I. ĐỌC HIỂU (4,0 điểm)
Đọc đoạn trích:
“Kể từ khi được lập vào năm 1901 đến nay, giải Nobel - một biểu tượng toàn cầu về trí thông minh - mới chỉ có 17 phụ nữ đoạt giải trong các lĩnh vực khoa học. Con số này chỉ chiếm 3% số lượng người thắng giải, vì sao thế?
[...]
Theo Christophe André , tối thiểu có 3 lí do. Đầu tiên là trở ngại về những sự phân biệt chủ quan nhưng khá phổ biến trong xã hội từ xa xưa khi luôn xếp phụ nữ ở hạng 2 sau nam giới và thường ngăn cản họ đến với khoa học.
Ở các nước phương Tây, điều này ngày nay ít nhiều đã chấm dứt, tuy nhiên di chứng mà nó để lại vẫn còn như một điều tự nhiên.
Mặc dù các bé gái ngày càng có nhiều cơ hội tiếp cận thế giới khoa học, tuy nhiên vẫn còn phải mất một vài thế hệ nữa trước khi chúng có thể vươn tới những tỉ lệ cao hơn ngang bằng với nam giới trong lĩnh vực khoa học hay chính trị.
Thứ hai là khuôn mẫu định kiến về người phụ nữ trong mắt nam giới, điều mà không nơi nào trên thế giới có thể biến mất hoàn toàn. Một cuộc khảo sát vào năm 2015 cho rằng 67% nam giới tin rằng phụ nữ chưa đủ thông minh để trở thành những nhà khoa học hàng đầu.
Đồng thời nguyên nhân cũng xuất phát một phần từ định hướng của cha mẹ và thầy cô khuyên các em gái không nên theo lĩnh vực này.
Tuy nhiên, điều lo ngại nhất chính là trở ngại thứ ba và là rào cản ngầm: tư tưởng chủ quan của phụ nữ về vai trò của chính mình, dẫn tới việc hầu hết trong số họ tự giới hạn bản thân và tự rút lui khỏi các lĩnh vực như khoa học hay chính trị.
Hiện tượng này, gọi là “mối đe dọa rập khuôn” (stereotype threat), rất phổ biến trong xã hội. Các nhà nghiên cứu Mĩ đã chứng minh điều này vào năm 1995 liên quan đến vấn đề của người Mĩ gốc Phi.
Cụ thể, khi được giao những nhiệm vụ đòi hỏi trí thông minh để giải quyết, những người Mĩ gốc Phi hoàn thành tốt như những người da trắng ngoại trừ khi họ được đưa vào một nhóm gồm cả người da đen lẫn người da trắng và được cho biết trước rằng mình sẽ tham gia một bài kiểm tra thông minh.
Thông báo tưởng chừng vô hại đó đã gợi lên những hình ảnh về phân biệt chủng tộc trong người da đen khi họ nhìn chung được đầu tư ít hơn về mặt trí óc so với người da trắng. Do bị ám ảnh bởi tư tưởng này, một số lượng đáng kể người da đen thực hiện không tốt bài kiểm tra.
Các nhà khoa học cho rằng hiện tượng tương tự cũng xảy ra với các bé gái về kĩ năng tính toán hay kĩ thuật khi so với các bé trai.
Hiện tượng này khá phổ biến, dù những định kiến có phần cay nghiệt này thường bị xã hội hiểu sai dẫn đến sai lầm trong đánh giá nữ giới. Ví dụ, từ sự thật rằng “có ít nhà khoa học nữ”, nhiều người lại tin rằng phụ nữ không giỏi trong khoa học bằng đàn ông.”
(Trích Chỉ 17 nhà khoa học nữ từng đoạt giải Nobel, vì sao? - Trọng Nhân, theo tuoitre.vn)
Thực hiện các yêu cầu:
Câu 1 [702274]: Theo đoạn trích, nguyên do đáng lo ngại nhất khiến phụ nữ ít đoạt giải trong các lĩnh vực khoa học là gì?
Theo đoạn trích, nguyên do đáng lo ngại nhất khiến phụ nữ ít đoạt giải trong các lĩnh vực khoa học là rào cản ngầm: tư tưởng chủ quan của phụ nữ về vai trò của chính mình.
Câu 2 [702275]: Để chứng minh cho khuôn mẫu định kiến về người phụ nữ trong mắt nam giới, đoạn trích đã sử dụng bằng chứng nào?
Để chứng minh cho khuôn mẫu định kiến về người phụ nữ trong mắt nam giới, đoạn trích đã sử dụng bằng chứng: Một cuộc khảo sát vào năm 2015 cho rằng 67% nam giới tin rằng phụ nữ chưa đủ thông minh để trở thành những nhà khoa học hàng đầu.
