I. ĐỌC HIỂU (4,0 điểm)
Đọc đoạn trích:
“Việt tỉnh dậy lần thứ tư, trong đầu còn thoáng qua hình ảnh của người mẹ. Đêm nữa lại đến. Đêm sâu thăm thẳm, bắt đầu từ tiếng dế gáy u u cao vút mãi lên. Người Việt như đang tan ra nhè nhẹ. Ước gì bây giờ được gặp má. Phải, ví như lúc má đang bơi xuồng, má sẽ ghé lại, xoa đầu Việt, đánh thức Việt dậy, rồi lấy xoong cơm đi làm đồng để ở dưới xuồng lên cho Việt ăn... Nhưng mấy giọt mưa lất phất trên cổ làm Việt choàng tỉnh hẳn. Một sự vắng lặng như từ trên trời lao xuống chạy từ cổ Việt, lan dài cho tới ngón chân. Việt có một mình ở đây thôi ư? Câu hỏi bật ra trong đầu Việt rồi dội lại trong từng chân lông kẽ tóc. Cái cảm giác một mình bật lên một cách rõ ràng nhất, mênh mông nhất, trong đêm thứ hai này, khi Việt cảm thấy không còn bò đi được nữa, khi những hình ảnh thân yêu thường kéo đến rất nhanh rồi cũng vụt tan biến đi rất nhanh chỉ vì một cành cây gãy, một giọt mưa rơi trên mặt, hoặc một tiếng động nhỏ của ban đêm. Việt muốn chạy thật nhanh, thoát khỏi sự vắng lặng này, về với ánh sáng ban ngày, gặp lại anh Tánh, níu chặt lấy các anh mà khóc như thằng Út em vẫn níu chân chị Chiến, nhưng chân tay không nhấc lên được. Bóng đêm vắng lặng và lạnh lẽo bao tròn lấy Việt, kéo theo đến cả con ma cụt đầu vẫn ngồi trên cây xoài mồ côi và thằng chỏng thụt lưỡi hay nhảy nhót trong những đêm mưa ngoài vàm sông, cái mà Việt vẫn nghe các chị nói hồi ở nhà, Việt nằm thở dốc...
Một loạt đạn súng lớn văng vẳng dội đến ẩm ĩ trên ngọn cây. Rồi loạt thứ hai... Việt ngóc dậy. Rõ ràng không phải tiếng pháo lễnh lãng của giặc. Đó là những tiếng nổ quen thuộc, gom vào một chỗ, lớn nhỏ không đều, chen vào đó là những dây súng nổ vô hồi vô tận. Súng lớn và súng nhỏ quyện vào nhau như tiếng mõ và tiếng trống đình đánh dậy trời dậy đất hồi Đồng khởi. Đúng súng của ta rồi! Việt muốn reo lên. Anh Tánh chắc ở đó, đơn vị mình ở đó. Chà, nổ dữ, phải chuẩn bị lựu đạn xung phong thôi! Đó, lại tiếng hụp hùm... chắc là một xe bọc thép vừa bị ta bắn cháy. Tiếng súng nghe thân thiết và vui lạ. Những khuôn mặt anh em mình lại hiện ra... Cái cằm nhọn hoắt ra của anh Tánh, nụ cười và cái nheo mắt của anh Công mỗi lần anh động viên Việt tiến lên... Việt vẫn còn đây, nguyên tại vị trí này, đạn đã lên nòng, ngón cái còn lại vẫn sẵn sàng nổ súng. Các anh chờ Việt một chút. Tiếng máy bay vẫn gầm rú hỗn loạn trên cao, nhưng mặc xác chúng. Kèn xung phong của chúng ta đã nổi lên. Lựu đạn ta đang nổ rộ...
