I. ĐỌC HIỂU (4,0 điểm)
Đọc văn bản:
VIẾT CHO CON
(Trương Đăng Dung)
(1) Bây giờ con ở đây
từng khóm lá xanh đang lặng lẽ nép vào trong vườn
bàn chân con chưa để dấu muôn nơi
những cánh hoa tay con chưa chạm tới
trong mắt con trời xanh yên ả
những đám mây như gấu trắng bồng bềnh.
(2) Bây giờ con ở đây
khi những cánh rừng già châu Phi bốc cháy
voi chạy về châu Âu chết cóng giữa mùa đông
khi hàng triệu con chim rời xứ lạnh bay về xứ nóng
kiệt sức rồi phải lao xuống biển sâu.
(3) Hôm nay con học đi
ông hàng xóm chống gậy ra vườn lê từng bước nặng nề
hôm nay con học nói
bà hàng xóm thều thào với chồng về một miền quê thời tuổi trẻ.
(4) Mai ngày con lớn lên
bố không biết những điều con sẽ nghĩ
bố không biết những con voi còn chết cóng phía trời xa
bố không biết những đàn chim còn bay về xứ nóng?...
bố chỉ mong trái tim con đừng bao giờ lạc lõng
trước mọi vui buồn bất hạnh của thời con.
VIẾT CHO CON
(Trương Đăng Dung)
(1) Bây giờ con ở đây
từng khóm lá xanh đang lặng lẽ nép vào trong vườn
bàn chân con chưa để dấu muôn nơi
những cánh hoa tay con chưa chạm tới
trong mắt con trời xanh yên ả
những đám mây như gấu trắng bồng bềnh.
(2) Bây giờ con ở đây
khi những cánh rừng già châu Phi bốc cháy
voi chạy về châu Âu chết cóng giữa mùa đông
khi hàng triệu con chim rời xứ lạnh bay về xứ nóng
kiệt sức rồi phải lao xuống biển sâu.
(3) Hôm nay con học đi
ông hàng xóm chống gậy ra vườn lê từng bước nặng nề
hôm nay con học nói
bà hàng xóm thều thào với chồng về một miền quê thời tuổi trẻ.
(4) Mai ngày con lớn lên
bố không biết những điều con sẽ nghĩ
bố không biết những con voi còn chết cóng phía trời xa
bố không biết những đàn chim còn bay về xứ nóng?...
bố chỉ mong trái tim con đừng bao giờ lạc lõng
trước mọi vui buồn bất hạnh của thời con.
(Theo nhandan.vn)
Thực hiện các yêu cầu:
Câu 1 [706529]: Bài thơ được viết theo thể thơ nào?
Bài thơ được viết theo thể thơ tự do.
Câu 2 [706530]: Tìm các chi tiết miêu tả không gian trong đoạn (1) và (2).
Các chi tiết miêu tả không gian nơi trong:
- Đoạn (1): từng khóm lá xanh đang lặng lẽ nép vào trong vườn, những cánh hoa, trời xanh yên ả, những đám mây như gấu trắng bồng bềnh.
- Đoạn (2): những cánh rừng già châu Phi bốc cháy, voi chạy về châu Âu chết cóng giữa mùa đông, hàng triệu con chim rời xứ lạnh bay về xứ nóng/ kiệt sức rồi phải lao xuống biển sâu.
- Đoạn (1): từng khóm lá xanh đang lặng lẽ nép vào trong vườn, những cánh hoa, trời xanh yên ả, những đám mây như gấu trắng bồng bềnh.
- Đoạn (2): những cánh rừng già châu Phi bốc cháy, voi chạy về châu Âu chết cóng giữa mùa đông, hàng triệu con chim rời xứ lạnh bay về xứ nóng/ kiệt sức rồi phải lao xuống biển sâu.
Câu 3 [706531]: So sánh không gian được gợi tả trong đoạn (1) với không gian được gợi tả trong (2).
So sánh không gian được gợi tả trong đoạn (1) với không gian được gợi tả trong đoạn (2):
- Không gian được gợi tả trong đoạn (1) mang vẻ đẹp bình yên, thơ mộng, lãng mạn.
- Không gian được gợi tả trong đoạn (2) là không gian của sự chết chóc, huỷ diệt, bất an.
- Không gian được gợi tả trong đoạn (1) mang vẻ đẹp bình yên, thơ mộng, lãng mạn.
- Không gian được gợi tả trong đoạn (2) là không gian của sự chết chóc, huỷ diệt, bất an.
Câu 4 [706532]: Phân tích tác dụng của phép đối được sử dụng trong đoạn thơ (3).
- Phép đối (đối ý, đối lập) được sử dụng trong đoạn thơ (3): hình ảnh con học đi >< ông hàng xóm chống gậy, lê từng bước nặng nề; con học nói >< bà hàng xóm thều thào...