Câu 3 [702276]: Trong đoạn trích, cụm từ mới chỉ có (in đậm) nhấn mạnh điều gì?
Trong đoạn trích, cụm từ mới chỉ có nhấn mạnh số lượng ít ỏi của phụ nữ đoạt giải trong các lĩnh vực khoa học.
Câu 4 [702277]: Cụm từ hiện tượng tương tự (in đậm) trong đoạn trích biểu đạt thông tin nào?
(Theo đoạn trích, những người Mĩ gốc Phi sẽ không hoàn thành tốt bài kiểm tra về trí thông minh nếu được cho biết họ sẽ thực hiện bài thi cùng những người da trắng. Vì họ luôn bị ám ảnh bởi sự phân biệt chủng tộc, họ nhận thấy mình được đầu tư ít hơn về mặt trí óc so với người da trắng.)
Cụm từ hiện tượng tương tự trong đoạn trích biểu đạt cho thông tin của các nhà khoa học: Các bé gái, cũng giống như những người Mĩ gốc Phi, sẽ thực hiện bài kiểm tra kĩ năng tính toán hay kĩ thuật không tốt nếu phải thi cùng với các bé trai; vì các bé gái nghĩ rằng mình ít được đầu tư hơn so với các bé trai.
Câu 5 [702278]: Chỉ ra một thông điệp từ đoạn trích.
HS có thể chỉ ra một trong các thông điệp sau:
- Phụ nữ hãy tự tin vào chính mình.
- Hãy tôn trọng phụ nữ và thực sự để họ được bình đẳng với nam giới.
- Hãy tạo mọi điều kiện để phụ nữ được thể hiện, khẳng định bản thân.
II. VIẾT (6,0 điểm)
Câu 6 [702279]: (2,0 điểm)
Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về vai trò của phụ nữ trong xã hội hiện đại.
Đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ về vai trò của phụ nữ trong xã hội hiện đại có thể được triển khai theo hướng:
- Đối với bản thân: không ngừng nâng cao nhận thức/ hiểu biết để tự bảo vệ mình, khẳng định giá trị bản thân trong cộng đồng.
- Đối với gia đình: chủ động quán xuyến công việc trong gia đình (dù ở bất kì thời đại nào, phụ nữ cũng nên là “người giữ lửa” trong gia đình của mình).
- Đối với xã hội: nỗ lực cống hiến cho xã hội những điều tốt đẹp trong khả năng của mình; lan toả những điều tốt đẹp tới những người xung quanh.
- Biết cân bằng, hài hoà các vai trò sao cho phù hợp với bối cảnh, khả năng của bản thân.
(Dẫn chứng: Nguyễn Thị Phương Thảo - CEO của Vietjet Air, bà đã đưa hãng hàng không này trở thành một thương hiệu nổi bật không chỉ ở Việt Nam mà còn trên thế giới; Nguyễn Thị Ánh Viên - vận động viên bơi lội xuất sắc của Việt Nam, cô là biểu tượng cho sự nỗ lực, kiên trì và vai trò của phụ nữ trong lĩnh vực thể thao...)
Câu 7 [702280]: (4,0 điểm)
Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) so sánh hai văn bản sau:
(1)
LÀM LẼ
(Hồ Xuân Hương)
Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng,
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung.
Năm thì mười họa chăng hay chớ
Một tháng đôi lần có cũng không.
Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm.
Cầm bằng làm mướn, mướn không công
Thân này vì biết dường này nhỉ.
Thà trước thôi đành ở vậy xong.
(Theo Hồ Xuân Hương thơ và đời, NXB Văn học, 1995)
(2)
“Anh thân yêu; người vĩ đại của em
Anh là mặt trời, em chỉ là hạt muối
Một chút mặn giữa đại dương vời vợi
Loài rong rêu chưa ai biết bao giờ
Em chỉ là ngọn cỏ dưới chân qua
Là hạt bụi vô tình trên áo
Nhưng nếu sáng nay em chẳng đong được gạo
Chắc chắn buổi chiều anh không có cơm ăn”
(Trích Thơ vui về phái yếu - Xuân Quỳnh, theo Xuân Quỳnh thơ và đời, NXB Văn hoá, 1998)
Bài văn so sánh hai văn bản (bài thơ Làm lẽ - Hồ Xuân Hương và trích đoạn trogn bài thơ Thơ vui về phái yếu - Xuân Quỳnh) có thể triển khai theo nhiều cách, song cần bảo đảm các ý chính:
* Giới thiệu khái quát các tác giả, các văn bản
- Hồ Xuân Hương là một trong những cây bút xuất sắc của thơ ca trung đại Việt Nam; là một hiện tượng thơ ca độc đáo: nhà thơ phụ nữ viết vè phụ nữ; trào phúng mà trữ tình; đậm đà chất văn học dân gian từ đề tài, cảm hứng đến ngôn ngữ, hình tượng. Thơ Hồ Xuân Hương là tiếng nói thương cảm đối với người phụ nữ, là sự khẳng định, đề cao vẻ đẹp và khát vọng của họ.
