I. ĐỌC HIỂU (4,0 điểm)
Đọc đoạn trích:
“Đi dọc một triền sông
Những chiếc trống đồng vùi trong cát
Những mảnh bình vỡ nát
Những mũi tên lăn lóc
Khắp núi đồi hoang vu
Những rìu đá cổ sơ những hang động khổng lồ
Những đống lửa còn tro tàn sót lại
Đi tìm lại thời gian đã mất
Thủa biển cả điên cuồng gầm thét
Những con chim lạc mỏ dài
Bay qua vầng trăng lớn
Cánh sừng sững tắm hoàng hôn đỏ rực
Cất tiếng kêu hoang dại dưới đêm nồng
Tôi đi tìm dòng máu của tôi
Hơi thở đầu sục sôi của tôi
Trong cuồn cuộn những ngực trần đen bóng
Những bộ lạc mình vẽ đầy rồng rắn
Quần hôn trên bờ bãi sông Hồng
Những mái tóc dài bay gió biển Đông
Những mái lá có bùi nhùi giữ lửa
Những người đàn bà tết cỏ cây che vú
Đã ngọt ngào dòng sữa
Điệu ru con đầu tiên
Bức tranh đầu tiên khắc mặt người lên đá
Điệu múa đầu tiên theo nhịp thuyền”
“Đi dọc một triền sông
Những chiếc trống đồng vùi trong cát
Những mảnh bình vỡ nát
Những mũi tên lăn lóc
Khắp núi đồi hoang vu
Những rìu đá cổ sơ những hang động khổng lồ
Những đống lửa còn tro tàn sót lại
Đi tìm lại thời gian đã mất
Thủa biển cả điên cuồng gầm thét
Những con chim lạc mỏ dài
Bay qua vầng trăng lớn
Cánh sừng sững tắm hoàng hôn đỏ rực
Cất tiếng kêu hoang dại dưới đêm nồng
Tôi đi tìm dòng máu của tôi
Hơi thở đầu sục sôi của tôi
Trong cuồn cuộn những ngực trần đen bóng
Những bộ lạc mình vẽ đầy rồng rắn
Quần hôn trên bờ bãi sông Hồng
Những mái tóc dài bay gió biển Đông
Những mái lá có bùi nhùi giữ lửa
Những người đàn bà tết cỏ cây che vú
Đã ngọt ngào dòng sữa
Điệu ru con đầu tiên
Bức tranh đầu tiên khắc mặt người lên đá
Điệu múa đầu tiên theo nhịp thuyền”
(Trích “Đất nước đàn bầu” - Một vở sử thi lớn - Nguyễn Việt Chiến, theo nongnghiep.vn)
Thực hiện các yêu cầu:
Câu 1 [706501]: Đoạn thơ viết về đề tài gì?
Đoạn thơ viết về đề tài quê hương đất nước.
Câu 2 [706502]: Nhân vật trữ tình trong đoạn thơ là ai?
Nhân vật trữ tình trong đoạn thơ là “tôi”.
Câu 3 [706503]: Phân tích tác dụng của phép liệt kê được sử dụng trong đoạn thơ đầu tiên.
- Phép liệt kê được sử dụng trong đoạn thơ đầu tiên, liệt kê:
+ Các sự vật, loài vật: những chiếc trống đồng, những mảnh bình, những mũi tên, những rìu đá cổ sơ, những đống lửa, những con chim lạc, vầng trăng.
+ Không gian: triền sông, trong cát, núi đồi hoang vu, những hang động khổng lồ, vầng trăng lớn.
+ Thời gian: thời gian đã mất, thủa biển cả điên cuồng gầm thét, hoàng hôn, đêm nồng.
- Tác dụng:
+ Mang lại vẻ sinh động, hấp dẫn cho lời thơ.
+ Tái hiện hình ảnh quê hương đất nước con người từ các góc nhìn địa lí, lịch sử, văn hoá, tất cả hiện lên với vẻ đẹp hoang sơ, nguyên thuỷ mà lộng lẫy, tráng lệ.
+ Thể hiện những hiểu biết sâu sắc của người viết về thiên nhiên, đất nước, con người, lịch sử, văn hoá dân tộc Việt từ thuở hồng hoang, nguyên thuỷ; từ đó, bộc lộ tình yêu, niềm xúc động, tự hào sâu sắc về cội nguồn dân tộc.
+ Các sự vật, loài vật: những chiếc trống đồng, những mảnh bình, những mũi tên, những rìu đá cổ sơ, những đống lửa, những con chim lạc, vầng trăng.
+ Không gian: triền sông, trong cát, núi đồi hoang vu, những hang động khổng lồ, vầng trăng lớn.
+ Thời gian: thời gian đã mất, thủa biển cả điên cuồng gầm thét, hoàng hôn, đêm nồng.
- Tác dụng:
+ Mang lại vẻ sinh động, hấp dẫn cho lời thơ.
+ Tái hiện hình ảnh quê hương đất nước con người từ các góc nhìn địa lí, lịch sử, văn hoá, tất cả hiện lên với vẻ đẹp hoang sơ, nguyên thuỷ mà lộng lẫy, tráng lệ.
+ Thể hiện những hiểu biết sâu sắc của người viết về thiên nhiên, đất nước, con người, lịch sử, văn hoá dân tộc Việt từ thuở hồng hoang, nguyên thuỷ; từ đó, bộc lộ tình yêu, niềm xúc động, tự hào sâu sắc về cội nguồn dân tộc.
Câu 4 [706504]: Hình ảnh con người Việt Nam thuở xa xưa được tái hiện như thế nào trong đoạn thơ thứ hai?
