I. ĐỌC HIỂU (4,0 điểm)
Đọc văn bản:
GIÁ TỪNG THƯỚC ĐẤT
(Chính Hữu)
(1) Năm mươi sáu ngày đêm bom gầm pháo giội,
Ta mới hiểu thế nào là đồng đội.
Đồng đội ta
là hớp nước uống chung
Nắm cơm bẻ nửa
Là chia nhau một trưa nắng, một chiều mưa
Chia khắp anh em một mẩu tin nhà
Chia nhau đứng trong chiến hào chật hẹp
Chia nhau cuộc đời, chia nhau cái chết.
(2) Bạn ta đó
Ngã trên dây thép ba tầng
Một bàn tay chưa rời báng súng,
Chân lưng chừng nửa bước xung phong.
Ôi những con người mỗi khi nằm xuống
Vẫn nằm trong tư thế tiến công!
Bên trái: Lò Văn Sự
Bên phải: Nguyễn Đình Ba,
Những đêm tiến công, những ngày phòng ngự,
Có phải các anh vẫn còn đủ cả
Trong đội hình đại đội chúng ta?
(3) Khi bạn ta
lấy thân mình
đo bước
chiến hào đi,
Ta mới hiểu
giá từng thước đất,
Các anh ở đây
Trận địa là đây,
Trận địa sẽ không lùi nửa thước,
Không bao giờ, không bao giờ để mất
Mảnh đất
Các anh nằm.
1954 - 1961
GIÁ TỪNG THƯỚC ĐẤT
(Chính Hữu)
(1) Năm mươi sáu ngày đêm bom gầm pháo giội,
Ta mới hiểu thế nào là đồng đội.
Đồng đội ta
là hớp nước uống chung
Nắm cơm bẻ nửa
Là chia nhau một trưa nắng, một chiều mưa
Chia khắp anh em một mẩu tin nhà
Chia nhau đứng trong chiến hào chật hẹp
Chia nhau cuộc đời, chia nhau cái chết.
(2) Bạn ta đó
Ngã trên dây thép ba tầng
Một bàn tay chưa rời báng súng,
Chân lưng chừng nửa bước xung phong.
Ôi những con người mỗi khi nằm xuống
Vẫn nằm trong tư thế tiến công!
Bên trái: Lò Văn Sự
Bên phải: Nguyễn Đình Ba,
Những đêm tiến công, những ngày phòng ngự,
Có phải các anh vẫn còn đủ cả
Trong đội hình đại đội chúng ta?
(3) Khi bạn ta
lấy thân mình
đo bước
chiến hào đi,
Ta mới hiểu
giá từng thước đất,
Các anh ở đây
Trận địa là đây,
Trận địa sẽ không lùi nửa thước,
Không bao giờ, không bao giờ để mất
Mảnh đất
Các anh nằm.
1954 - 1961
(Theo Đầu súng trăng treo - Chính Hữu, NXB Văn học, Hà Nội, 1972)
Thực hiện các yêu cầu:
Câu 1 [706536]: Xác định nhân vật trữ tình của bài thơ.
Nhân vật trữ tình của bài thơ: người lính.
Câu 2 [706537]: Tìm các chi tiết thể hiện tình cảm đồng đội trong đoạn (1).
Các chi tiết thể hiện tình cảm đồng đội trong đoạn (1): hớp nước uống chung, nắm cơm bẻ nửa, chia nhau một trưa nắng, một chiều mưa, chia nhau một mẩu tin nhà, chia nhau đứng trong chiến hào chật hẹp, chia nhau cuộc đời, chia nhau cái chết.
Câu 3 [706538]: Anh/ Chị hiểu gì về vẻ đẹp của người lính được thể hiện trong những dòng thơ sau?
Bạn ta đó
Ngã trên dây thép ba tầng
Một bàn tay chưa rời báng súng,
Chân lưng chừng nửa bước xung phong.
