong sáng, thuần chất của tiếng Việt. Tôi rất thích những tác phẩm viết bằng thứ tiếng Việt thuần thục, phong phú cùng văn phong truyền thống. Đã có những nhà văn rất ý thức việc này, họ chú ý sử dụng những từ tiếng Việt bị sao lãng hoặc có nguy cơ bị thay thế, để lưu giữ, bảo tồn và phát huy chúng. Trong sổ tay ngôn ngữ của tôi, tôi chép những từ tôi yêu thích ở một tác phẩm văn học: “ngón tay nông dân to bậm”, “sức bay được mấy nả mà vội kiêu ngạo”, “tối bưng lấy mắt”, “chiều nay thong thả, mời ông xuống xơi cơm”… Những cụm từ ấy đậm chất Việt và khả năng biểu cảm tốt hơn so với những từ thông thường. Khi nghe, đọc các nhà văn, những người dân nông thôn chất phác sử dụng những từ ấy, sẽ thấy tiếng Việt đẹp, biểu cảm, sinh động và giàu có nhường nào.
Tất nhiên như đã nói, sự biến chuyển, thay đổi của một ngôn ngữ là điều không thể tránh khỏi trong một xã hội hiện đại nơi các yếu tố toàn cầu hoá, công nghệ đang thay đổi và tác động trực tiếp đến cách sinh hoạt và vận hành xã hội. Ngôn ngữ cũng nằm trong quy luật vận động của đời sống, có cái mới được sinh ra và cũng có những thứ bị thay thế nhưng ở mặt nào đó, nếu không có sự giữ gìn, bảo tồn và điều chỉnh thì rất có thể sự giàu đẹp của một ngôn ngữ sẽ bị mất dần đi không thể cứu vãn; điều này đòi hỏi những tư duy và thiết chế cần thiết ở cấp nhà nước cũng như thái độ, suy nghĩ và hành động của mỗi cá nhân riêng biệt.
(Theo vannghequandoi.vn)