- Hình ảnh con người Việt Nam thuở xa xưa đoạn thơ thứ hai được tái hiện qua một loạt chi tiết. Trong đó, có:
+ Các chi tiết gợi tả ngoại hình: cuồn cuộn những ngực trần đen bóng (những người đàn ông khoẻ mạnh, cường tráng với khuôn ngực trần vạm vỡ); Những mái tóc dài bay gió biển Đông (những người phụ nữ duyên dáng, dịu hiền);
+ Các chi tiết phản chiếu tập tục trong đời sống sinh hoạt thường ngày: Những bộ lạc mình vẽ đầy rồng rắn (tục xăm mình); Quần hôn trên bờ bãi sông Hồng (hình thái hôn nhân thời nguyên thuỷ, trong đó mỗi người con trai hay con gái của thị tộc, bào tộc này đều là chồng chung hay vợ chung của những người con gái hay con trai của thị tộc, bào tộc kia trong cùng một bộ lạc); Những người đàn bà tết cỏ cây che vú (ăn mặc), ngọt ngào dòng sữa (nuôi con).
+ Các chi tiết khẳng định công lao kiến tạo sự sống đầu tiên của dân tộc: Điệu ru con đầu tiên, Bức tranh đầu tiên khắc mặt người lên đá, Điệu múa đầu tiên theo nhịp thuyền.
- Các chi tiết đã tái hiện một cách khá chi tiết, đầy đủ, sống động diện mạo, đời sống vật chất và tinh thần của những người Việt cổ xưa.
+ Các chi tiết gợi tả ngoại hình: cuồn cuộn những ngực trần đen bóng (những người đàn ông khoẻ mạnh, cường tráng với khuôn ngực trần vạm vỡ); Những mái tóc dài bay gió biển Đông (những người phụ nữ duyên dáng, dịu hiền);
+ Các chi tiết phản chiếu tập tục trong đời sống sinh hoạt thường ngày: Những bộ lạc mình vẽ đầy rồng rắn (tục xăm mình); Quần hôn trên bờ bãi sông Hồng (hình thái hôn nhân thời nguyên thuỷ, trong đó mỗi người con trai hay con gái của thị tộc, bào tộc này đều là chồng chung hay vợ chung của những người con gái hay con trai của thị tộc, bào tộc kia trong cùng một bộ lạc); Những người đàn bà tết cỏ cây che vú (ăn mặc), ngọt ngào dòng sữa (nuôi con).
+ Các chi tiết khẳng định công lao kiến tạo sự sống đầu tiên của dân tộc: Điệu ru con đầu tiên, Bức tranh đầu tiên khắc mặt người lên đá, Điệu múa đầu tiên theo nhịp thuyền.
- Các chi tiết đã tái hiện một cách khá chi tiết, đầy đủ, sống động diện mạo, đời sống vật chất và tinh thần của những người Việt cổ xưa.
Câu 5 [706505]: Nhận xét chủ đề của đoạn thơ.
- Chủ đề của đoạn thơ: Đoạn thơ tập trung thể hiện nhận thức của nhân vật trữ tình “tôi” về cội nguồn dân tộc với lịch sử lâu đời và biết bao dấu ấn của nền văn hoá, văn minh nguyên thuỷ.
- Nhận xét:
+ Đây là một chủ đề đặc sắc, phản chiếu lòng tự hào, tự tôn dân tộc, ý thức nguồn cội sâu sắc của con người mang trong mình tình yêu Tổ quốc lớn lao.
+ Chủ đề này góp phần mang đến người đọc những hiểu biết quý giá về quê hương đất nước, từ đó bồi đắp thêm tình yêu dân tộc trong mỗi con người Việt Nam.
- Nhận xét:
+ Đây là một chủ đề đặc sắc, phản chiếu lòng tự hào, tự tôn dân tộc, ý thức nguồn cội sâu sắc của con người mang trong mình tình yêu Tổ quốc lớn lao.
+ Chủ đề này góp phần mang đến người đọc những hiểu biết quý giá về quê hương đất nước, từ đó bồi đắp thêm tình yêu dân tộc trong mỗi con người Việt Nam.
II. VIẾT (6,0 điểm)
Câu 6 [706506]: (2,0 điểm)
Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) cảm nhận về hình ảnh thơ trong đoạn trích ở phần Đọc hiểu.
Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) cảm nhận về hình ảnh thơ trong đoạn trích ở phần Đọc hiểu.
Đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) cảm nhận về hình ảnh thơ trong đoạn trích từ bài thơ Đất nước đàn bầu (Lưu Quang Vũ) có thể được triển khai theo hướng:
- Lưu Quang Vũ là một trong những gương mặt xuất sắc của thơ ca Việt Nam hiện đại. Ông thuộc thế hệ các nhà thơ trưởng thành từ phong trào Thơ trẻ chống Mĩ (Lê Anh Xuân, Phạm Tiến Duật, Bằng Việt, Thanh Thảo,...). Thơ Lưu Quang Vũ hấp dẫn người đọc bởi hồn thơ giàu cảm xúc, trăn trở, khát khao.
- Đất nước đàn bầu là một trong những bài thơ đặc sắc thể hiện những xúc cảm, suy tư nồng nàn mà sâu sắc của Lưu Quang Vũ về quê hương đất nước. Đoạn trích (ở phần Đọc hiểu) đặc biệt thành công trong hệ thống thi ảnh:
+ Từ đầu đến cuối đoạn trích chất chồng các hình ảnh về:
Đất nước quê hương thuở sơ khai với biết bao bằng chứng về sự sống đầu tiên (những chiếc trống đồng, những mảnh bình, những mũi tên, những rìu đá cổ sơ, những hang động khổng lồ, những đống lửa, những con chim lạc mỏ dài); giữa một không gian mênh mông, rộng lớn, bao la, khoáng đạt, mà hùng vĩ, nên thơ (triền sông, trảng cát, núi đồi, hang động, biển cả, vầng trăng); trong thời gian quá khứ xa xưa nhưng vẫn rõ rệt vẻ tráng lệ, mộng mơ (cổ sơ, thời gian đã mất, thủa biển cả điên cuồng gầm thét, hoàng hôn, đêm nồng).