- Tác dụng:
+ Tô đậm nét nghĩa về những sự đối lập luôn hiện hữu trong cuộc sống (Cuộc sống quanh ta luôn có các nghịch lí, các mặt đối lập.).
+ Gợi cảm nhận về sự sống tiếp nối của con người (tuổi trẻ nối tiếp tuổi già).
- Tác dụng:
+ Tô đậm nét nghĩa về những sự đối lập luôn hiện hữu trong cuộc sống (Cuộc sống quanh ta luôn có các nghịch lí, các mặt đối lập.).
+ Gợi cảm nhận về sự sống tiếp nối của con người (tuổi trẻ nối tiếp tuổi già).
Câu 5 [706533]: Cảm nhận của anh/ chị về hình tượng người cha trong bài thơ.
Cảm nhận về hình tượng người cha trong bài thơ:
- Trong bài thơ, người cha hiện lên qua lời chia sẻ, giãi bày với đứa con bé bỏng, dưới mái nhà bình yên, về những gì diễn ra trong cuộc sống xa gần. Những chia sẻ ấy cho thấy đây là một người cha giàu tình cảm, giàu suy tư và rất mực yêu thương con
- Lòng yêu thương con được kết đọng trong hai dòng thơ cuối cùng: người cha mong con không vô cảm, dửng dưng trước những biến cố thăng trầm của thời đại con sống, tức là mong con luôn biết sống có tình cảm, cảm xúc (bố chỉ mong trái tim con đừng bao giờ lạc lõng/ trước mọi vui buồn bất hạnh của thời con).
- Trong bài thơ, người cha hiện lên qua lời chia sẻ, giãi bày với đứa con bé bỏng, dưới mái nhà bình yên, về những gì diễn ra trong cuộc sống xa gần. Những chia sẻ ấy cho thấy đây là một người cha giàu tình cảm, giàu suy tư và rất mực yêu thương con
- Lòng yêu thương con được kết đọng trong hai dòng thơ cuối cùng: người cha mong con không vô cảm, dửng dưng trước những biến cố thăng trầm của thời đại con sống, tức là mong con luôn biết sống có tình cảm, cảm xúc (bố chỉ mong trái tim con đừng bao giờ lạc lõng/ trước mọi vui buồn bất hạnh của thời con).
II. VIẾT (6,0 điểm)
Câu 6 [706534]: (2,0 điểm)
Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/ chị về thông điệp của bài thơ.
Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/ chị về thông điệp của bài thơ.
Đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) suy nghĩ về thông điệp của bài thơ Viết cho con (Trương Đăng Dung) có thể được triển khai theo hướng:
- Trương Đăng Dung: nhà nghiên cứu lí luận phê bình văn học xuất sắc đương đại. Ông quan niệm thơ phải có tư tưởng, ý và tình phải nhuần nhị, tàng ẩn mà không hiển lộ, chữ nhẹ như không nhưng nặng về ngữ nghĩa, gợi những vùng liên tưởng, chuyển đi thông điệp đồng hành cùng cuộc sống và mang những dự cảm tương lai.
- Viết cho con: một trong những bài thơ đặc sắc, thể hiện rõ nét quan niệm thơ ca của ông. Thi phẩm mang gửi gắm thông điệp tới bạn đọc qua đoạn thơ sau cùng, đặc biệt là hai dòng thơ cuối bài:
Mai ngày con lớn lên
bố không biết những điều con sẽ nghĩ
bố không biết những con voi còn chết cóng phía trời xa
bố không biết những đàn chim còn bay về xứ nóng?...
bố chỉ mong trái tim con đừng bao giờ lạc lõng
trước mọi vui buồn bất hạnh của thời con.
+ Trong đoạn thơ trên, ở bốn dòng thơ trước, người cha thành thật chia sẻ những điều không thể biết trong tương lai - và đó là tương lai của con (mai ngày con lớn lên). Hẳn nhiên là người cha không thể tiên tri và cũng không thể sống mãi cũng con để biết những gì sẽ xảy ra sắp tới: vui - buồn, hạnh phúc - khổ đau, hi vọng - thất vọng, yêu thương - căm ghét, chiến tranh - bình yên,...
+ Song có một điều người cha biết mình luôn mong mỏi ở con: mong trái tim con đừng bao giờ lạc lõng/ trước mọi vui buồn bất hạnh của thời con. Hai chữ lạc lõng trong lời thơ có nghĩa là dửng dưng, vô cảm, là ngoảnh mặt làm ngơ (trước những gì diễn ra trong thời đại). Hình ảnh trái tim con, bởi thế biểu trưng cho thế giới cảm xúc trong con. Từ đây, qua lời nhắn nhủ tới đứa con bé bỏng, thông điệp lời thơ thật rõ ràng: Bất kể cuộc đời có ra sao, hãy đừng quay lưng lại với nó, bởi sự vô cảm sẽ làm cho cuộc đời này càng thêm tồi tệ, tàn nhẫn.