- Xuân Quỳnh là một trong những gương mặt tiêu biểu của phong trào Thơ trẻ chống Mĩ; sáng tác xoay quanh các đề tài nổi bật như phụ nữ, tình yêu, thiếu nhi,... (Sóng, Tự hát, Thuyền và biển, Hoa cỏ may, Chuyện cổ tích về loài người,...). Thơ Xuân Quỳnh là tiếng lòng của một tâm hồn phụ nữ nhiều trắc ẩn, vừa hồn nhiên, tươi tắn, vừa chân thành, đằm thắm và luôn da diết trong khát vọng hạnh phúc bình dị đời thường.
- Làm lẽ (còn có tên là Lấy chồng chung) và Thơ vui về phái yếu là những bài thơ viết về người phụ nữ tiêu biểu của hai nhà thơ.
* So sánh, đánh giá hai văn bản
- Cơ sở so sánh: Hai văn bản cùng đề tài (người phụ nữ); cùng bộc bạch, giãi bày cảm xúc, suy nghĩ của những người phụ nữ trước cảnh sống, cuộc sống đời thường.
- Mục đích so sánh: làm rõ điểm tương đồng, khác biệt giữa hai văn bản.
- Nội dung so sánh:
+ Điểm tương đồng:
• Về nội dung: Cùng khắc hoạ hình tượng người phụ nữ trong cuộc sống đời thường
o Trong Làm lẽ, Hồ Xuân Hương xây dựng hình tượng người phụ nữ trong kiếp phận làm lẽ với bao oan trái, uất ức mỗi ngày.
o Trong trích đoạn từ Thơ vui về phái yếu, Xuân Quỳnh tái hiện hình ảnh người phụ nữ trong cuộc sống đời thường với những lo toan thường nhật.
• Về nghệ thuật:
o Ngôn ngữ giản dị, gần với lời ăn tiếng nói thường ngày
◼️ Hồ Xuân Hương mở đầu bài thơ của mình bằng tiếng chửi (Chém cha cái kiếp lấy chồng chung); đưa vào lời thơ bao thành ngữ dân gian một cách tự nhiên (Năm thì mười hoạ, Gặp chăng hay chớ, Một tháng đôi lần, Cố đấm ăn xôi, Làm mướn không công); lời ăn tiếng nói thường ngày (Thân này ví biết dường này nhỉ./ Thà trước thôi đành ở vậy xong.).
◼️ Xuân Quỳnh cũng đưa vào lời thơ lời nói thường ngày (Nhưng nếu sáng nay em chẳng đong được gạo/ Chắc chắn buổi chiều anh không có cơm ăn).
o Hình ảnh mộc mạc, gần gũi, đời thường (chăn bông, xôi hẩm; hạt muối, rong rêu, ngọn cỏ, hạt bụi, gạo, cơm).
o Âm điệu thành thực, tự nhiên: Nhân vật trữ tình trong mỗi văn bản đều rất thành thực khi giãi bày cảm xúc, ý nghĩ của mình. Lời thơ bởi thế như lời trải lòng từ gan ruột rút ra.
• Lí giải sự tương đồng: Cả hai văn bản đều được viết bởi những người phụ nữ nhiều trải nghiệm, va vấp trong cuộc đời; đa cảm, giàu lòng trắc ẩn và tài năng.
+ Điểm khác biệt:
• Bài thơ Làm lẽ:
o Về nội dung:
◼️ Nhân vật trữ tình và mạch cảm xúc: người phụ nữ đem thân đi lấy lẽ, làm lẽ. Từ cảnh ngộ, thân phận lấy chồng chung, làm lẽ đầy bi kịch, người phụ nữ trong thi phẩm đã bộc lộ một chuỗi tâm trạng với hàng loạt sắc thái cảm xúc tiêu cực: căm phẫn, uất ức (hai câu đề) - tủi hổ, bẽ bàng (hai câu thực) - cực nhục, ai oán (hai câu luận) - hờn tủi, đắng đót, tiếc nuối (hai câu kết),... Đây cũng chính là mạch cảm xúc của bài thơ.
◼️ Cảm hứng chủ đạo: Nỗi uất ức, tủi hổ của người phụ nữ trong kiếp làm lẽ, chung chồng.