Người Việt cổ thuở hồng hoang, nguyên thuỷ, từ hình hài vóc dáng, đàn ông thì sức vóc, tráng kiện (cuồn cuộn những ngực trần đen bóng), đàn bà thì mềm mại, dịu dàng (Những mái tóc dài bay gió biển Đông); đến một đời sống với biết bao dấu ấn phong tục độc đáo: tục xăm mình (Những bộ lạc mình vẽ đầy rồng rắn); tục quần hôn (Quần hôn trên bờ bãi sông Hồng); từ nết ăn mặc (Những người đàn bà tết cỏ cây che vú) đến việc nuôi nấng con cái (ngọt ngào dòng sữa); rồi còn đó là biết bao công lao kiến tạo sự sống đầu tiên (Bức tranh đầu tiên khắc mặt người lên đá, Điệu múa đầu tiên theo nhịp thuyền).
+ Các hình ảnh hiện lên với mật độ dày đặc, tất cả được tô màu chân thực, giản dị nhưng lộng lẫy, mĩ lệ, hào sảng, dư ba.
- Các hình ảnh trong đoạn thơ phản chiếu nhận thức sâu sắc của nhân vật trữ tình về cội nguồn dân tộc; bộc lộ rõ nét lòng tự hào, tự tôn dân tộc và có sức lan toả tới người đọc tình yêu Tổ quốc lớn lao.
<*> Tham khảo bài viết:
Một phần tư thế đã đi qua, biết bao bài thơ con người đã xoá quên, đã loại khỏi trí nhớ mình. Cũng ngần ấy năm đi qua, kì lạ thay, không ít bài thơ của Lưu Quang Vũ vẫn còn nguyên giá trị nhân văn, với sức lay động lòng người da diết, vẫn hội nhập được với đời sống tinh thần con người hôm nay. Và, cũng kỳ diệu thay, những bài thơ còn lại của Lưu Quang Vũ viết từ những năm 70 (TK XX) cho đến giờ vẫn không chịu cũ, vẫn có được những cảm xúc được chia sẻ nơi độc giả hôm nay, và vẫn còn làm rung động một thế hệ mới.
THANH GƯƠM CŨ VỚI CÂU THƠ GIỮ NƯỚC
Trong bài viết này, tôi xin nói về “Đất nước đàn bầu”, một bài thơ lớn - một thi kịch lớn - một vở sử thi lớn của cố nhà thơ Lưu Quang Vũ. Hình như mỗi bài thơ hay đều có một số phận không dễ dàng. Bài thơ “Đất nước đàn bầu” của anh viết năm 1972, gửi cho báo Văn Nghệ nhưng không được in. Mãi đến năm 1983, bài thơ được công bố và ngay lập tức đoạt Giải thưởng Thơ của Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Bài thơ mở đầu bằng những hình ảnh sinh động, hoang dã, lộng lẫy và hào sảng về lịch sử dân tộc Việt từ thủa sơ khai:
Đi dọc một triền sông
Những chiếc trống đồng vùi trong cát
Những mảnh bình vỡ nát
Những mũi tên lăn lóc
Khắp núi đồi hoang vu
Những rìu đá cổ sơ những hang động khổng lồ
Những đống lửa còn tro tàn sót lại
Đi tìm lại thời gian đã mất
Thủa biển cả điên cuồng gầm thét
Những con chim lạc mỏ dài
Bay qua vầng trăng lớn
Cánh sừng sững tắm hoàng hôn đỏ rực
Cất tiếng kêu hoang dại dưới đêm nồng
Tôi đi tìm dòng máu của tôi
Hơi thở đầu sục sôi của tôi
Trong cuồn cuộn những ngực trần đen bóng
Những bộ lạc mình vẽ đầy rồng rắn
Quần hôn trên bờ bãi sông Hồng
Những mái tóc dài bay gió biển Đông
Những mái lá có bùi nhùi giữ lửa
Những người đàn bà tết cỏ cây che vú
Đã ngọt ngào dòng sữa
Điệu ru con đầu tiên
Bức tranh đầu tiên khắc mặt người lên đá
Điệu múa đầu tiên theo nhịp thuyền
Có cảm tưởng, Lưu Quang Vũ như một nhà khảo cổ học đi tìm lại thời gian đã mất bằng ngôn ngữ thi ca và anh đã phát hiện những tầng văn hóa Việt cổ trong bề dầy lịch sử văn hiến của dân tộc. Thơ của Lưu Quang Vũ mang vẻ đẹp lạ kì của hình ảnh và ngôn ngữ thơ, mang tính đặc thù của riêng anh với những câu thơ xuất thần đậm nét tài hoa và giầu cảm xúc. Những câu thơ vang lên trong tâm tưởng người đọc một nhạc điệu đầy xúc động với những thi ảnh được chọn lọc một cách tinh tế và giàu tính hội hoạ:
Dân tộc tôi bốn ngàn năm áo rách
Những người chết đặc trong lòng đất
Những mặt vàng sốt rét
Những bộ xương đói khát vật vờ đi
Vó ngựa lao dồn dập
Giặc phương Bắc kéo về
Vung gươm dài đẫm máu
Bao đền đài bị đốt thành than
Bao cuốn sách bị quăng vào lửa
Bao đầu người bêu trên cọc gỗ
Con trai chinh chiến liên miên
Con gái mong chồng, hoá đá
Mỵ Châu chết không sao hiểu được
Vì đâu Trọng Thuỷ hoá quân thù?
Gió mùa thu
Tiếng đàn bầu nức nở
Chiều chiều ra ngõ
Sông dài cá lội biệt tăm
Thương cha nhớ mẹ
Mênh mông chớp bể mưa nguồn
Cái nỗi buồn dân tộc
Cái nỗi buồn bị đoạ đày lăng nhục
Của người quét đường, xẩm chợ, đò ngang
Của mom sông đánh dặm, đỉnh rừng đốt than...
Dường như đoạn thơ trên không chỉ là thơ khi nó chứa đựng dưới tầng thi ngữ những âm thanh, cảnh sắc, nhạc điệu, hình tượng... của một vở sử thi lớn tái hiện những trang sử mang đậm chất bi ca và hùng ca của dân tộc Việt trong suốt chiều dài ngàn năm dựng nước và giữ nước.