- Thông điệp của bài thơ Viết cho con (Trương Đăng Dung) được vút lên từ tình yêu thương sâu sắc của người cha dành cho con mình và hẳn nhiên nó không chỉ là lời của một người cha tâm tư với con mà còn là tiếng nói của lương tri vô cùng nhân văn dành cho nhân loại muôn đời: Chỉ có tình cảm, cảm xúc yêu thương mới có thể cứu rỗi nhân loại.
- Trương Đăng Dung: nhà nghiên cứu lí luận phê bình văn học xuất sắc đương đại. Ông quan niệm thơ phải có tư tưởng, ý và tình phải nhuần nhị, tàng ẩn mà không hiển lộ, chữ nhẹ như không nhưng nặng về ngữ nghĩa, gợi những vùng liên tưởng, chuyển đi thông điệp đồng hành cùng cuộc sống và mang những dự cảm tương lai.
- Viết cho con: một trong những bài thơ đặc sắc, thể hiện rõ nét quan niệm thơ ca của ông. Thi phẩm mang gửi gắm thông điệp tới bạn đọc qua đoạn thơ sau cùng, đặc biệt là hai dòng thơ cuối bài:
Mai ngày con lớn lên
bố không biết những điều con sẽ nghĩ
bố không biết những con voi còn chết cóng phía trời xa
bố không biết những đàn chim còn bay về xứ nóng?...
bố chỉ mong trái tim con đừng bao giờ lạc lõng
trước mọi vui buồn bất hạnh của thời con.
+ Trong đoạn thơ trên, ở bốn dòng thơ trước, người cha thành thật chia sẻ những điều không thể biết trong tương lai - và đó là tương lai của con (mai ngày con lớn lên). Hẳn nhiên là người cha không thể tiên tri và cũng không thể sống mãi cũng con để biết những gì sẽ xảy ra sắp tới: vui - buồn, hạnh phúc - khổ đau, hi vọng - thất vọng, yêu thương - căm ghét, chiến tranh - bình yên,...
+ Song có một điều người cha biết mình luôn mong mỏi ở con: mong trái tim con đừng bao giờ lạc lõng/ trước mọi vui buồn bất hạnh của thời con. Hai chữ lạc lõng trong lời thơ có nghĩa là dửng dưng, vô cảm, là ngoảnh mặt làm ngơ (trước những gì diễn ra trong thời đại). Hình ảnh trái tim con, bởi thế biểu trưng cho thế giới cảm xúc trong con. Từ đây, qua lời nhắn nhủ tới đứa con bé bỏng, thông điệp lời thơ thật rõ ràng: Bất kể cuộc đời có ra sao, hãy đừng quay lưng lại với nó, bởi sự vô cảm sẽ làm cho cuộc đời này càng thêm tồi tệ, tàn nhẫn.
- Thông điệp của bài thơ Viết cho con (Trương Đăng Dung) được vút lên từ tình yêu thương sâu sắc của người cha dành cho con mình và hẳn nhiên nó không chỉ là lời của một người cha tâm tư với con mà còn là tiếng nói của lương tri vô cùng nhân văn dành cho nhân loại muôn đời: Chỉ có tình cảm, cảm xúc yêu thương mới có thể cứu rỗi nhân loại.
Câu 7 [706535]: (4,0 điểm)
Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ), trình bày suy nghĩ của anh/ chị về ứng xử của người trẻ hôm nay đối với thiên nhiên.
Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ), trình bày suy nghĩ của anh/ chị về ứng xử của người trẻ hôm nay đối với thiên nhiên.
Bài văn trình bày suy nghĩ về ứng xử của người trẻ hôm nay đối với thiên nhiên có thể được triển khai nhiều cách. Song cần bảo đảm các ý:
1. Mở bài (gián tiếp)
2. Thân bài
- Giải thích ngắn gọn “thiên nhiên”: tổng thể những gì tồn tại nói chung xung quanh con người mà không phải do con người tạo ra.
- Bình luận về ứng xử của người trẻ hôm nay đối với thiên nhiên:
+ Người trẻ hôm nay ứng xử với thiên nhiên như thế nào?
• Rất nhiều người trẻ thấu hiểu thiên nhiên, yêu thiên nhiên, gần gũi với thiên nhiên và sẵn sàng bảo vệ thiên nhiên. (Ví dụ: Nhiều người trẻ rất yêu cây cối, loài vật, thích làm vườn, trồng cây, trồng hoa, sẵn sàng dầm mình vớt rác trên các con kênh, các bãi biển, tích cực tham gia bảo vệ động vật hoang dã,... Một số gương điển hình: Nhóm Phú Quốc Sạch và Xanh ra đời, hội tụ những bạn trẻ cùng chung chí hướng trong công tác bảo vệ môi trường, không quản ngại khó khăn, dành ngày nghỉ cuối tuần để làm những việc có ý nghĩa giúp “đảo ngọc” luôn xanh, sạch.; Các thanh niên tình nguyện trẻ của nhóm Hà Nội Xanh đã tổ chức thực hiện nhiều buổi dọn rác trong những năm qua, nhằm góp sức lấy lại vẻ đẹp trong xanh cho những con sông chạy qua Thủ đô.; Nhiều dự án bảo vệ môi trường thiên nhiên được phổ biến ở nhiều nơi như “Đổi chai nhựa lấy cây”, “Đổi rác lấy cây”...