Bạn ta đó
Ngã trên dây thép ba tầng
Một bàn tay chưa rời báng súng,
Chân lưng chừng nửa bước xung phong.
Bạn ta đó
Ngã trên dây thép ba tầng
Một bàn tay chưa rời báng súng,
Chân lưng chừng nửa bước xung phong.
Đoạn thơ khắc hoạ hình tượng người lính trong cuộc chiến đấu, ở giây phút hi sinh. Các chi tiết bàn tay chưa rời báng súng, chân lưng chừng nửa bước xung phong khắc hoạ tinh thần chiến đấu anh dũng, quả cảm đến hơi thở cuối cùng của chiến sĩ.
Ngã trên dây thép ba tầng
Một bàn tay chưa rời báng súng,
Chân lưng chừng nửa bước xung phong.
Đoạn thơ khắc hoạ hình tượng người lính trong cuộc chiến đấu, ở giây phút hi sinh. Các chi tiết bàn tay chưa rời báng súng, chân lưng chừng nửa bước xung phong khắc hoạ tinh thần chiến đấu anh dũng, quả cảm đến hơi thở cuối cùng của chiến sĩ.
Câu 4 [706539]: Nêu tác dụng của câu hỏi tu từ: Có phải các anh vẫn còn đủ cả/ Trong đội hình đại đội chúng ta?.
Tác dụng của câu hỏi tu từ: Có phải các anh vẫn còn đủ cả/ Trong đội hình đại đội chúng ta?:
- Gợi cảm giác mất mát, đau đớn tột cùng và sự tưởng nhớ, khắc ghi trong tâm trí của những người lính còn sống trước sự vắng mặt của những người đồng đội đã hi sinh.
- Gợi cảm nhận về sự bất tử của những người lính đã ra đi trong tâm tưởng những người ở lại.
- Gợi cảm giác mất mát, đau đớn tột cùng và sự tưởng nhớ, khắc ghi trong tâm trí của những người lính còn sống trước sự vắng mặt của những người đồng đội đã hi sinh.
- Gợi cảm nhận về sự bất tử của những người lính đã ra đi trong tâm tưởng những người ở lại.
Câu 5 [706540]: Chỉ ra thông điệp của bài thơ.
Thông điệp của bài thơ: Cái giá của độc lập, tự do cho mỗi quốc gia dân tộc rất đắt bởi nó được trả bằng máu của rất nhiều chiến sĩ đã ngã xuống.
II. VIẾT (6,0 điểm)
Câu 6 [706541]: (2,0 điểm)
Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) cảm nhận về ý nghĩa nhan đề bài thơ ở phần Đọc hiểu.
Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) cảm nhận về ý nghĩa nhan đề bài thơ ở phần Đọc hiểu.
Đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) cảm nhận về ý nghĩa nhan đề bài thơ Giá từng thước đất (Chính Hữu) có thể được triển khai theo hướng:
- Trong văn bản, nhan đề là thành phần được đặt ở vị trí đầu tiên để gọi tên, đánh dấu sự bắt đầu của một văn bản và thu hút sự chú ý của người đọc. Nhan đề của văn bản văn học lại thường mang nghĩa hàm ẩn, gợi hình tượng.
Có nhiều cách đặt nhan đề cho tác phẩm văn học: Lấy tên một nhân vật chính; lấy tên một sự vật, sự kiện, hiện tượng, hình ảnh cụ thể; lấy tên một địa danh cụ thể; dựa vào ý khái quát của toàn bộ nội dung tác phẩm;...
- Nhan đề Giá từng thước đất thâu tóm chủ đề của bài thơ, gợi suy ngẫm về sự hi sinh của các chiến sĩ trong công cuộc đấu tranh giành độc lập, hoà bình cho đất nước:
+ Từng thước đất: gợi đến đất đai, chủ quyền lãnh thổ của Tổ quốc. Cụm từ từng thước nhấn mạnh vào đơn vị rất nhỏ, gợi cảm nhận về tính chất đắt đỏ trong giá trị của chủ quyền.