BÀI THƠ NHƯ MỘT VỞ SỬ THI LỚN
Qua bài thơ “Đất nước đàn bầu”, chúng ta có thể thấy một số đóng góp của Lưu Quang Vũ cho sự phát triển của thơ hiện đại là khá đa dạng. Không chỉ nằm ở bình diện phát hiện các vẻ đẹp của ngôn ngữ thơ, sự đóng góp ấy còn thể hiện ở việc Lưu Quang Vũ đã khắc hoạ chiều sâu những rung động suy tư của tâm trạng con người trong những tầng văn hóa sống động của đời sống lịch sử dân tộc bằng ngôn ngữ thi ca mang phong cách độc đáo của riêng anh và chỉ anh mới có.
Em đến cùng tôi như chùm vải đầu mùa
Tóc hoang dại lòa xòa trên ngực nắng
Ngực em sáng như mặt trời sắp lặn
Tôi đầm đìa sương lạnh của bờ đê
Tôi thấm đầy nước mắt của trời khuya
Trăng đã hiện, đêm ca dao vằng vặc
Những cô Tấm thử hài trong tiếng nhạc
Những nàng Kiều hồi hộp bấm dây tơ
Đêm sử thi náo động tiếng quân hò
Sôi trong máu những bầy voi nguyên thủy
Sáng trong mắt những rừng gươm chớp lóe
Những nỗi buồn tê dại ngón tay rung
Chim Lạc bay, cánh rợp cả sườn non
Rùa đẻ trứng nồng nàn trên cát bể
Rừng gầm thét, thác nguồn sao trắng thế
Đất mênh mông tràn ngập ánh mặt trời
Gió thổi lồng những đốm lửa không nguôi
Tôi nhận hết, tôi là người tiếp nối
Là dĩ vãng nhưng chẳng là bóng tối
Nước mắt tôi ướt đẫm những dây đàn
Có thể nói, những câu thơ huyền ảo, âm vang và mộng mị nói trên của Lưu Quang Vũ, phần nào đó đã dựng lên bức tranh sử thi trong một vở kịch lớn trên đất Việt ngàn năm của chúng ta.
Người náu mình trong quả thị bước ra
Người hứng dừa từ giấy điệp bước ra
Người đã khuất cũng về đông đủ cả
Những tượng đá bỗng chập chờn nhẩy múa
Những cụ già say rượu hát nghêu ngao
Ngực em tròn anh chẳng dám nhìn lâu
Lời em nói có măng rừng muối bể
Hồn dân tộc dậy ta làm thi sĩ
Quá khứ nhiều mà ta chẳng già nua
Mọi tai ương khủng khiếp đã qua
Gà đã gáy xôn xao chào buổi sớm
Mai gắn lại những vết thương xé thịt
Dân tộc mình mở tới một trang vui
Hoa gạo hồng lại nở, bà ơi
Cháu đã đi từ lòng bà ấm áp
Để sống hết những vui buồn dân tộc
Những hoa bìm hoa súng nở trên ao
Những ban mai xanh biếc tiếng đàn bầu
Bà hiền hậu têm trầu bên chõng nước
Em đi gặt trên cánh đồng cổ tích
Lúa bàng hoàng chín rực những triền sông...
Theo tôi, Lưu Quang Vũ là một tài năng thơ bẩm sinh rất đặc biệt và độc đáo. Bản năng thi sĩ của anh giàu có trong những nỗi buồn, trong nỗi cô đơn, khổ hạnh và trong những khoảnh khắc chập chờn sáng tối ấy, những vần thơ ám ảnh của anh tung bứt lên như muốn đối mặt với buồn đau. Những trăn trở, day dứt trước cuộc đời đã để lại không ít vết thương nơi trái tim nhà thơ. Sự khắc nghiệt của cuộc sống mà anh phải nhìn thấy, phải nếm trải, phải hứng chịu đã dội đập vào thơ anh đến tức ngực, nhưng cũng đã làm thơ anh bừng tỉnh. Lưu Quang Vũ là một gương mặt thơ tiêu biểu và chói sáng lặng lẽ qua thời gian bên cạnh những gì mờ nhạt và thiếu sức sống ngôn ngữ thi ca. Bởi trong thơ Việt thời gian qua, không ít những bài thơ vui rất giả, rồi buồn cũng rất giả. Ngôn ngũ thơ ấy như một thứ hàng giả làm người đọc hết sức khó chịu và phải quay lưng. Phải chăng độc giả của thơ ngày một ít đi cũng bởi lẽ ấy và cũng bởi thời gian là thước đo sòng phẳng nhất đối với mọi giá trị sáng tạo?
- Lưu Quang Vũ là một trong những gương mặt xuất sắc của thơ ca Việt Nam hiện đại. Ông thuộc thế hệ các nhà thơ trưởng thành từ phong trào Thơ trẻ chống Mĩ (Lê Anh Xuân, Phạm Tiến Duật, Bằng Việt, Thanh Thảo,...). Thơ Lưu Quang Vũ hấp dẫn người đọc bởi hồn thơ giàu cảm xúc, trăn trở, khát khao.
- Đất nước đàn bầu là một trong những bài thơ đặc sắc thể hiện những xúc cảm, suy tư nồng nàn mà sâu sắc của Lưu Quang Vũ về quê hương đất nước. Đoạn trích (ở phần Đọc hiểu) đặc biệt thành công trong hệ thống thi ảnh:
+ Từ đầu đến cuối đoạn trích chất chồng các hình ảnh về:
Đất nước quê hương thuở sơ khai với biết bao bằng chứng về sự sống đầu tiên (những chiếc trống đồng, những mảnh bình, những mũi tên, những rìu đá cổ sơ, những hang động khổng lồ, những đống lửa, những con chim lạc mỏ dài); giữa một không gian mênh mông, rộng lớn, bao la, khoáng đạt, mà hùng vĩ, nên thơ (triền sông, trảng cát, núi đồi, hang động, biển cả, vầng trăng); trong thời gian quá khứ xa xưa nhưng vẫn rõ rệt vẻ tráng lệ, mộng mơ (cổ sơ, thời gian đã mất, thủa biển cả điên cuồng gầm thét, hoàng hôn, đêm nồng).