◼️ Chủ đề: Thương cảm, xót xa với kiếp phận bi kịch của những người con gái phải lấy chồng chung; lên án chế độ đa thê.
o Về nghệ thuật:
◼️ Thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật với sự tuân thủ các quy định về niêm, luật, cách gieo vần, ngắt nhịp, việc sử dụng phép đối,... tô đậm ấn tượng về những khuôn phép, về sự giam hãm, tù ngục bủa vây, kiềm toả cuộc đời, số kiếp bất hạnh của những người phụ nữ với thân phận bé mọn, phụ thuộc, trong xã hội phong kiến “trọng nam khinh nữ”, “trai năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên chỉ lấy một chồng”,...
◼️ Giọng điệu chủ đạo: căm phẫn, uất ức.
• Trích đoạn trong bài thơ Thơ vui về phái yếu:
o Về nội dung:
◼️ Nhân vật trữ tình: “em” - người vợ. Trong đoạn thơ, người vợ, một cách rất thành thực đã bộc bạch bao cảm xúc, nghĩ suy về chồng mình trong tương quan đối sánh với chính mình. Trong suy nghĩ của chị, người chồng thật vĩ đại, thật tuyệt vời còn chị thì chỉ bé mọn, bình thường như hạt muối, rong rêu, ngọn cỏ, hạt bụi mà thôi. Song, đối diện với cuộc sống khó khăn thường ngày (thời bao cấp), những người phụ nữ bé mọn, bình thường như chị lại có thể làm những việc nhỏ bé mà vô cùng ý nghĩa (đong gạo, nấu cơm cho chồng). Mạch cảm xúc đi từ ngưỡng mộ, ngợi ca chồng sang đùa vui, hóm hỉnh, đáng yêu.
◼️ Cảm hứng chủ đạo: Tươi vui, hóm hỉnh.
◼️ Chủ đề: Ngợi ca hình ảnh người phụ nữ trong cuộc sống đời thường với những lo toan, hi sinh thầm lặng.
o Về nghệ thuật:
◼️ Thể thơ tự do giúp nhân vật trữ tình bộc lộ cảm xúc một cách phóng khoáng.
◼️ Phép đối lập được sử dụng để tạo nên sự tương phản giữa các cặp hình ảnh: mặt trời - hạt muối, đại dương - chút mặn; đối ý: “anh”, “người vĩ đại” - “em”, người vợ bé mọn với những lo toan đời thường nhưng có thể làm được “điều bình thường vĩ đại” trong cuộc sống đầy khó khăn (nếu sáng nay em chẳng đong được gạo/ Chắc chắn buổi chiều anh không có cơm ăn).
◼️ Giọng điệu như lời trò chuyện đầy hóm hỉnh mà thành thực của người vợ với người chồng.
• Lí giải sự khác biệt: Sự khác biệt có thể được lí giải từ yếu tố thời đại (Hồ Xuân Hương là nhà thơ trung đại, Xuân Quỳnh là nhà thơ hiện đại); từ cảnh ngộ riêng của mỗi tác giả (Hồ Xuân Hương và Xuân Quỳnh đều là những người phụ nữ phải “hai lần đò” nhưng Hồ Xuân Hương hai lần lấy chồng đều hai lần làm lẽ còn Xuân Quỳnh có lẽ may mắn hơn khi cuộc hôn nhân với Lưu Quang Vũ đã mang lại cho bà thật nhiều hạnh phúc); từ cá tính sáng tạo của mỗi người cầm bút;...
- Đánh giá
+ Điểm tương đồng giữa hai văn bản góp phần làm tô đậm cho các đặc điểm nổi bật ở đề tài người phụ nữ trong văn học; thể hiện sự đồng điệu trong cảm xúc và sự sáng tạo của các nhà thơ (dù họ sống ở các thời đại khác nhau).
+ Sự khác biệt góp phần tô đậm cá tính sáng tạo của mỗi nhà thơ; làm phong phú hơn cho đề tài người phụ nữ trong thơ ca Việt Nam.
* Đánh giá chung
Hồ Xuân Hương và Xuân Quỳnh đều là những nhà thơ nữ xuất sắc của thơ ca Việt Nam và Làm lẽ, Thơ vui về phái yếu là những thi phẩm đặc sắc về đề tài người phụ nữ trong văn học.