Việt đã bò đi được một đoạn, cây súng đẩy đi trước, hai cùi tay lôi người theo. Việt cũng không biết rằng mình đang bò đi nữa, chính trận đánh đang gọi Việt đến. Phía đó là sự sống. Tiếng súng đã đem lại sự sống cho đêm vắng lặng. Ở đó có các anh đang chờ Việt, đạn ta đang đổ lên đầu giặc Mĩ những đám lửa dữ dội, và những mũi lê nhọn hoắt trong đêm đang bắt đầu xung phong...”
“Việt tỉnh dậy lần thứ tư, trong đầu còn thoáng qua hình ảnh của người mẹ. Đêm nữa lại đến. Đêm sâu thăm thẳm, bắt đầu từ tiếng dế gáy u u cao vút mãi lên. Người Việt như đang tan ra nhè nhẹ. Ước gì bây giờ được gặp má. Phải, ví như lúc má đang bơi xuồng, má sẽ ghé lại, xoa đầu Việt, đánh thức Việt dậy, rồi lấy xoong cơm đi làm đồng để ở dưới xuồng lên cho Việt ăn... Nhưng mấy giọt mưa lất phất trên cổ làm Việt choàng tỉnh hẳn. Một sự vắng lặng như từ trên trời lao xuống chạy từ cổ Việt, lan dài cho tới ngón chân. Việt có một mình ở đây thôi ư? Câu hỏi bật ra trong đầu Việt rồi dội lại trong từng chân lông kẽ tóc. Cái cảm giác một mình bật lên một cách rõ ràng nhất, mênh mông nhất, trong đêm thứ hai này, khi Việt cảm thấy không còn bò đi được nữa, khi những hình ảnh thân yêu thường kéo đến rất nhanh rồi cũng vụt tan biến đi rất nhanh chỉ vì một cành cây gãy, một giọt mưa rơi trên mặt, hoặc một tiếng động nhỏ của ban đêm. Việt muốn chạy thật nhanh, thoát khỏi sự vắng lặng này, về với ánh sáng ban ngày, gặp lại anh Tánh, níu chặt lấy các anh mà khóc như thằng Út em vẫn níu chân chị Chiến, nhưng chân tay không nhấc lên được. Bóng đêm vắng lặng và lạnh lẽo bao tròn lấy Việt, kéo theo đến cả con ma cụt đầu vẫn ngồi trên cây xoài mồ côi và thằng chỏng thụt lưỡi hay nhảy nhót trong những đêm mưa ngoài vàm sông, cái mà Việt vẫn nghe các chị nói hồi ở nhà, Việt nằm thở dốc...
Một loạt đạn súng lớn văng vẳng dội đến ẩm ĩ trên ngọn cây. Rồi loạt thứ hai... Việt ngóc dậy. Rõ ràng không phải tiếng pháo lễnh lãng của giặc. Đó là những tiếng nổ quen thuộc, gom vào một chỗ, lớn nhỏ không đều, chen vào đó là những dây súng nổ vô hồi vô tận. Súng lớn và súng nhỏ quyện vào nhau như tiếng mõ và tiếng trống đình đánh dậy trời dậy đất hồi Đồng khởi. Đúng súng của ta rồi! Việt muốn reo lên. Anh Tánh chắc ở đó, đơn vị mình ở đó. Chà, nổ dữ, phải chuẩn bị lựu đạn xung phong thôi! Đó, lại tiếng hụp hùm... chắc là một xe bọc thép vừa bị ta bắn cháy. Tiếng súng nghe thân thiết và vui lạ. Những khuôn mặt anh em mình lại hiện ra... Cái cằm nhọn hoắt ra của anh Tánh, nụ cười và cái nheo mắt của anh Công mỗi lần anh động viên Việt tiến lên... Việt vẫn còn đây, nguyên tại vị trí này, đạn đã lên nòng, ngón cái còn lại vẫn sẵn sàng nổ súng. Các anh chờ Việt một chút. Tiếng máy bay vẫn gầm rú hỗn loạn trên cao, nhưng mặc xác chúng. Kèn xung phong của chúng ta đã nổi lên. Lựu đạn ta đang nổ rộ...