+ Giá: không hàm chỉ giá trị vật chất nên không được đo lường bằng vật chất (tiền bạc, hiện kim,...). Cái giá phải trả để giành lại chủ quyền lãnh thổ quốc gia phải đổi bằng sự hi sinh xương máu của biết bao nhiêu con người.
Gắn liền nhan đề bài thơ với các chi tiết trong tác phẩm, có thể thấy nhan đề ấy nhấn mạnh vào sự hi sinh của biết bao chiến sĩ quân đội nhân dân Việt Nam.
- Nhan đề bài thơ đồng thời mang đến cảm nhận sâu sắc chủ quyền lãnh thổ và sự hi sinh anh dũng của biết bao chiến sĩ để giành lại chủ quyền thiêng liêng ấy.
<*> Tham khảo bài viết:
Bài thơ “Giá từng thước đất” của nhà thơ Chính Hữu ra mắt độc giả năm 1954. Lúc đầu nhà thơ Chính Hữu đặt tên bài thơ là “Đồng đội”, nhưng rồi muốn được “tự do huỷ bỏ những cái viết ra nhưng không vừa ý” (“Tự bạch”) nên ông đổi tên bài thơ là “Giá từng thước đất”. [...]
Nhà thơ Chính Hữu cũng là người lính đã từng tham gia trực tiếp chiến dịch Điện Biên vì vậy là người trong cuộc nên từ trong trái tim nhà thơ - chiến sĩ Chính Hữu đã in sâu những hình ảnh anh hùng của đồng đội. Bài thơ “Giá từng thước đất” của nhà thơ Chính Hữu vừa bi tráng, quặn thắt nhưng cũng phác họa vẻ đẹp hùng tráng của người chiến sĩ mà khó có tượng đài nào chạm khắc nổi. Tình cảm đồng đội được nâng dần lên từ những sinh hoạt bình thường đến lẽ tử sinh của một đời người. Cộng đồng thân thiết đó thật bình dị. Có lẽ đây cũng là nét đặc trưng của những người lính Việt Nam đa số xuất thân từ nông thôn ra đi từ cộng đồng làng xóm, từ nếp nhà tranh sau lũy tre làng gắn bó mật thiết với nhau. Một mẩu tin tuy ngắn ngủi nhưng đó là cả một hậu phương vững chắc để chống chọi lại “Năm mươi sáu ngày đêm bom gầm pháo dội.
Năm mươi sáu ngày đêm bom gầm pháo giội trên mảnh đất Điện Biên đã được nhà thơ dùng làm cái nền, nơi con người kề bên cái chết vẫn đồng tâm nhất trí chiến đấu giữ cho được từng thước đất thiêng liêng của Tổ quốc. Giữa “bom gầm pháo giội” những người lính Điện Biên vẫn sống bên nhau những giây phút đầy ắp tình người ngay trong chiến hào của trận địa. Đó là những người chiến sĩ bình thường, những người lính không có chiến công đặc biệt đến tận hôm nay. Biết bao chiến sĩ, những người đã nằm xuống nơi đây và những người đang sống, cùng với nhân dân cả nước đã “chụm lại thành hòn núi cao” làm nên chiến thắng chấn động địa cầu (7/5/1954). Cái “Giá của từng thước đất” đã hàm chứa trong đó là sự hi sinh của đồng đội. Hi sinh để giữ từng thước đất - đó là một sự đóng góp làm nên vinh quang.
Thế hệ hôm nay sau 70 năm kể từ ngày lịch sử ấy sẽ mãi mai không bao giờ quên các anh và chiến công của các anh những người hi sinh trên mảnh đất Điện Biên sẽ trẻ mãi với thời gian và từng thước đất sẽ sống mãi với non sông đất nước.