• Những cũng có những người trẻ chưa thấu hiểu thiên nhiên, chưa có ý thức bảo vệ, giữ gìn thiên nhiên. (Ví dụ: Nhiều người trẻ thản nhiên ngắt lá bẻ cành, chặt trụi một cây xanh chỉ để không gian quang quẻ, ứng xử thô bạo với động vật, ném rác bừa bãi,...)
+ Vì sao người trẻ cần thấu hiểu, bảo vệ thiên nhiên?
• Thiên nhiên là người mẹ vĩ đại, ban cho con người hết thảy nguồn sống (không khí để thở, đất đai để sinh tồn, nước để uống, lương thực thực phẩm để ăn,...). Bảo vệ thiên nhiên chính là bảo vệ nguồn sống cho chính mình và các thế hệ con cháu mai sau.
• Thiên nhiên đang bị con người ứng xử tệ bạc: nhiều tài nguyên bị khai thác đến kiệt quệ (rừng bị chặt; than, quặng bị khoét; dầu mỏ bị hút;...); các loài vật cá biển, chim trời, thú quý,... bị săn lùng; nguồn nước bị ô nhiễm; không khí bị ô nhiễm;... Và thiên nhiên đang nổi giận: Trái Đất đang ngày càng nóng lên, biến đổi khí hậu ngày càng phức tạp;...
• Người trẻ là thế hệ có tâm tài trí lực nên có thể là lực lượng “xông pha” nhất trong công cuộc bảo vệ thiên nhiên.
+ Người trẻ hôm nay có thể bảo vệ thiên nhiên như thế nào?
• Nhận thức đúng đắn về vai trò, tầm quan trọng của thiên nhiên đối với con người; về trách nhiệm của con người trong công cuộc bảo vệ thiên nhiên.
• Hành động: bảo vệ môi trường từ những việc đơn giản thường ngày (phân loại rác trước khi vứt bỏ, bỏ rác đúng nơi quy định, hạn chế sử dụng túi nilon và các vật liệu khó phân huỷ, sử dụng các sản phẩm thân thiện với môi trường, sử dụng tiết kiệm các nguồn năng lượng, tích cực trồng cây xanh,...; lan toả tới mọi người trách nhiệm bảo vệ thiên nhiên; tham gia các dự án, chiến dịch bảo vệ thiên nhiên môi trường như “Giờ Trái đất” hằng năm,...
3. Kết bài
Rút ra bài học nhận thức và hành động
<*> Tham khảo bài viết:
Năm Ất Dậu (2005) vừa qua là một năm thiên tai ác liệt, gây hại nhiều vùng nước ta, đặc biệt ở dải đất miền Trung. Điều ấy vừa hợp với quy luật vừa mang tính bất thường. Hợp với quy luật vì, không ít thì nhiều, năm nào bão và áp thấp nhiệt đới, nước sông dâng, triều cường và lũ quét chẳng tàn phá không nơi này thì nơi khác. Cái bất thường là ở chỗ cường độ và tần suất xuất hiện bão lũ mỗi năm một mạnh hơn, mau hơn; sự tàn phá gây nhiều thiệt hại hơn. Một sự bất thường đã được cảnh báo. Một sự bất thường đang trở thành tai họa khó lường không riêng với dải đất hình chữ S mà cho toàn thế giới.
Thái độ ứng xử của người Việt Nam đối với thiên nhiên xưa nay bao giờ cũng là thân thiết. Thân thiết và trân trọng, với cảm khái ít nhiều thần phục trước sức mạnh và sự hào phóng của trời mây cho cuộc sống muôn loài. Trông trời trông đất trông mây/ Trông mưa trông gió trông ngày trông đêm/ Trông cho chân cứng đá mềm/ Trời yên biển lặng... Thiên nhiên là người bạn tốt. Thiên nhiên là tài nguyên. “Chỉ cần mưa gió thuận hòa...”, “Rừng vàng biển bạc...”, nơi đâu con người biết quý trọng thiên nhiên, sẽ được thiên nhiên ưu đãi và cuộc sống nơi đó khắc dễ dàng.