Việt đã bò đi được một đoạn, cây súng đẩy đi trước, hai cùi tay lôi người theo. Việt cũng không biết rằng mình đang bò đi nữa, chính trận đánh đang gọi Việt đến. Phía đó là sự sống. Tiếng súng đã đem lại sự sống cho đêm vắng lặng. Ở đó có các anh đang chờ Việt, đạn ta đang đổ lên đầu giặc Mĩ những đám lửa dữ dội, và những mũi lê nhọn hoắt trong đêm đang bắt đầu xung phong...”
(Trích Những đứa con trong gia đình - Nguyễn Thi)
Thực hiện các yêu cầu:
Câu 1 [706564]: Nhân vật chính trong đoạn trích là ai?
Nhân vật chính trong đoạn trích là Việt (- một chiến sĩ giải phóng quân trẻ tuổi).
Câu 2 [706565]: Các câu văn in đậm trong đoạn trích được viết theo kiểu lời văn nào? Nêu tác dụng của kiểu lời văn đó.
- Các câu văn in đậm trong đoạn trích được viết theo kiểu lời văn nửa trực tiếp (lời người kể chuyện nhập vào lời nhân vật, ghi lại cảm xúc, suy nghĩ của nhân vật).
- Tác dụng của kiểu lời văn nửa trực tiếp:
+ Giúp người kể chuyện có thể tái hiện một cách chân thực, sinh động nội tâm (cảm xúc, suy nghĩ) của nhân vật: tâm trạng đầy phấn khích của Việt khi nghe tiếng súng của quân ta và khát vọng muốn hoà mình vào trận đánh của Việt.
+ Thể hiện sự thấu hiểu, đồng điệu, đồng cảm của người kể chuyện dành cho nhân vật.
- Tác dụng của kiểu lời văn nửa trực tiếp:
+ Giúp người kể chuyện có thể tái hiện một cách chân thực, sinh động nội tâm (cảm xúc, suy nghĩ) của nhân vật: tâm trạng đầy phấn khích của Việt khi nghe tiếng súng của quân ta và khát vọng muốn hoà mình vào trận đánh của Việt.
+ Thể hiện sự thấu hiểu, đồng điệu, đồng cảm của người kể chuyện dành cho nhân vật.
Câu 3 [706566]: Tìm một chi tiết khắc hoạ nhân vật trong đoạn trích. Từ đó, phân tích đặc điểm tính cách của nhân vật được thể hiện qua chi tiết đó.
Thí sinh tự do chọn một chi tiết khắc hoạ nhân vật trong đoạn trích; đồng phân tích đặc điểm tính cách của nhân vật được thể hiện qua chi tiết đó. Chẳng hạn:
- Chi tiết Việt nhớ đến má, nghĩ lúc má đang bơi xuồng, má sẽ ghé lại, xoa đầu Việt, đánh thức Việt dậy, rồi lấy xoong cơm đi làm đồng để ở dưới xuồng lên cho Việt ăn thể hiện nỗi nhớ, tình yêu má trong Việt.
Hoặc:
- Chi tiết Việt nhớ cái cằm nhọn hoắt ra của anh Tánh, nụ cười và cái nheo mắt của anh Công mỗi lần anh động viên Việt tiến lên... khắc hoạ tình cảm đồng đội đẹp đẽ, thân thương trong Việt.
Hoặc:
- Chi tiết Việt nghĩ đến con ma cụt đầu vẫn ngồi trên cây xoài mồ côi và thằng chỏng thụt lưỡi hay nhảy nhót trong những đêm mưa ngoài vàm sông khắc hoạ nét tính cách trẻ con (hãy còn sợ ma) ở chàng chiến sĩ giải phóng quân mới lớn.
Hoặc:
- Chi tiết dù bị thương nhưng ngón cái còn lại vẫn sẵn sàng nổ súng khắc hoạ hình ảnh chiến sĩ luôn trong tư thế sẵn sàng chiến đấu.