- Trong văn bản, nhan đề là thành phần được đặt ở vị trí đầu tiên để gọi tên, đánh dấu sự bắt đầu của một văn bản và thu hút sự chú ý của người đọc. Nhan đề của văn bản văn học lại thường mang nghĩa hàm ẩn, gợi hình tượng.
Có nhiều cách đặt nhan đề cho tác phẩm văn học: Lấy tên một nhân vật chính; lấy tên một sự vật, sự kiện, hiện tượng, hình ảnh cụ thể; lấy tên một địa danh cụ thể; dựa vào ý khái quát của toàn bộ nội dung tác phẩm;...
- Nhan đề Giá từng thước đất thâu tóm chủ đề của bài thơ, gợi suy ngẫm về sự hi sinh của các chiến sĩ trong công cuộc đấu tranh giành độc lập, hoà bình cho đất nước:
+ Từng thước đất: gợi đến đất đai, chủ quyền lãnh thổ của Tổ quốc. Cụm từ từng thước nhấn mạnh vào đơn vị rất nhỏ, gợi cảm nhận về tính chất đắt đỏ trong giá trị của chủ quyền.
+ Giá: không hàm chỉ giá trị vật chất nên không được đo lường bằng vật chất (tiền bạc, hiện kim,...). Cái giá phải trả để giành lại chủ quyền lãnh thổ quốc gia phải đổi bằng sự hi sinh xương máu của biết bao nhiêu con người.
Gắn liền nhan đề bài thơ với các chi tiết trong tác phẩm, có thể thấy nhan đề ấy nhấn mạnh vào sự hi sinh của biết bao chiến sĩ quân đội nhân dân Việt Nam.
- Nhan đề bài thơ đồng thời mang đến cảm nhận sâu sắc chủ quyền lãnh thổ và sự hi sinh anh dũng của biết bao chiến sĩ để giành lại chủ quyền thiêng liêng ấy.
<*> Tham khảo bài viết:
Bài thơ “Giá từng thước đất” của nhà thơ Chính Hữu ra mắt độc giả năm 1954. Lúc đầu nhà thơ Chính Hữu đặt tên bài thơ là “Đồng đội”, nhưng rồi muốn được “tự do huỷ bỏ những cái viết ra nhưng không vừa ý” (“Tự bạch”) nên ông đổi tên bài thơ là “Giá từng thước đất”. [...]
Nhà thơ Chính Hữu cũng là người lính đã từng tham gia trực tiếp chiến dịch Điện Biên vì vậy là người trong cuộc nên từ trong trái tim nhà thơ - chiến sĩ Chính Hữu đã in sâu những hình ảnh anh hùng của đồng đội. Bài thơ “Giá từng thước đất” của nhà thơ Chính Hữu vừa bi tráng, quặn thắt nhưng cũng phác họa vẻ đẹp hùng tráng của người chiến sĩ mà khó có tượng đài nào chạm khắc nổi. Tình cảm đồng đội được nâng dần lên từ những sinh hoạt bình thường đến lẽ tử sinh của một đời người. Cộng đồng thân thiết đó thật bình dị. Có lẽ đây cũng là nét đặc trưng của những người lính Việt Nam đa số xuất thân từ nông thôn ra đi từ cộng đồng làng xóm, từ nếp nhà tranh sau lũy tre làng gắn bó mật thiết với nhau. Một mẩu tin tuy ngắn ngủi nhưng đó là cả một hậu phương vững chắc để chống chọi lại “Năm mươi sáu ngày đêm bom gầm pháo dội.