Người Việt cổ thuở hồng hoang, nguyên thuỷ, từ hình hài vóc dáng, đàn ông thì sức vóc, tráng kiện (cuồn cuộn những ngực trần đen bóng), đàn bà thì mềm mại, dịu dàng (Những mái tóc dài bay gió biển Đông); đến một đời sống với biết bao dấu ấn phong tục độc đáo: tục xăm mình (Những bộ lạc mình vẽ đầy rồng rắn); tục quần hôn (Quần hôn trên bờ bãi sông Hồng); từ nết ăn mặc (Những người đàn bà tết cỏ cây che vú) đến việc nuôi nấng con cái (ngọt ngào dòng sữa); rồi còn đó là biết bao công lao kiến tạo sự sống đầu tiên (Bức tranh đầu tiên khắc mặt người lên đá, Điệu múa đầu tiên theo nhịp thuyền).
+ Các hình ảnh hiện lên với mật độ dày đặc, tất cả được tô màu chân thực, giản dị nhưng lộng lẫy, mĩ lệ, hào sảng, dư ba.
- Các hình ảnh trong đoạn thơ phản chiếu nhận thức sâu sắc của nhân vật trữ tình về cội nguồn dân tộc; bộc lộ rõ nét lòng tự hào, tự tôn dân tộc và có sức lan toả tới người đọc tình yêu Tổ quốc lớn lao.
<*> Tham khảo bài viết:
ĐẤT NƯỚC ĐÀN BẦU - MỘT VỞ SỬ THI LỚN
(Nguyễn Việt Chiến)
Nhà thơ, Nhà viết kịch Lưu Quang Vũ (1948 - 1988) qua đời cách đây 30 năm. Với hơn 50 tác phẩm sân khấu, Lưu Quang Vũ là một kịch tác gia xuất sắc của sân khấu đương đại Việt Nam.
Không chỉ thế, trong thế hệ nhà thơ xuất hiện những năm 70, Lưu Quang Vũ là một tài năng thơ bẩm sinh và kiệt xuất. Sau này khi trở thành một kịch tác gia nổi tiếng khắp nước thì khát vọng sáng tạo lớn của anh vẫn là thi ca. Anh đã được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học - Nghệ thuật.Một phần tư thế đã đi qua, biết bao bài thơ con người đã xoá quên, đã loại khỏi trí nhớ mình. Cũng ngần ấy năm đi qua, kì lạ thay, không ít bài thơ của Lưu Quang Vũ vẫn còn nguyên giá trị nhân văn, với sức lay động lòng người da diết, vẫn hội nhập được với đời sống tinh thần con người hôm nay. Và, cũng kỳ diệu thay, những bài thơ còn lại của Lưu Quang Vũ viết từ những năm 70 (TK XX) cho đến giờ vẫn không chịu cũ, vẫn có được những cảm xúc được chia sẻ nơi độc giả hôm nay, và vẫn còn làm rung động một thế hệ mới.
THANH GƯƠM CŨ VỚI CÂU THƠ GIỮ NƯỚC
Trong bài viết này, tôi xin nói về “Đất nước đàn bầu”, một bài thơ lớn - một thi kịch lớn - một vở sử thi lớn của cố nhà thơ Lưu Quang Vũ. Hình như mỗi bài thơ hay đều có một số phận không dễ dàng. Bài thơ “Đất nước đàn bầu” của anh viết năm 1972, gửi cho báo Văn Nghệ nhưng không được in. Mãi đến năm 1983, bài thơ được công bố và ngay lập tức đoạt Giải thưởng Thơ của Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Bài thơ mở đầu bằng những hình ảnh sinh động, hoang dã, lộng lẫy và hào sảng về lịch sử dân tộc Việt từ thủa sơ khai:
Đi dọc một triền sông
Những chiếc trống đồng vùi trong cát
Những mảnh bình vỡ nát
Những mũi tên lăn lóc
Khắp núi đồi hoang vu
Những rìu đá cổ sơ những hang động khổng lồ
Những đống lửa còn tro tàn sót lại
Đi tìm lại thời gian đã mất
Thủa biển cả điên cuồng gầm thét
Những con chim lạc mỏ dài
Bay qua vầng trăng lớn
Cánh sừng sững tắm hoàng hôn đỏ rực
Cất tiếng kêu hoang dại dưới đêm nồng
Tôi đi tìm dòng máu của tôi
Hơi thở đầu sục sôi của tôi
Trong cuồn cuộn những ngực trần đen bóng
Những bộ lạc mình vẽ đầy rồng rắn
Quần hôn trên bờ bãi sông Hồng
Những mái tóc dài bay gió biển Đông
Những mái lá có bùi nhùi giữ lửa
Những người đàn bà tết cỏ cây che vú
Đã ngọt ngào dòng sữa
Điệu ru con đầu tiên
Bức tranh đầu tiên khắc mặt người lên đá
Điệu múa đầu tiên theo nhịp thuyền
Có cảm tưởng, Lưu Quang Vũ như một nhà khảo cổ học đi tìm lại thời gian đã mất bằng ngôn ngữ thi ca và anh đã phát hiện những tầng văn hóa Việt cổ trong bề dầy lịch sử văn hiến của dân tộc. Thơ của Lưu Quang Vũ mang vẻ đẹp lạ kì của hình ảnh và ngôn ngữ thơ, mang tính đặc thù của riêng anh với những câu thơ xuất thần đậm nét tài hoa và giầu cảm xúc. Những câu thơ vang lên trong tâm tưởng người đọc một nhạc điệu đầy xúc động với những thi ảnh được chọn lọc một cách tinh tế và giàu tính hội hoạ:
Dân tộc tôi bốn ngàn năm áo rách
Những người chết đặc trong lòng đất
Những mặt vàng sốt rét
Những bộ xương đói khát vật vờ đi
Vó ngựa lao dồn dập
Giặc phương Bắc kéo về
Vung gươm dài đẫm máu
Bao đền đài bị đốt thành than
Bao cuốn sách bị quăng vào lửa
Bao đầu người bêu trên cọc gỗ
Con trai chinh chiến liên miên
Con gái mong chồng, hoá đá
Mỵ Châu chết không sao hiểu được
Vì đâu Trọng Thuỷ hoá quân thù?