Cách nhìn truyền thống bắt nguồn từ nền sản xuất nhỏ lấy tự cung tự cấp tại chỗ làm chính dần dần trở nên lỗi thời trước sự phát triển của xã hội công nghiệp, khi dân số trái đất đông lên tới mức hầu như không thể kiểm soát nổi hậu quả, khi con người tham lam và mù quáng lạm dụng sự hào phóng của thiên nhiên. Lấy thí dụ quan niệm phổ biến của xã hội ta về nước dùng hằng ngày. Qua nhiều ngàn năm, suy nghĩ của tổ tiên chúng ta - và cả thế hệ chúng ta hôm nay nữa - dựa trên ba định kiến. Một là, “nước ra biển cả lại tuôn về nguồn”, “hạn to thì rồi mưa lớn”, nước của thiên nhiên, nước trên mặt đất xoay vòng không bao giờ cạn kiệt. Hai là, “bẩn thì lấy nước làm sạch”. Không ít người vẫn cho rằng nước tự nó không bẩn, nếu có bị làm ô uế thì tự nó khắc sạch sẽ, khắc trong xanh trở lại. Thảm trạng ô nhiễm nguồn nước kéo theo tật bệnh tràn lan khởi nguồn từ cách nghĩ ấy. Lại nữa, “nước là lộc trời ban”, “mưa móc là ơn trời”, lộc chẳng mất tiền mua, đâu sẵn nguồn lộc trời ban cho thì tha hồ dùng xả láng. Rất ít người biết, từ nhiều năm rồi, không hiếm vùng trên trái đất, giá nước sạch đắt hơn cả giá xăng dầu.
Khi rừng bị cư dân sinh sôi quá nhanh đẩy lùi không thương tiếc, khi chính con người lại giành giật không gian sinh tồn với rừng là đấng vẫn mang lại cái sống cho mình, khi con người khai thác thủy sản bằng những thủ thuật mang tính diệt chủng, khi công nghiệp phát triển quá xô bồ, thì khái niệm rừng vàng biển bạc không còn đúng. Con người không còn là bạn của rừng, của biển. Chính vì vậy, thiên nhiên bắt đầu quay lưng lại với con người. Nhà văn Nga Leonid Leonov viết một câu thâm thúy: “Thật chưa đủ khi chỉ gọi rừng và thiên nhiên là những người bạn tốt của chúng ta. Còn hơn thế, đó là những người bạn nhẫn nại. Họ sẽ chẳng phàn nàn với ai. Họ chỉ thầm lặng ra đi, thầm lặng biến mất nếu bị chúng ta coi thường những nhu cầu của họ. Chính vì vậy chúng ta, những người làm chủ thiên nhiên, chúng ta phải có một thái độ biết điều sơ đẳng (đối với bạn bè)”.
Những thành tựu bước đầu của Nhà nước ta trong đối đãi với thiên nhiên mấy chục năm gần đây thật đáng trân trọng. Mặc dù hiệu quả chưa đồng đều, nhiều chính sách lớn như trồng cây, phủ xanh đất trống đồi trọc, bảo vệ rừng đầu nguồn, phòng chống thiên tai, tôn trọng đa dạng sinh học, cải thiện môi trường sinh thái, tham gia cùng cộng đồng quốc tế bảo vệ bầu sinh quyển, v.v... đã thành công một bước. Không phải quốc gia nào cũng làm được như vậy, kể cả những nước giàu mạnh hơn ta. Nhưng tại sao, bên cạnh mặt sáng ấy, triền miên diễn ra cảnh người dân phá rừng không thương tiếc, và có cán bộ, đảng viên ngang nhiên tiếp tay cho tệ nạn ấy? Tại sao một số cấp ủy đảng và chính quyền nhiều nơi vẫn thờ ơ trước tình trạng suy thoái tự nhiên ở quê hương mình? Có nhiều nguyên nhân, như đời sống bức xúc, lợi nhuận hấp dẫn, quản lí lỏng lẻo, phẩm chất cán bộ sa sút, luật pháp chưa nghiêm... (tất cả đều đúng), truy cho tận ngọn nguồn, rốt cuộc phải chăng ở thái độ ứng xử không biết điều, kém văn hóa của con người đối với tự nhiên?
Một vấn đề then chốt tự nó đặt ra trước mắt xã hội từ những nghịch lí nói trên: Phải nhanh chóng thay đổi một cách cơ bản thái độ ứng xử của con người, trước hết những người có trách nhiệm lớn - tức cán bộ, đảng viên - đối với tự nhiên. Phải xây dựng một thái độ văn hóa mới đối với tự nhiên.