Năm mươi sáu ngày đêm bom gầm pháo giội trên mảnh đất Điện Biên đã được nhà thơ dùng làm cái nền, nơi con người kề bên cái chết vẫn đồng tâm nhất trí chiến đấu giữ cho được từng thước đất thiêng liêng của Tổ quốc. Giữa “bom gầm pháo giội” những người lính Điện Biên vẫn sống bên nhau những giây phút đầy ắp tình người ngay trong chiến hào của trận địa. Đó là những người chiến sĩ bình thường, những người lính không có chiến công đặc biệt đến tận hôm nay. Biết bao chiến sĩ, những người đã nằm xuống nơi đây và những người đang sống, cùng với nhân dân cả nước đã “chụm lại thành hòn núi cao” làm nên chiến thắng chấn động địa cầu (7/5/1954). Cái “Giá của từng thước đất” đã hàm chứa trong đó là sự hi sinh của đồng đội. Hi sinh để giữ từng thước đất - đó là một sự đóng góp làm nên vinh quang.
Thế hệ hôm nay sau 70 năm kể từ ngày lịch sử ấy sẽ mãi mai không bao giờ quên các anh và chiến công của các anh những người hi sinh trên mảnh đất Điện Biên sẽ trẻ mãi với thời gian và từng thước đất sẽ sống mãi với non sông đất nước.
(Theo baotangvanhoc.vn)
Câu 7 [706542]: (4,0 điểm)
Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ), trình bày suy nghĩ của anh/ chị về lối sống thu mình của một bộ phận giới trẻ trong xã hội hiện đại.
Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ), trình bày suy nghĩ của anh/ chị về lối sống thu mình của một bộ phận giới trẻ trong xã hội hiện đại.
Bài văn trình bày suy nghĩ về lối sống thu mình của một bộ phận giới trẻ trong xã hội hiện đại có thể được triển khai nhiều cách. Song cần bảo đảm các ý:
1. Mở bài (gián tiếp)
- Dẫn dắt vấn đề
- Nêu vấn đề
2. Thân bài
- Giải thích ngắn gọn “thu mình”: khép kín, hạn chế/ sợ giao tiếp với mọi người xung quanh; ngược lại với sự cởi mở, giao thiệp rộng rãi.
- Đặc điểm nổi bật của lối sống thu mình ở những người trẻ trong xã hội hiện đại: thích ở một mình trong phòng, trong nhà, hạn chế giao tiếp với mọi người xung quanh, kể cả với những người thân của mình; chỉ muốn ở trong không gian riêng và không muốn bị ai làm phiền; không có nhu cầu giao tiếp với mọi người xung quanh, thậm chí là với gia đình, người thân; không có nhu cầu kết nối bạn bè, giao tiếp xã hội; không có nhu cầu học tập, làm việc, cống hiến hay thực hiện những ước mơ, mục tiêu của mình; không có nhu cầu thay đổi hay cải thiện lối sống đó và sẽ cảm thấy bất an, sợ hãi, mệt mỏi khi bắt buộc phải giao tiếp hay gặp gỡ mọi người;...
- Thực trạng của lối sống thu mình ở một bộ phận giới trẻ trong xã hội hiện đại:
+ Lối sống thu mình hiện khá phổ biến ở giới trẻ trên thế giới. Ở Nhật Bản, hội chứng xa lánh cộng đồng được gọi là Hikikomori. Vốn được coi là chỉ có ở Nhật Bản, nhưng những năm gần đây những trường hợp mắc Hikikomori đã xuất hiện ở nhiều nước. Ở Hàn Quốc, một phân tích năm 2005 cho thấy đã có 33 nghìn người trưởng thành rút lui khỏi các mối quan hệ xã hội (chiếm 0,3% dân số) và ở Hồng Kông, một khảo sát năm 2014 đưa ra con số 1,9% dân số sống như những người ẩn dật. Tình trạng tương tự cũng đang diễn ra ở các nước Ấn Độ, Trung Quốc, Mỹ, Tây Ban Nha, Italia, Pháp,...