<*> Tham khảo bài viết:
VỀ BÀI THƠ “LÀM LẼ” (“LẤY CHỒNG CHUNG” - HỒ XUÂN HƯƠNG)
Đời Hồ Xuân Hương chưa đến mức là một “tấm gương oan khổ” cho bi kịch người phụ nữ trong xã hội xưa. Nhưng cuộc đời nữ sĩ đã là điển hình cho những đau khổ riêng của người phụ nữ: tình duyên trắc trở, thân phận lẽ mọn,... Chính vì vậy Hồ Xuân Hương viết về mình mà tiếng nói của bà lại trở thành lời phát ngôn chung cho giới phụ nữ và ngược lại, khi Hồ Xuân Hương nói về nỗi khổ đau chung của giới mình thì người đọc nhận ngay ra những dấu ấn riêng của chính cuộc đời nhà thơ. Bài “Lấy chồng chung” là lời “tự tình” của chính Xuân Hương nhưng đồng thời là tiếng nói của bao kiếp người lẽ mọn - nạn nhân của chế độ đa thê.
Cảm nhận chung khi đọc bài thơ này là Hồ Xuân Hương đã tiếp tục một cách sáng tạo đề tài, chủ đề vốn có trong văn học dân gian và văn học viết.
Đề tài về cảnh lấy chồng chung, nói rộng ra là đề tài về chế độ đa thê đã từng xuất hiện trong văn học truyền thống với những câu thơ ngắn như trong ca dao, tục ngữ hoặc cả một tác phẩm dài như “Cung oán ngâm khúc”. Khi viết về đề tài này, văn học dân gian thường hướng cảm xúc vào việc lên án sự bất bình đẳng trong quan hệ vợ lớn, vợ bé, thể hiện niềm cảm thông với thân phận của người vợ lẽ - thân phận người bị áp bức và thân phận người bị bóc lột. Ở văn học dân gian và nhất là trong một số tác phẩm văn học viết, các tác giả đã nhìn nhận những người phụ nữ lấy chồng chung đều là nạn nhân của chế độ đa thê. Tư tưởng nhân văn mạnh mẽ, sâu sắc đó đã được Hồ Xuân Hương tiếp nối và phát huy với những sáng tạo độc đáo, mang phong cách riêng của nữ sĩ.
Bài “Lấy chồng chung” được vào đề một cách tự nhiên nhưng có phần đột ngột:
Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng
Những ngôn ngữ thông tục trong đời sống đã đem đến cho câu thơ vẻ tự nhiên của lời nói. Hình tượng đối lập “Kẻ đắp chăn bông / kẻ lạnh lùng” như báo trước sự việc được nói tới sẽ đầy éo le, bất công. Sự bất công đến mức ngang trái, khiến nữ sĩ phải bật lên tiếng chửi:
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung
Trong văn học trung đại, ngôn ngữ thông tục đến mức như tiếng chửi rất ít khi được đưa vào thơ ca. Bởi văn chương vốn được xem là tao nhã, thuộc phạm trù cao quý, những lời nôm na dân dã cũng bị sàng lọc, nói gì đến tiếng chửi. Sự xuất hiện tiếng chửi trong thơ thường là dấu hiệu giai đoạn cuối của văn học trung đại, khi xu hướng dân chủ hoá đã hoàn toàn đủ mạnh để đưa ngôn ngữ thông tục vào phạm trù thẩm mĩ. Và tiếng chửi cũng chỉ thường xuất hiện trong hoàn cảnh đặc biệt, ở những tác giả đặc biệt về tài năng. Tài năng như Nguyễn Du, trong hoàn cảnh đặc biệt éo le, hận nhục của Thuý Kiều khi phải vào lầu xanh lần thứ hai, “Truyện Kiều” đã xuất hiện tiếng chửi:
Chém cha cái số má đào,
Gỡ ra rồi lại buộc vào như chơi.
Cũng phải tài năng như Tú Xương, trong hoàn cảnh tâm trạng vừa thương vợ, vừa hận đời, vừa tự trách mình, câu thơ luật mới mang tiếng chửi:
                                Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
                                Có chồng hờ hững cũng như không.
(Thương vợ)
Tiếng chửi trong văn thơ là kết quả của niềm phẫn uất. Tiếng chửi trong thơ Hồ Xuân Hương vừa thể hiện sự phẫn uất cao độ vừa thể hiện thái độ phủ định triệt để đối với việc làm lẽ. Tác giả không chỉ phủ định một hoàn cảnh cụ thể mà phủ định toàn bộ cái “kiếp” lấy chồng chung. Từ “kiếp” bao giờ cũng là sự đối lập với niềm sung sướng, hạnh phúc, nó chỉ đi cùng với khổ đau, tủi nhục.
Hai câu thực và hai câu luận tiếp tục thể hiện niềm phẫn uất trước sự bất công đối với người phụ nữ lấy chồng chung.
Hai câu thực nói đến bi kịch về tinh thần. Người lấy chồng chung chịu nhiều thiệt thòi trong đời sống tình cảm:
                                Năm thì mười hoạ hay chăng chớ,
                                Một tháng đôi lần có cũng không.