Hoặc:
- Chi tiết Việt đã bò đi được một đoạn, cây súng đẩy đi trước, hai cùi tay lôi người theo. Việt cũng không biết rằng mình đang bò đi nữa, chính trận đánh đang gọi Việt đến. khắc hoạ khát vọng chiến đấu của chiến sĩ Việt.
...
- Chi tiết Việt nhớ đến má, nghĩ lúc má đang bơi xuồng, má sẽ ghé lại, xoa đầu Việt, đánh thức Việt dậy, rồi lấy xoong cơm đi làm đồng để ở dưới xuồng lên cho Việt ăn thể hiện nỗi nhớ, tình yêu má trong Việt.
Hoặc:
- Chi tiết Việt nhớ cái cằm nhọn hoắt ra của anh Tánh, nụ cười và cái nheo mắt của anh Công mỗi lần anh động viên Việt tiến lên... khắc hoạ tình cảm đồng đội đẹp đẽ, thân thương trong Việt.
Hoặc:
- Chi tiết Việt nghĩ đến con ma cụt đầu vẫn ngồi trên cây xoài mồ côi và thằng chỏng thụt lưỡi hay nhảy nhót trong những đêm mưa ngoài vàm sông khắc hoạ nét tính cách trẻ con (hãy còn sợ ma) ở chàng chiến sĩ giải phóng quân mới lớn.
Hoặc:
- Chi tiết dù bị thương nhưng ngón cái còn lại vẫn sẵn sàng nổ súng khắc hoạ hình ảnh chiến sĩ luôn trong tư thế sẵn sàng chiến đấu.
Hoặc:
- Chi tiết Việt đã bò đi được một đoạn, cây súng đẩy đi trước, hai cùi tay lôi người theo. Việt cũng không biết rằng mình đang bò đi nữa, chính trận đánh đang gọi Việt đến. khắc hoạ khát vọng chiến đấu của chiến sĩ Việt.
...
Câu 4 [706567]: Đoạn trích thể hiện tình cảm, thái độ nào của người viết đối với nhân vật?
Đoạn trích bộc lộ lòng yêu mến, cảm phục, ngưỡng mộ, ngợi ca của nhà văn dành cho nhân vật Việt - chàng chiến sĩ giải phóng quân trẻ tuổi.
Câu 5 [706568]: Nhận xét cảm hứng chủ đạo của đoạn trích.
- Cảm hứng chủ đạo của đoạn trích: ngợi ca phẩm chất anh hùng của chàng chiến sĩ giải phóng quân trẻ tuổi.
- Cảm hứng chủ đạo trong đoạn trích nói riêng (và tác phẩm Những đứa con trong gia đình nói chung) góp phần tô đậm tính chất anh hùng ca của văn học Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975
- Cảm hứng chủ đạo trong đoạn trích nói riêng (và tác phẩm Những đứa con trong gia đình nói chung) góp phần tô đậm tính chất anh hùng ca của văn học Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975
II. VIẾT (6,0 điểm)
Câu 6 [706569]: (2,0 điểm)
Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ), cảm nhận về vẻ đẹp của hình tượng người phụ nữ trong bài thơ sau:
MÙA HOA
(Y Phương)
Mùa hoa
Người đàn bà
Mặt đỏ phừng
Ðủ sức vác ông chồng
Chạy phăm phăm lên núi
Mùa hoa
Người đàn ông
Mệt như chiếc áo rũ
Vừa vịn rào đi vừa ngái ngủ.
Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ), cảm nhận về vẻ đẹp của hình tượng người phụ nữ trong bài thơ sau:
MÙA HOA
(Y Phương)
Mùa hoa
Người đàn bà
Mặt đỏ phừng
Ðủ sức vác ông chồng
Chạy phăm phăm lên núi
Mùa hoa
Người đàn ông
Mệt như chiếc áo rũ
Vừa vịn rào đi vừa ngái ngủ.