+ Ở Việt Nam cũng vậy, số lượng giới trẻ có lối sống này cũng tăng lên rất nhanh, đặc biệt là do tác động của đại dịch Covid-19 vừa qua. Sự kết nối của các bạn trẻ với gia đình, bạn bè hay mối quan hệ rộng hơn ngoài xã hội đang dần bị ngăn cách, thậm chí đứt đoạn và dẫn đến nhiều vấn đề đáng lưu tâm khác.
- Nguyên nhân:
+ Chủ quan: một số người bẩm sinh đã có tâm hồn yếu đuối; một số người trẻ lại tự ti về bản thân mình; một số người muốn né tránh cuộc sống bởi từng bị tổn thương trong quá khứ hoặc gặp những trở lực trong hiện tại mà không đủ sức vượt qua;...
+ Khách quan: Môi trường gia đình, học tập, làm việc của nhiều người trẻ không có sự quan tâm, sẻ chia lẫn nhau; xã hội hiện đại với sự phát triển của khoa học công nghệ với các thiết bị điện tử thông minh như điện thoại di động, máy tính, máy tính bảng cùng internet và các ứng dụng giải trí như trò chơi điện tử, mạng xã hội,... đã kéo nhiều người ra khỏi thế giới thực mà bước vào thế giới ảo,...; ảnh hưởng của đại dịch Covid-19;...
- Tác hại:
+ Đối với bản thân những người sống thu mình: Lối sống thu mình càng gia tăng tâm lí ngại tiếp xúc ở họ; tăng nguy cơ trầm cảm; cơ hội phát triển bản thân ở những người ngày bị hạn chế; thậm chí họ bị mất đi cảm giác về sự tồn tại có ý nghĩa của cuộc đời, nhiều người còn nghĩ đến cái chết;...
+ Đối với cộng đồng: Lối sống thu mình của một bộ phận người trẻ góp phần làm rạn vỡ sự kết nối trong cộng đồng, cản trở sự phát triển của xã hội.
- Giải pháp:
+ Từ phía những người trẻ có lối sống thu mình:
• Thay đổi nhận thức về bản thân (cần tự tin, mạnh dạn hơn), về cơ hội phát triển của bản thân (giao lưu, tiếp xúc là cơ hội để phát triển bản thân),...
• Hành động: nỗ lực vượt thoát khỏi tình trạng của bản thân bằng cách thực hiện các hoạt động lành mạnh (như kết nối với thiên nhiên, đọc sách, chia sẻ công việc gia đình,...); chủ động kết nối với mọi người; tích cực tham gia vào các hoạt động cộng đồng trong thực tế, đóng góp bản thân cho xã hội; rời xa các tác nhân tiêu cực như mạng xã hội, trò chơi điện tử,...
+ Gia đình, cộng đồng cũng cần chia sẻ, tích cực hỗ trợ những người trẻ này hoà nhập.
3. Kết bài
Rút ra bài học nhận thức và hành động
1. Mở bài (gián tiếp)
- Dẫn dắt vấn đề
- Nêu vấn đề
2. Thân bài
- Giải thích ngắn gọn “thu mình”: khép kín, hạn chế/ sợ giao tiếp với mọi người xung quanh; ngược lại với sự cởi mở, giao thiệp rộng rãi.
- Đặc điểm nổi bật của lối sống thu mình ở những người trẻ trong xã hội hiện đại: thích ở một mình trong phòng, trong nhà, hạn chế giao tiếp với mọi người xung quanh, kể cả với những người thân của mình; chỉ muốn ở trong không gian riêng và không muốn bị ai làm phiền; không có nhu cầu giao tiếp với mọi người xung quanh, thậm chí là với gia đình, người thân; không có nhu cầu kết nối bạn bè, giao tiếp xã hội; không có nhu cầu học tập, làm việc, cống hiến hay thực hiện những ước mơ, mục tiêu của mình; không có nhu cầu thay đổi hay cải thiện lối sống đó và sẽ cảm thấy bất an, sợ hãi, mệt mỏi khi bắt buộc phải giao tiếp hay gặp gỡ mọi người;...