Cảnh tình éo le, cay đắng của người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương cũng giống cảnh ngộ người phụ nữ trong ca dao:
Tối tối chị giữ mất chồng,
Chị cho manh chiếu nằm không nhà ngoài.
Nỗi đau và sự thấm thía nỗi đau của người phụ nữ trong ca dao và người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương là giống nhau nhưng cách thể hiện thì có phần khác. Ca dao nôm na, bộc trực. Thơ Hồ Xuân Hương tinh tế hơn trong những vấn đề tế nhị. Tinh tế do việc tác giả sử dụng thành ngữ “năm thì mười hoạ”, “một tháng đôi lần” kết hợp với sáng tạo cụm từ “hay chăng chớ”, “có cũng không” để mở rộng trường nghĩa, tạo nên tính chất vừa lấp lửng, vừa xác định về nghĩa của câu thơ.
Hai câu luận bộc lộ nỗi khổ về vật chất. Người lấy chồng chung, nhất là lại - làm lẽ thì chịu nhiều thiệt thòi, bất công trong kinh tế, trong lao động:
                                Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm,
                                Cầm bằng làm mướn, mướn không công.
Nỗi khổ của người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương nào có xa lạ gì với nỗi khổ của người phụ nữ trong ca dao:
Lấy chồng làm lẽ khổ thay,
Đi cấy, đi cày, chị chẳng kể công.
Danh nghĩa là vợ nhưng thực tế người làm lẽ là một kẻ đi ở không công. Họ gắng gượng chịu đựng, nuốt tủi, nuốt sầu mà cái tủi cái sầu càng nhiều càng lớn. Bao xót xa đau đớn trong những cụm từ “cố đấm ăn xôi”, “xôi lại hẩm”. Bao tủi hờn, oán hận trong những cụm từ “cầm bằng làm mướn”, “mướn không công”. Lời người phụ nữ trong ca dao là lời kể, lời than. Lời người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương là muối sát lòng, là ớt trên miệng lưỡi. Trong hai nỗi khổ của người phụ nữ, ca dao đưa nỗi khổ về vật chất, về lao động lên trước (“Lấy chồng làm lẽ khổ thay - Đi cấy, đi cày, chị chẳng kể công - Tối tối chị giữ mất chồng - Chị cho manh chiếu nằm không nhà ngoài”), thơ Hồ Xuân Hương lại đưa lên vị trí đầu tiên nỗi khổ về tinh thần, tình cảm. Điều đó chứng tỏ tác giả thấu hiểu sâu sắc người phụ nữ, thấu hiểu nỗi đau khổ riêng của người phụ nữ.
Trong hai câu thực và hai câu luận, người đọc gặp lại phong cách quen thuộc của thơ Hồ Xuân Hương, dân dã mà đầy cá tính sáng tạo: sự vận dụng không nguyên mẫu thành ngữ, tục ngữ. Mỗi câu thơ đều chia thành hai vế, về thành ngữ: “Năm thì mười hoạ”, “Một tháng đôi lần”, “Cố đấm ăn xôi”, “Cầm bằng làm mướn” và vế sáng tạo: “hay chăng chớ”, “có cũng không”, “xôi lại hẩm”, “mướn không công”. Nghệ thuật đối trong từng câu thơ với cách ngắt nhịp rành mạch đã làm rõ cảnh éo le, sự bất công ngang trái. Câu luận với những điệp từ, điệp ngữ tạo cho lời thơ có giọng đay đả, phẫn uất.
Với hai câu kết, tác giả một lần nữa phủ nhận chế độ đa thê:
                                Thân này ví biết dường này nhỉ,
                                Thà trước thôi đành ở vậy xong.
Thái độ phủ nhận của Hồ Xuân Hương gặp gỡ thái độ của quần chúng nhân dân trong ca dao, tục ngữ: “Chết trẻ còn hơn lấy lẽ”, “Đói lòng nằm gốc cây sung/ Chồng một thì lấy, chồng chung thì đừng”.
Mạch cảm xúc nhân văn Hồ Xuân Hương trong bài “Lấy chồng chung” chảy từ nguồn văn học dân gian. Tuy nhiên, hai câu kết vẫn thể hiện sắc thái riêng của tâm trạng, bản lĩnh Hồ Xuân Hương. “Thân này” là tự nói về mình, là tự ý thức về bản thân, sâu sắc và rành mạch như “Này của Xuân Hương” trong Mời trầu, “Thân này đâu đã chịu già tom” trong “Tự tình”. Lời thơ như một lời tự nhủ, tự thán, tự. trách, tự ân hận, chứng tỏ từ những chiêm nghiệm của số phận riêng, Hồ Xuân Hương nghĩ đến kiếp lấy chồng chung của bao người phụ nữ.