Gió mùa thu
Tiếng đàn bầu nức nở
Chiều chiều ra ngõ
Sông dài cá lội biệt tăm
Thương cha nhớ mẹ
Mênh mông chớp bể mưa nguồn
Cái nỗi buồn dân tộc
Cái nỗi buồn bị đoạ đày lăng nhục
Của người quét đường, xẩm chợ, đò ngang
Của mom sông đánh dặm, đỉnh rừng đốt than...
Dường như đoạn thơ trên không chỉ là thơ khi nó chứa đựng dưới tầng thi ngữ những âm thanh, cảnh sắc, nhạc điệu, hình tượng... của một vở sử thi lớn tái hiện những trang sử mang đậm chất bi ca và hùng ca của dân tộc Việt trong suốt chiều dài ngàn năm dựng nước và giữ nước.
BÀI THƠ NHƯ MỘT VỞ SỬ THI LỚN
Qua bài thơ “Đất nước đàn bầu”, chúng ta có thể thấy một số đóng góp của Lưu Quang Vũ cho sự phát triển của thơ hiện đại là khá đa dạng. Không chỉ nằm ở bình diện phát hiện các vẻ đẹp của ngôn ngữ thơ, sự đóng góp ấy còn thể hiện ở việc Lưu Quang Vũ đã khắc hoạ chiều sâu những rung động suy tư của tâm trạng con người trong những tầng văn hóa sống động của đời sống lịch sử dân tộc bằng ngôn ngữ thi ca mang phong cách độc đáo của riêng anh và chỉ anh mới có.
Em đến cùng tôi như chùm vải đầu mùa
Tóc hoang dại lòa xòa trên ngực nắng
Ngực em sáng như mặt trời sắp lặn
Tôi đầm đìa sương lạnh của bờ đê
Tôi thấm đầy nước mắt của trời khuya
Trăng đã hiện, đêm ca dao vằng vặc
Những cô Tấm thử hài trong tiếng nhạc
Những nàng Kiều hồi hộp bấm dây tơ
Đêm sử thi náo động tiếng quân hò
Sôi trong máu những bầy voi nguyên thủy
Sáng trong mắt những rừng gươm chớp lóe
Những nỗi buồn tê dại ngón tay rung
Chim Lạc bay, cánh rợp cả sườn non
Rùa đẻ trứng nồng nàn trên cát bể
Rừng gầm thét, thác nguồn sao trắng thế
Đất mênh mông tràn ngập ánh mặt trời
Gió thổi lồng những đốm lửa không nguôi
Tôi nhận hết, tôi là người tiếp nối
Là dĩ vãng nhưng chẳng là bóng tối
Nước mắt tôi ướt đẫm những dây đàn
Có thể nói, những câu thơ huyền ảo, âm vang và mộng mị nói trên của Lưu Quang Vũ, phần nào đó đã dựng lên bức tranh sử thi trong một vở kịch lớn trên đất Việt ngàn năm của chúng ta.
Người náu mình trong quả thị bước ra
Người hứng dừa từ giấy điệp bước ra
Người đã khuất cũng về đông đủ cả
Những tượng đá bỗng chập chờn nhẩy múa
Những cụ già say rượu hát nghêu ngao
Ngực em tròn anh chẳng dám nhìn lâu
Lời em nói có măng rừng muối bể
Hồn dân tộc dậy ta làm thi sĩ
Quá khứ nhiều mà ta chẳng già nua
Mọi tai ương khủng khiếp đã qua
Gà đã gáy xôn xao chào buổi sớm
Mai gắn lại những vết thương xé thịt
Dân tộc mình mở tới một trang vui
Hoa gạo hồng lại nở, bà ơi
Cháu đã đi từ lòng bà ấm áp
Để sống hết những vui buồn dân tộc
Những hoa bìm hoa súng nở trên ao
Những ban mai xanh biếc tiếng đàn bầu
Bà hiền hậu têm trầu bên chõng nước
Em đi gặt trên cánh đồng cổ tích
Lúa bàng hoàng chín rực những triền sông...
Theo tôi, Lưu Quang Vũ là một tài năng thơ bẩm sinh rất đặc biệt và độc đáo. Bản năng thi sĩ của anh giàu có trong những nỗi buồn, trong nỗi cô đơn, khổ hạnh và trong những khoảnh khắc chập chờn sáng tối ấy, những vần thơ ám ảnh của anh tung bứt lên như muốn đối mặt với buồn đau. Những trăn trở, day dứt trước cuộc đời đã để lại không ít vết thương nơi trái tim nhà thơ. Sự khắc nghiệt của cuộc sống mà anh phải nhìn thấy, phải nếm trải, phải hứng chịu đã dội đập vào thơ anh đến tức ngực, nhưng cũng đã làm thơ anh bừng tỉnh. Lưu Quang Vũ là một gương mặt thơ tiêu biểu và chói sáng lặng lẽ qua thời gian bên cạnh những gì mờ nhạt và thiếu sức sống ngôn ngữ thi ca. Bởi trong thơ Việt thời gian qua, không ít những bài thơ vui rất giả, rồi buồn cũng rất giả. Ngôn ngũ thơ ấy như một thứ hàng giả làm người đọc hết sức khó chịu và phải quay lưng. Phải chăng độc giả của thơ ngày một ít đi cũng bởi lẽ ấy và cũng bởi thời gian là thước đo sòng phẳng nhất đối với mọi giá trị sáng tạo?
(Theo nongnghiep.vn)
Câu 7 [706507]: (4,0 điểm)
Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ), trình bày suy nghĩ của anh/ chị về sứ mệnh của người trẻ hôm nay trong công cuộc hội nhập quốc tế của đất nước.
Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ), trình bày suy nghĩ của anh/ chị về sứ mệnh của người trẻ hôm nay trong công cuộc hội nhập quốc tế của đất nước.