Có điều chớ nên ngộ nhận. Không phải kinh tế càng phát triển, con người sống càng sung túc khắc có thái độ ứng xử càng đúng đắn với thiên nhiên, bởi sẵn có trong tay phương tiện vật chất, kỹ thuật và tiền của. Đôi khi ngược lại. Các nhà khoa học trên thế giới đều nhất trí, sở dĩ trái đất đang nóng dần lên, hệ quả lồng kính ngày càng rõ rệt biểu hiện, hiện tượng tần suất và cường độ của thiên tai ngày càng mau hơn, mạnh hơn, băng giá vĩnh cửu ở hai địa cực đang tan mòn với nhịp độ đáng lo; tất cả những hiện tượng ấy đều cảnh báo một thảm họa được nhìn thấy trước. Mà thủ phạm gây ra hiện tượng toàn cầu ấy chính là sự phát triển vô hạn độ của công nghiệp. Có nghĩa các nước càng giàu có, càng phát triển thì tội vạ càng to. Thế nhưng có một số quốc gia, tiêu biểu nhất là siêu cường quốc Hoa Kỳ, lại thoái thác nghĩa vụ của mình bảo tồn nền sinh quyển, quay lưng lại cộng đồng quốc tế với một thái độ vô trách nhiệm thật lạ kì.
Âu cũng là điều có thể hiểu được. Thái độ ứng xử văn hóa của con người đâu có tùy thuộc vào cấp độ sở hữu tài sản của người đó. Về phần mình, chúng ta không chờ đến khi đời sống khấm khá hơn lên nữa, mà ngược lại, ngay từ bây giờ cần khẩn trương giáo dục và phổ cập một thái độ văn hóa mới đối với tự nhiên.
(1) https://dantri.com.vn/nhip-song-tre/nhung-du-an-bao-ve-moi-truong-day-tam-huyet-tuoi-tre-cua-thu-linh-xanh-20180104144249863.htm
(2) https://www.qdnd.vn/xa-hoi/cac-van-de/nhung-nguoi-tre-bao-ve-moi-truong-783211
1. Mở bài (gián tiếp)
2. Thân bài
- Giải thích ngắn gọn “thiên nhiên”: tổng thể những gì tồn tại nói chung xung quanh con người mà không phải do con người tạo ra.
- Bình luận về ứng xử của người trẻ hôm nay đối với thiên nhiên:
+ Người trẻ hôm nay ứng xử với thiên nhiên như thế nào?
• Rất nhiều người trẻ thấu hiểu thiên nhiên, yêu thiên nhiên, gần gũi với thiên nhiên và sẵn sàng bảo vệ thiên nhiên. (Ví dụ: Nhiều người trẻ rất yêu cây cối, loài vật, thích làm vườn, trồng cây, trồng hoa, sẵn sàng dầm mình vớt rác trên các con kênh, các bãi biển, tích cực tham gia bảo vệ động vật hoang dã,... Một số gương điển hình: Nhóm Phú Quốc Sạch và Xanh ra đời, hội tụ những bạn trẻ cùng chung chí hướng trong công tác bảo vệ môi trường, không quản ngại khó khăn, dành ngày nghỉ cuối tuần để làm những việc có ý nghĩa giúp “đảo ngọc” luôn xanh, sạch.; Các thanh niên tình nguyện trẻ của nhóm Hà Nội Xanh đã tổ chức thực hiện nhiều buổi dọn rác trong những năm qua, nhằm góp sức lấy lại vẻ đẹp trong xanh cho những con sông chạy qua Thủ đô.; Nhiều dự án bảo vệ môi trường thiên nhiên được phổ biến ở nhiều nơi như “Đổi chai nhựa lấy cây”, “Đổi rác lấy cây”...
• Những cũng có những người trẻ chưa thấu hiểu thiên nhiên, chưa có ý thức bảo vệ, giữ gìn thiên nhiên. (Ví dụ: Nhiều người trẻ thản nhiên ngắt lá bẻ cành, chặt trụi một cây xanh chỉ để không gian quang quẻ, ứng xử thô bạo với động vật, ném rác bừa bãi,...)
+ Vì sao người trẻ cần thấu hiểu, bảo vệ thiên nhiên?
• Thiên nhiên là người mẹ vĩ đại, ban cho con người hết thảy nguồn sống (không khí để thở, đất đai để sinh tồn, nước để uống, lương thực thực phẩm để ăn,...). Bảo vệ thiên nhiên chính là bảo vệ nguồn sống cho chính mình và các thế hệ con cháu mai sau.
• Thiên nhiên đang bị con người ứng xử tệ bạc: nhiều tài nguyên bị khai thác đến kiệt quệ (rừng bị chặt; than, quặng bị khoét; dầu mỏ bị hút;...); các loài vật cá biển, chim trời, thú quý,... bị săn lùng; nguồn nước bị ô nhiễm; không khí bị ô nhiễm;... Và thiên nhiên đang nổi giận: Trái Đất đang ngày càng nóng lên, biến đổi khí hậu ngày càng phức tạp;...
• Người trẻ là thế hệ có tâm tài trí lực nên có thể là lực lượng “xông pha” nhất trong công cuộc bảo vệ thiên nhiên.
+ Người trẻ hôm nay có thể bảo vệ thiên nhiên như thế nào?