Trong khi phủ nhận triệt để chế độ đa thê, Hồ Xuân Hương vẫn không thôi - khát vọng hạnh phúc lứa đôi, hạnh phúc gia đình. Từ “thà” thể hiện sự kiên quyết trong nỗ lực vươn lên, từ “thôi đành” bộc lộ nghịch cảnh éo le, cực chẳng đã. Nếu xã hội không bất công, nếu tình đời đừng “xanh như lá, bạc như vôi” thì người phụ nữ đâu phải tự đẩy mình vào hoàn cảnh “ở vậy”. Hai câu kết vừa mạnh mẽ vừa ngậm ngùi, vừa chua xót trước số phận vừa tha thiết với cuộc đời.
Bài thơ “Lấy chồng chung” có sức mạnh chống phong kiến, thể hiện tư tưởng nhân văn cao đẹp, lên án, phủ nhận chế độ đa thê, thông cảm sâu sắc với những khổ đau bất hạnh và khẳng định khát vọng hạnh phúc của người phụ nữ.
Bài thơ sử dụng nhiều ngôn ngữ đời sống với thành phần khẩu ngữ sinh động, sử dụng ngôn ngữ văn học dân gian với những câu thành ngữ đầy sáng tạo. Tư tưởng quần chúng, cách nói dân gian đã mang bản lĩnh và cá tính Hồ Xuân Hương - nhà thơ nữ viết về phụ nữ.
(Theo Lã Nhâm Thìn, Phân tích tác phẩm văn học Trung đại Việt Nam từ góc nhìn thể loại, NXB Giáo dục Việt Nam, 2019)

VỀ BÀI THƠ “THƠ VUI VỀ PHÁI YẾU” (XUÂN QUỲNH)
Trong xã hội hiện đại, người phụ nữ có môt vai trò và trách nhiệm to lớn. Họ vừa phải gánh vác việc nhà với thiên chức của một người vợ, một người mẹ, vừa phải tham gia lao động xã hội. Tuy nhiên, người phụ nữ có mạnh mẽ, có gánh vác trách nhiệm lớn lao đến đâu cũng vẫn bị coi là phái yếu. Vì vậy nữ thi sĩ Xuân Quỳnh viết bài thơ “Thơ vui về phái yếu” (1968).
Nói đến Xuân Quỳnh, chắc hẳn người đọc sẽ nghĩ ngay đến những bài thơ tình nồng nàn, da diết và cháy bỏng như: “Gió Lào cát trắng”, “Sóng”, “Thuyền và biển”, “Hoa cỏ may”... Tuy nhiên, bài thơ “Thơ vui về phái yếu” lại mang những nét rất riêng: hài hước, hóm hỉnh và có cả những suy tư triết lí về cuộc sống.
Mở đầu bài thơ, với giọng thủ thủ tâm tình, nữ thi sĩ khắc họa hình ảnh kì vĩ, lớn lao của phái bên kia - phái mạnh:
            “Những người đàn ông các anh có bao nhiêu điều to lớn
            Vượt qua ô cửa cỏn con, căn phòng hẹp hàng ngày
            Các anh nghĩ ra tàu ngầm, tên lửa, máy bay
            Tới thăm dò những hành tinh mới lạ
            Tài sản của các anh là những tinh cầu, là vũ trụ
            Các anh biết mỏ dầu mỏ bạc ở nơi đâu
            Chinh phục đại dương bằng các con tàu
            Đi tới tương lai trên con đường ngắn nhất
            Mỗi các anh là một nhà chính khách
            Các anh quan tâm đến chuyện mất còn của các quốc gia.
            Biết bao điều quan trọng được đề ra
            Những hiệp ước xoay vần thế giới”
Sử dụng biện pháp nghệ thuật liệt kê, nữ thi sĩ đã chỉ ra những điều lớn lao kì vĩ của đấng mày râu. Đầu tiên là các đấng mày râu tạo ra những công trình to lớn như tàu ngầm, tên lửa, máy bay.
Sau đó là khả năng khám phá ra hành tinh mới lạ, chinh phục đại dương rộng lớn và đi tới tương lai trên con đường ngắn nhất. Đặc biệt, tài sản của họ cũng là những thứ lớn lao như; tinh cầu, vũ trụ, là mỏ dầu, là mỏ bạc. Bởi thế, họ chính là những người quyết định đến việc sống còn của quốc gia, dân tộc và là ngươi tạo ra những hiệp ước xoay vần thế giới.