Bài văn trình bày suy nghĩ về sứ mệnh của người trẻ hôm nay trong công cuộc hội nhập quốc tế của đất nước có thể được triển khai nhiều cách. Song cần bảo đảm các ý:
1. Mở bài (gián tiếp)
- Dẫn dắt vấn đề
- Nêu vấn đề
Ví dụ: Một luỹ tre rì rào trong gió, một triền đê lộng gió vi vút cánh diều, những cánh đồng lúa xanh mướt, mượt mà,... đó là những gì thật đẹp đẽ, bình yên ở các làng quê Việt Nam. Chúng ta vẫn luôn yêu và trân trọng các ảnh hình này. Nhưng chúng ta - những người trẻ hôm nay - cũng nhận thấy sự cần thiết của việc vươn mình ra khỏi luỹ tre làng, để hoà nhập vào công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá của đất nước và lớn hơn là công cuộc hội nhập quốc tế. Vậy những người trẻ hôm nay cần nhận thức và hành động như thế nào để thực thi sứ mệnh vươn mình đó của mình?
2. Thân bài
- Giải thích ngắn gọn:
+ “Công cuộc hội nhập quốc tế của đất nước”: việc một nước tham gia vào các mặt của đời sống cộng đồng quốc tế và trở thành một bộ phận cấu thành của chỉnh thể thế giới, mà trước hết và là bao trùm là của nền chính trị thế giới, nền kinh tế thế giới và nền văn minh nhân loại.
+ “Người trẻ”: thế hệ thanh niên ngày nay.
+ “Sứ mệnh”: trọng trách, trách nhiệm lớn lao, cao cả.
+ “Sứ mệnh của người trẻ hôm nay trong công cuộc hội nhập quốc tế của đất nước”: là trách nhiệm đóng góp của thế hệ thanh niên trong công cuộc đưa Việt Nam gia nhập vào đời sống cộng đồng quốc tế.
- Vì sao người trẻ cần có trách nhiệm với công cuộc hội nhập quốc tế của đất nước?
+ Mỗi người trẻ đều thuộc về một quốc gia, một dân tộc. Sống trong quốc gia đó, hít thở bầu không khí của đất nước, chân chạm bước trên đất đai của quê hương, miệng uống mạch nước quê hương, ăn hạt cơm của người dân quê mình,... người trẻ không thể vô ơn, thờ ơ, dửng dưng với vận mệnh của quê hương đất nước.
+ Thời đại hiện đại là thời đại quốc tế hoá các vấn đề trong đời sống con người. Nhân loại thời đại nào, nhất là thời đại ngày nay, cũng có những mối quan tâm, những vấn đề chung cần đồng lòng giải quyết, như: ô nhiễm môi trường - biến đổi khí hậu, thực trạng cạn kiệt nguồn năng lượng tự nhiên, sự gia tăng của dân số trên toàn cầu, lương thực, y tế - dịch bệnh, giáo dục, chiến tranh, sự phát triển của trí tuệ nhân tạo,... Theo đó, không quốc gia nào, không con người nào (hẳn nhiên trong đó có người trẻ) đứng ngoài mỗi vấn đề đó.
+ Người trẻ là những người có sức vóc, nhiệt huyết, trí tuệ ở mức độ dồi dào nhất, với tất cả những ưu thế này, họ có thể cống hiến sức mình để giải quyết các vấn đề lớn lao của đất nước, thậm chí trên phạm vi toàn cầu.
Thêm nữa, tương lai của người trẻ hôm nay sẽ là ngày mai. Để có được ngày mai tươi sáng trên đất nước thân yêu của mình, người trẻ cần có những đóng góp cụ thể để phát triển đất nước, đưa đất nước tự tin hội nhập quốc tế. Theo đó, hiện thực hoá khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc là sứ mệnh cần thực thi của người trẻ hôm nay.
- Người trẻ hôm nay đã làm được gì trong việc đưa đất nước hội nhập quốc tế? Người trẻ cần tiếp tục thực thi sứ mệnh trong công cuộc hội nhập quốc tế của đất nước như thế nào?
+ Thực tế, có rất nhiều người trẻ nhận thức được vai trò, sứ mệnh của mình và không ngừng chuyển hoá nhận thức ấy thành hành động thiết thực trong học tập, lao động, góp sức dựng xây đất nước, góp phần đưa đất nước hội nhập quốc tế (những bạn trẻ với những tấm huy chương vàng, bạc,... trong các kì thi Olympic Quốc tế; những vận động viên thể thao với biết bao giải thưởng ở khu vực và thế giới; những dự án âm nhạc của các nghệ sĩ trẻ tài ba lọt top, thậm chí dẫn đầu bảng xếp hạng các nền tảng âm nhạc toàn cầu,...). Song ngợi ca những công dân trẻ toàn cầu này cũng đồng nghĩa với việc phê phán không ít người trẻ không có lí tưởng, không có mục tiêu, hành động để phát triển bản thân, góp phần xây dựng đất nước... (Cũng không khó để bắt gặp những người trẻ xấu xí, lợi dụng việc nổi tiếng trên một số nền tạng mạng xã hội để mưu lợi cho bản thân, hoặc lan truyền hình ảnh xấu tới mọi người,...).
+ Để tiếp tục thực thi sứ mệnh trong công cuộc hội nhập quốc tế của đất nước, người trẻ hôm nay cần:
• Nhận thức đúng đắn về vai trò, sứ mệnh của bản thân với tương lai của chính mình, của đất nước; nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng của quá trình hội nhập quốc tế.
• Nỗ lực hành động để phát triển bản thân thành công dân toàn cầu bằng việc học tập, sáng tạo,...
- Mở rộng: Hội nhập quốc tế không có nghĩa là lai căng, pha tạp, làm mất đi bản sắc văn hoá truyền thống của dân tộc. Do đó, trong quá trình thực thi sứ mệnh góp phần thúc đẩy quá trình hội nhập quốc tế của đất nước, những người trẻ càng nên kết hợp tìm về cội nguồn dân tộc để sự phát triển mang tính căn bản, bền vững.
3. Kết bài
Rút ra bài học nhận thức và hành động
Bày tỏ nhận thức và dự kiến hành động của bản thân trong việc thực thi sứ mệnh của một người trẻ trong công cuộc hội nhập quốc tế của đất nước.