• Nhận thức đúng đắn về vai trò, tầm quan trọng của thiên nhiên đối với con người; về trách nhiệm của con người trong công cuộc bảo vệ thiên nhiên.
• Hành động: bảo vệ môi trường từ những việc đơn giản thường ngày (phân loại rác trước khi vứt bỏ, bỏ rác đúng nơi quy định, hạn chế sử dụng túi nilon và các vật liệu khó phân huỷ, sử dụng các sản phẩm thân thiện với môi trường, sử dụng tiết kiệm các nguồn năng lượng, tích cực trồng cây xanh,...; lan toả tới mọi người trách nhiệm bảo vệ thiên nhiên; tham gia các dự án, chiến dịch bảo vệ thiên nhiên môi trường như “Giờ Trái đất” hằng năm,...
3. Kết bài
Rút ra bài học nhận thức và hành động
<*> Tham khảo bài viết:
ỨNG XỬ VỚI THIÊN NHIÊN
(Phan Quang)
“Thật chưa đủ khi chỉ gọi rừng và thiên nhiên là những người bạn tốt của chúng ta. Còn hơn thế, đó là những người bạn nhẫn nại. Họ sẽ chẳng phàn nàn với ai. Họ chỉ thầm lặng ra đi, thầm lặng biến mất nếu bị chúng ta coi thường những nhu cầu của họ.”Năm Ất Dậu (2005) vừa qua là một năm thiên tai ác liệt, gây hại nhiều vùng nước ta, đặc biệt ở dải đất miền Trung. Điều ấy vừa hợp với quy luật vừa mang tính bất thường. Hợp với quy luật vì, không ít thì nhiều, năm nào bão và áp thấp nhiệt đới, nước sông dâng, triều cường và lũ quét chẳng tàn phá không nơi này thì nơi khác. Cái bất thường là ở chỗ cường độ và tần suất xuất hiện bão lũ mỗi năm một mạnh hơn, mau hơn; sự tàn phá gây nhiều thiệt hại hơn. Một sự bất thường đã được cảnh báo. Một sự bất thường đang trở thành tai họa khó lường không riêng với dải đất hình chữ S mà cho toàn thế giới.
Thái độ ứng xử của người Việt Nam đối với thiên nhiên xưa nay bao giờ cũng là thân thiết. Thân thiết và trân trọng, với cảm khái ít nhiều thần phục trước sức mạnh và sự hào phóng của trời mây cho cuộc sống muôn loài. Trông trời trông đất trông mây/ Trông mưa trông gió trông ngày trông đêm/ Trông cho chân cứng đá mềm/ Trời yên biển lặng... Thiên nhiên là người bạn tốt. Thiên nhiên là tài nguyên. “Chỉ cần mưa gió thuận hòa...”, “Rừng vàng biển bạc...”, nơi đâu con người biết quý trọng thiên nhiên, sẽ được thiên nhiên ưu đãi và cuộc sống nơi đó khắc dễ dàng.
Cách nhìn truyền thống bắt nguồn từ nền sản xuất nhỏ lấy tự cung tự cấp tại chỗ làm chính dần dần trở nên lỗi thời trước sự phát triển của xã hội công nghiệp, khi dân số trái đất đông lên tới mức hầu như không thể kiểm soát nổi hậu quả, khi con người tham lam và mù quáng lạm dụng sự hào phóng của thiên nhiên. Lấy thí dụ quan niệm phổ biến của xã hội ta về nước dùng hằng ngày. Qua nhiều ngàn năm, suy nghĩ của tổ tiên chúng ta - và cả thế hệ chúng ta hôm nay nữa - dựa trên ba định kiến. Một là, “nước ra biển cả lại tuôn về nguồn”, “hạn to thì rồi mưa lớn”, nước của thiên nhiên, nước trên mặt đất xoay vòng không bao giờ cạn kiệt. Hai là, “bẩn thì lấy nước làm sạch”. Không ít người vẫn cho rằng nước tự nó không bẩn, nếu có bị làm ô uế thì tự nó khắc sạch sẽ, khắc trong xanh trở lại. Thảm trạng ô nhiễm nguồn nước kéo theo tật bệnh tràn lan khởi nguồn từ cách nghĩ ấy. Lại nữa, “nước là lộc trời ban”, “mưa móc là ơn trời”, lộc chẳng mất tiền mua, đâu sẵn nguồn lộc trời ban cho thì tha hồ dùng xả láng. Rất ít người biết, từ nhiều năm rồi, không hiếm vùng trên trái đất, giá nước sạch đắt hơn cả giá xăng dầu.