- Thực trạng của lối sống thu mình ở một bộ phận giới trẻ trong xã hội hiện đại:
+ Lối sống thu mình hiện khá phổ biến ở giới trẻ trên thế giới. Ở Nhật Bản, hội chứng xa lánh cộng đồng được gọi là Hikikomori. Vốn được coi là chỉ có ở Nhật Bản, nhưng những năm gần đây những trường hợp mắc Hikikomori đã xuất hiện ở nhiều nước. Ở Hàn Quốc, một phân tích năm 2005 cho thấy đã có 33 nghìn người trưởng thành rút lui khỏi các mối quan hệ xã hội (chiếm 0,3% dân số) và ở Hồng Kông, một khảo sát năm 2014 đưa ra con số 1,9% dân số sống như những người ẩn dật. Tình trạng tương tự cũng đang diễn ra ở các nước Ấn Độ, Trung Quốc, Mỹ, Tây Ban Nha, Italia, Pháp,...
+ Ở Việt Nam cũng vậy, số lượng giới trẻ có lối sống này cũng tăng lên rất nhanh, đặc biệt là do tác động của đại dịch Covid-19 vừa qua. Sự kết nối của các bạn trẻ với gia đình, bạn bè hay mối quan hệ rộng hơn ngoài xã hội đang dần bị ngăn cách, thậm chí đứt đoạn và dẫn đến nhiều vấn đề đáng lưu tâm khác.
- Nguyên nhân:
+ Chủ quan: một số người bẩm sinh đã có tâm hồn yếu đuối; một số người trẻ lại tự ti về bản thân mình; một số người muốn né tránh cuộc sống bởi từng bị tổn thương trong quá khứ hoặc gặp những trở lực trong hiện tại mà không đủ sức vượt qua;...
+ Khách quan: Môi trường gia đình, học tập, làm việc của nhiều người trẻ không có sự quan tâm, sẻ chia lẫn nhau; xã hội hiện đại với sự phát triển của khoa học công nghệ với các thiết bị điện tử thông minh như điện thoại di động, máy tính, máy tính bảng cùng internet và các ứng dụng giải trí như trò chơi điện tử, mạng xã hội,... đã kéo nhiều người ra khỏi thế giới thực mà bước vào thế giới ảo,...; ảnh hưởng của đại dịch Covid-19;...
- Tác hại:
+ Đối với bản thân những người sống thu mình: Lối sống thu mình càng gia tăng tâm lí ngại tiếp xúc ở họ; tăng nguy cơ trầm cảm; cơ hội phát triển bản thân ở những người ngày bị hạn chế; thậm chí họ bị mất đi cảm giác về sự tồn tại có ý nghĩa của cuộc đời, nhiều người còn nghĩ đến cái chết;...
+ Đối với cộng đồng: Lối sống thu mình của một bộ phận người trẻ góp phần làm rạn vỡ sự kết nối trong cộng đồng, cản trở sự phát triển của xã hội.
- Giải pháp:
+ Từ phía những người trẻ có lối sống thu mình:
• Thay đổi nhận thức về bản thân (cần tự tin, mạnh dạn hơn), về cơ hội phát triển của bản thân (giao lưu, tiếp xúc là cơ hội để phát triển bản thân),...
• Hành động: nỗ lực vượt thoát khỏi tình trạng của bản thân bằng cách thực hiện các hoạt động lành mạnh (như kết nối với thiên nhiên, đọc sách, chia sẻ công việc gia đình,...); chủ động kết nối với mọi người; tích cực tham gia vào các hoạt động cộng đồng trong thực tế, đóng góp bản thân cho xã hội; rời xa các tác nhân tiêu cực như mạng xã hội, trò chơi điện tử,...
+ Gia đình, cộng đồng cũng cần chia sẻ, tích cực hỗ trợ những người trẻ này hoà nhập.
3. Kết bài
Rút ra bài học nhận thức và hành động