1. Mở bài (gián tiếp)
- Dẫn dắt vấn đề
- Nêu vấn đề
Ví dụ: Một luỹ tre rì rào trong gió, một triền đê lộng gió vi vút cánh diều, những cánh đồng lúa xanh mướt, mượt mà,... đó là những gì thật đẹp đẽ, bình yên ở các làng quê Việt Nam. Chúng ta vẫn luôn yêu và trân trọng các ảnh hình này. Nhưng chúng ta - những người trẻ hôm nay - cũng nhận thấy sự cần thiết của việc vươn mình ra khỏi luỹ tre làng, để hoà nhập vào công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá của đất nước và lớn hơn là công cuộc hội nhập quốc tế. Vậy những người trẻ hôm nay cần nhận thức và hành động như thế nào để thực thi sứ mệnh vươn mình đó của mình?
2. Thân bài
- Giải thích ngắn gọn:
+ “Công cuộc hội nhập quốc tế của đất nước”: việc một nước tham gia vào các mặt của đời sống cộng đồng quốc tế và trở thành một bộ phận cấu thành của chỉnh thể thế giới, mà trước hết và là bao trùm là của nền chính trị thế giới, nền kinh tế thế giới và nền văn minh nhân loại.
+ “Người trẻ”: thế hệ thanh niên ngày nay.
+ “Sứ mệnh”: trọng trách, trách nhiệm lớn lao, cao cả.
+ “Sứ mệnh của người trẻ hôm nay trong công cuộc hội nhập quốc tế của đất nước”: là trách nhiệm đóng góp của thế hệ thanh niên trong công cuộc đưa Việt Nam gia nhập vào đời sống cộng đồng quốc tế.
- Vì sao người trẻ cần có trách nhiệm với công cuộc hội nhập quốc tế của đất nước?
+ Mỗi người trẻ đều thuộc về một quốc gia, một dân tộc. Sống trong quốc gia đó, hít thở bầu không khí của đất nước, chân chạm bước trên đất đai của quê hương, miệng uống mạch nước quê hương, ăn hạt cơm của người dân quê mình,... người trẻ không thể vô ơn, thờ ơ, dửng dưng với vận mệnh của quê hương đất nước.
+ Thời đại hiện đại là thời đại quốc tế hoá các vấn đề trong đời sống con người. Nhân loại thời đại nào, nhất là thời đại ngày nay, cũng có những mối quan tâm, những vấn đề chung cần đồng lòng giải quyết, như: ô nhiễm môi trường - biến đổi khí hậu, thực trạng cạn kiệt nguồn năng lượng tự nhiên, sự gia tăng của dân số trên toàn cầu, lương thực, y tế - dịch bệnh, giáo dục, chiến tranh, sự phát triển của trí tuệ nhân tạo,... Theo đó, không quốc gia nào, không con người nào (hẳn nhiên trong đó có người trẻ) đứng ngoài mỗi vấn đề đó.
+ Người trẻ là những người có sức vóc, nhiệt huyết, trí tuệ ở mức độ dồi dào nhất, với tất cả những ưu thế này, họ có thể cống hiến sức mình để giải quyết các vấn đề lớn lao của đất nước, thậm chí trên phạm vi toàn cầu.
Thêm nữa, tương lai của người trẻ hôm nay sẽ là ngày mai. Để có được ngày mai tươi sáng trên đất nước thân yêu của mình, người trẻ cần có những đóng góp cụ thể để phát triển đất nước, đưa đất nước tự tin hội nhập quốc tế. Theo đó, hiện thực hoá khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc là sứ mệnh cần thực thi của người trẻ hôm nay.
- Người trẻ hôm nay đã làm được gì trong việc đưa đất nước hội nhập quốc tế? Người trẻ cần tiếp tục thực thi sứ mệnh trong công cuộc hội nhập quốc tế của đất nước như thế nào?
+ Thực tế, có rất nhiều người trẻ nhận thức được vai trò, sứ mệnh của mình và không ngừng chuyển hoá nhận thức ấy thành hành động thiết thực trong học tập, lao động, góp sức dựng xây đất nước, góp phần đưa đất nước hội nhập quốc tế (những bạn trẻ với những tấm huy chương vàng, bạc,... trong các kì thi Olympic Quốc tế; những vận động viên thể thao với biết bao giải thưởng ở khu vực và thế giới; những dự án âm nhạc của các nghệ sĩ trẻ tài ba lọt top, thậm chí dẫn đầu bảng xếp hạng các nền tảng âm nhạc toàn cầu,...). Song ngợi ca những công dân trẻ toàn cầu này cũng đồng nghĩa với việc phê phán không ít người trẻ không có lí tưởng, không có mục tiêu, hành động để phát triển bản thân, góp phần xây dựng đất nước... (Cũng không khó để bắt gặp những người trẻ xấu xí, lợi dụng việc nổi tiếng trên một số nền tạng mạng xã hội để mưu lợi cho bản thân, hoặc lan truyền hình ảnh xấu tới mọi người,...).
+ Để tiếp tục thực thi sứ mệnh trong công cuộc hội nhập quốc tế của đất nước, người trẻ hôm nay cần:
• Nhận thức đúng đắn về vai trò, sứ mệnh của bản thân với tương lai của chính mình, của đất nước; nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng của quá trình hội nhập quốc tế.
• Nỗ lực hành động để phát triển bản thân thành công dân toàn cầu bằng việc học tập, sáng tạo,...
- Mở rộng: Hội nhập quốc tế không có nghĩa là lai căng, pha tạp, làm mất đi bản sắc văn hoá truyền thống của dân tộc. Do đó, trong quá trình thực thi sứ mệnh góp phần thúc đẩy quá trình hội nhập quốc tế của đất nước, những người trẻ càng nên kết hợp tìm về cội nguồn dân tộc để sự phát triển mang tính căn bản, bền vững.
3. Kết bài
Rút ra bài học nhận thức và hành động
Bày tỏ nhận thức và dự kiến hành động của bản thân trong việc thực thi sứ mệnh của một người trẻ trong công cuộc hội nhập quốc tế của đất nước.