Trái với những điều kì vĩ ấy, những người phụ nữ chỉ sống trong không gian chật hẹp, làm những việc nhỏ nhoi như bếp núc hàng ngày. Trong đầu lúc nào cũng nghĩ về chợ búa, những quả cà, mớ tép, rau dưa. Hơn nữa, nếu những người đàn ông quan tâm tới Nít và Kăng thì phụ nữ lại rất thờ ơ.
Vì người phụ nữ còn phải lo xếp hàng đi chợ, sắm cho con đôi dép đến trường. Điều mà người phụ nữ quan tâm là xà phòng, là thuốc đánh răng và lo đan áo cho chồng con khỏi rét. Tài sản của những người phụ nữ cũng chỉ là chậu, là nồi, là lửa, là tình yêu và những lời ru. Nữ thi sĩ tâm sự:
            “Chúng tôi là những người đàn bà bình thường trên trái đất.
            Quen với việc nhỏ nhoi bếp núc hàng ngày
            Chúng tôi chẳng có tàu ngầm, tên lửa, máy bay
            Càng không có hạt nhân nguyên tử
            Chúng tôi chỉ có chậu, có nồi, có lửa
            Có tình yêu và có lời ru.”
Tuy nhiên, tác giả đặt ra một tình huống: Nếu ví dụ thế giới này không có người phụ nữ thì cuộc sống sẽ ra sao? Từ đó, khẳng định vai trò quan trọng của người phụ nữ. Họ chính là người mang lại niềm vui, hạnh phúc, an ủi người đàn ông sau thất bại nhọc nhằn. Hơn nữa họ còn sinh ra những đứa con để “tiếp tục giống nòi” và dạy chúng “biết yêu, biết hát”:
            “Nếu ví dụ không có chúng tôi đây
            Liệu cuộc sống có còn là cuộc sống
            Ai sẽ mang lại cho các anh vui buồn hạnh phúc
            Mở lòng đón các anh sau thất bại nhọc nhằn
            Thử nghĩ xem thế giới chỉ đàn ông
            Các anh sẽ không còn biết yêu biết ghét
            Các anh không đánh nhau nhưng cũng chẳng làm nên gì hết
            Thế giới sẽ già nua và sẽ lụi tàn
            Ai sẽ là người sinh ra những đứa con
Để tiếp tục giống nòi và dạy chúng biết yêu, biết hát.”

Những lời thơ chất chứa dòng tâm sự được chắt lọc từ tinh hoa của văn hóa dân gian một lần nữa khẳng định vai trò của người phụ nữ. Người có công sinh thành, nuôi dưỡng và bồi đắp vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách cho mỗi con người. Dẫu có là người quyền lực hay kẻ tầm thường thì chúng ta cũng là con của một người mẹ, một người đàn bà bình thường, không ai biết tuổi tên. Từ đó, nhà thơ đưa ra một vấn đề mang tính triết lí:
            “Dẫu là nguyên thủ quốc gia hay là những anh hùng
            Là bác học... hay là ai đi nữa
            Vẫn là con của một người phụ nữ
            Một người đàn bà bình thường, không ai biết tuổi tên”
Đến đây, cách xưng hô của thi nhân đột ngột thay đổi. Từ những người đàn ông với chúng tôi thành anh với em. Cách xưng hô thân tình, thân mật ấy tạo nên sự chân thành, đầy nữ tính:
            “Anh thân yêu, người vĩ đại của em
            Anh là mặt trời, em chỉ là hạt muối
            Lời rong rêu chưa ai biết bao giờ
            Em chỉ là ngọn cỏ dưới chân qua
            Là hạt bụi vô tình trên áo.”
Đoạn thơ thi nhân sử dụng nghệ thuật đối lập để so sánh sự vĩ đại, lớn lao của những người đàn ông với sự nhỏ nhoi, khiêm nhường của những người phụ nữ. Nhưng khiêm nhường chính là để khẳng định tầm quan trọng của người phụ nữ. Họ chính là hậu phương để những người đàn ông có thể tạo ra những điều kì vĩ lớn lao.
            “Nhưng nếu sáng nay em chẳng đong được gạo
            Chắc chắn buổi chiều anh không có cơm ăn”.
Đoạn thơ bộc lộ rõ sự thông minh, hài hước, hóm hỉnh của Xuân Quỳnh. Mặc dù vậy, Xuân Quỳnh vẫn giữ nguyên vẻ đẹp đầy nữ tính trong thơ. Bằng lời nói mộc mạc, chân thành ở cuối bài. “Thú thực là chúng tôi cũng không sống được/ Không có các anh thế giới chỉ đàn bà”.
(Theo Hoàng Hải Yến, giaoducthoidai.vn)