(Theo nhandan.vn)
Đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) cảm nhận về vẻ đẹp của hình tượng người phụ nữ trong bài thơ Mùa hoa (Y Phương) có thể được triển khai theo hướng:
- Y Phương: người dân tộc Tày, một trong những nhà thơ tiêu biểu của nền văn học Việt Nam hiện đại.
- Bài thơ Mùa hoa ngắn gọn, xinh xắn nhưng đủ để khắc hoạ đậm nét vẻ đẹp của hình tượng người phụ nữ:
+ Người phụ nữ được đặt trong bối cảnh mùa hoa - mùa xuân, mùa của sự sinh sôi nảy nở, mùa của sức sống dạt dào và cũng là mùa của cái đẹp hiện hữu.
+ Người phụ nữ hiện lên:
• trực tiếp qua các chi tiết: mặt đỏ phừng; đủ sức vác chồng/ chạy phăm phăm lên núi. Tại sao người vợ lại phải vác chồng? - Có lẽ là vì người chồng đã uống rượu say mềm, không thể tự được và người vợ không thể bỏ mặc chồng mình nằm rũ ở quán rượu bên đường, đợi tỉnh rượu rồi tự về. Chi tiết mặt đỏ phừng cùng chi tiết chạy phăm phăm vừa miêu tả sức vóc khoẻ mạnh, vẻ nhanh nhẹn của người đàn bà vừa gợi trong người đọc cảm nhận về sự tình cảm yêu thương hồn nhiên, chất phác, tận tuỵ của người vợ dành cho chồng.
• gián tiếp qua hình ảnh người chồng trong ba dòng thơ cuối cùng: Hình ảnh người đàn ông mệt rũ (vì say rượu) vừa vịn rào, vừa ngái ngủ đi nốt quãng đường còn lại để về nhà (quãng đồi núi cheo leo nhất đã có người vợ cõng vác trên vai rồi lúc anh say khướt) mang đến cảm nhận về một đời sống tinh thần thong dong, bình yên. Hẳn nhiên, phía sau cái thong dong, “mặc kệ đời” ấy chính là sự lo toan, thu vén, chu toàn của người vợ trong gia đình, là sự thấu hiểu, yêu thương, là sự tự nhận thức về bổn phận, trách nhiệm của người vợ.
+ Người phụ nữ trong bài thơ Mùa hoa của Y Phương thật đẹp. Chính chị đã hiện lên một bông hoa thật đặc biệt của những “mùa hoa”.
<*> Tham khảo bài viết:
Phụ nữ thường được ví như hoa ở vào độ xuân sắc đắm say mật ngọt. Những mùa yêu chính là mùa hoa đẹp như thế. Họ đẹp nhất khi yêu, nồng nàn, mãnh liệt nhất khi yêu và cũng đầy cả tin khờ dại. Hẳn nhiều người đã từng biết đến những câu thơ viết về điều đó hay như thế này:
Mùa hoa
Mùa đàn bà
Mặt đỏ phừng
Thừa sức vác ông chồng
Chạy phăm phăm lên núi.