Khi rừng bị cư dân sinh sôi quá nhanh đẩy lùi không thương tiếc, khi chính con người lại giành giật không gian sinh tồn với rừng là đấng vẫn mang lại cái sống cho mình, khi con người khai thác thủy sản bằng những thủ thuật mang tính diệt chủng, khi công nghiệp phát triển quá xô bồ, thì khái niệm rừng vàng biển bạc không còn đúng. Con người không còn là bạn của rừng, của biển. Chính vì vậy, thiên nhiên bắt đầu quay lưng lại với con người. Nhà văn Nga Leonid Leonov viết một câu thâm thúy: “Thật chưa đủ khi chỉ gọi rừng và thiên nhiên là những người bạn tốt của chúng ta. Còn hơn thế, đó là những người bạn nhẫn nại. Họ sẽ chẳng phàn nàn với ai. Họ chỉ thầm lặng ra đi, thầm lặng biến mất nếu bị chúng ta coi thường những nhu cầu của họ. Chính vì vậy chúng ta, những người làm chủ thiên nhiên, chúng ta phải có một thái độ biết điều sơ đẳng (đối với bạn bè)”.
Những thành tựu bước đầu của Nhà nước ta trong đối đãi với thiên nhiên mấy chục năm gần đây thật đáng trân trọng. Mặc dù hiệu quả chưa đồng đều, nhiều chính sách lớn như trồng cây, phủ xanh đất trống đồi trọc, bảo vệ rừng đầu nguồn, phòng chống thiên tai, tôn trọng đa dạng sinh học, cải thiện môi trường sinh thái, tham gia cùng cộng đồng quốc tế bảo vệ bầu sinh quyển, v.v... đã thành công một bước. Không phải quốc gia nào cũng làm được như vậy, kể cả những nước giàu mạnh hơn ta. Nhưng tại sao, bên cạnh mặt sáng ấy, triền miên diễn ra cảnh người dân phá rừng không thương tiếc, và có cán bộ, đảng viên ngang nhiên tiếp tay cho tệ nạn ấy? Tại sao một số cấp ủy đảng và chính quyền nhiều nơi vẫn thờ ơ trước tình trạng suy thoái tự nhiên ở quê hương mình? Có nhiều nguyên nhân, như đời sống bức xúc, lợi nhuận hấp dẫn, quản lí lỏng lẻo, phẩm chất cán bộ sa sút, luật pháp chưa nghiêm... (tất cả đều đúng), truy cho tận ngọn nguồn, rốt cuộc phải chăng ở thái độ ứng xử không biết điều, kém văn hóa của con người đối với tự nhiên?
Một vấn đề then chốt tự nó đặt ra trước mắt xã hội từ những nghịch lí nói trên: Phải nhanh chóng thay đổi một cách cơ bản thái độ ứng xử của con người, trước hết những người có trách nhiệm lớn - tức cán bộ, đảng viên - đối với tự nhiên. Phải xây dựng một thái độ văn hóa mới đối với tự nhiên.
Có điều chớ nên ngộ nhận. Không phải kinh tế càng phát triển, con người sống càng sung túc khắc có thái độ ứng xử càng đúng đắn với thiên nhiên, bởi sẵn có trong tay phương tiện vật chất, kỹ thuật và tiền của. Đôi khi ngược lại. Các nhà khoa học trên thế giới đều nhất trí, sở dĩ trái đất đang nóng dần lên, hệ quả lồng kính ngày càng rõ rệt biểu hiện, hiện tượng tần suất và cường độ của thiên tai ngày càng mau hơn, mạnh hơn, băng giá vĩnh cửu ở hai địa cực đang tan mòn với nhịp độ đáng lo; tất cả những hiện tượng ấy đều cảnh báo một thảm họa được nhìn thấy trước. Mà thủ phạm gây ra hiện tượng toàn cầu ấy chính là sự phát triển vô hạn độ của công nghiệp. Có nghĩa các nước càng giàu có, càng phát triển thì tội vạ càng to. Thế nhưng có một số quốc gia, tiêu biểu nhất là siêu cường quốc Hoa Kỳ, lại thoái thác nghĩa vụ của mình bảo tồn nền sinh quyển, quay lưng lại cộng đồng quốc tế với một thái độ vô trách nhiệm thật lạ kì.
Âu cũng là điều có thể hiểu được. Thái độ ứng xử văn hóa của con người đâu có tùy thuộc vào cấp độ sở hữu tài sản của người đó. Về phần mình, chúng ta không chờ đến khi đời sống khấm khá hơn lên nữa, mà ngược lại, ngay từ bây giờ cần khẩn trương giáo dục và phổ cập một thái độ văn hóa mới đối với tự nhiên.
(Theo nld.com.vn)
<*> Đọc thêm các link:(1) https://dantri.com.vn/nhip-song-tre/nhung-du-an-bao-ve-moi-truong-day-tam-huyet-tuoi-tre-cua-thu-linh-xanh-20180104144249863.htm
(2) https://www.qdnd.vn/xa-hoi/cac-van-de/nhung-nguoi-tre-bao-ve-moi-truong-783211