Thú thực, nhà thơ đã từng bỏ lại đường quan lộ đang hanh thông để chuyên chú vào văn học nghệ thuật, vào việc viết về tình yêu và vẻ đẹp của người phụ nữ. Ông làm Chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật Cao Bằng rồi Uỷ viên Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam. Từ Cao Bằng về Hà Nội, cuộc sống có khá nhiều biến động, đổi thay nhưng con người và thơ vẫn vẹn nguyên một ngọn lửa ấy. Trong làng thơ Việt Nam, có không ít thi sĩ viết về tình yêu, về vẻ đẹp của người phụ nữ. Nhưng, ở góc độ hiểu phụ nữ, yêu phụ nữ từ những bếp núc lo toan bình dị nhất thì khó ai vượt qua được Y Phương: “Em là củi/ Đun đời anh chín thơm/ Em là nước/ Tắm đời anh sạch thơm/ Em là cơm/ Suốt đời ăn/ Vẫn ... đói” (Cơm). Những củi, lửa, cơm, nước... tưởng sẽ dập tắt ngọn lửa tình yêu, biến những rung cảm lãng mạn thành bình thường, thậm chí là tầm thường nhất trong hôn nhân. Nhưng không, với thi sĩ, người đàn ông dẫu mạnh mẽ, can đảm vẫn là bé nhỏ, đơn lẻ. Chỉ khi họ có được người vợ, soi mình vào yêu thương, thanh lọc mình trong tình yêu hạnh phúc gia đình họ mới là chính mình, mới là toàn vẹn. Ông từng viết: “Có em về/ Anh mất dần thói xấu/ Biết ăn năn trước lúc bình minh/ Khẩu súng trường qua cuộc chiến tranh/ Anh bắn vỡ tảng ngực thằng xâm lược” (Em - Cơn mưa rào - Ngọn lửa). Thế đó, người vợ là sự thanh lọc, là phép màu, là tấm gương, là dòng suối nguồn tươi mát. Nào ai hạnh phúc như người đàn ông có vợ, như thể có báu vật trong nhà.
Vẻ đẹp của người phụ nữ trong mắt của chàng thi sĩ Tày đâu chỉ là hình thức bên ngoài mà còn ở sự trân trọng, là giá trị của cô gái và lòng quyết yêu, sự thật lòng của chàng trai: “Mưa ngập đường anh vẫn tới/ Hổ báo đón đường anh vẫn tới/ Đến nơi có một Tình yêu lớn”. Để rồi, đổi lại là hơi ấm từ ngọn lửa hạnh phúc gia đình. Chẳng ai “nịnh vợ” khéo như Y Phương, đơn giản như Y Phương mà vẫn sâu sắc: “Em là mực trong ngòi/ Là cơm trong nồi/ Là gà gáy/ Cũng là quả ớt”. “Gia vị” của tình yêu là thế đó. Có đắng cay, ngọt bùi, nhưng tất cả mới làm nên bữa tiệc của hạnh phúc. Những gì bền lâu thì không đơn điệu, một chiều, có tương sinh, tương khắc, hài hoà bổ khuyết cho nhau.
Nhưng trong cuộc đời không chỉ có những niềm hạnh phúc viên mãn mà còn có cả những tiếc nuối. Bản thân trong mỗi con người chúng ta cũng đầy ắp những dở dang, nhức nhối của kỷ niệm sau va vấp. Người ta yêu thì không đến được, người yêu ta đã phải lấy chồng. Nói như nhà thơ Thuận Hữu “Ai cũng có những phút giây ngoài chồng ngoài vợ”, với nhà thơ Y Phương, “ngoài chồng ngoài vợ” ấy, “một nửa” ấy trong thơ cũng đau đáu, thiết tha, như cách ông đặt tên cho bài thơ Biết gọi tình yêu là gì?: “Nào/ khuya rồi/ Em về đi/ Chồng và con đang chờ/ Nào/ Sắp sáng rồi/ Sương rụng ướt mà không hề lạnh/ Co đôi vai lại/ Ấm rất lâu/ Vai mình còn hơi người/ Tình yêu là gì, trời ơi!”. Ai cũng hiểu, có thể chẳng có cuộc gặp nào, sương lạnh, đêm khuya nào nhưng trong lòng vẫn thấy bờ vai ấm. Chỉ là gặp nhau trong tâm tưởng vẫn quan tâm, vẫn nhớ đến nhau. Không hề xảy ra mà vẫn cảm nhận được sự lưu luyến lúc chia tay mới thật thấm thía. Bất giác, người viết nhớ đến bài thơ của một cây bút dân tộc Mường, cố nhà văn Bùi Minh Chức: “Mới nhắc đến nhau đã là kỷ niệm/ Dù rằng vẫn bến, dù rằng vẫn sông” (Rằm này trăng sau).
Y Phương đi xa khỏi cái làng nhỏ trên núi để trở về yêu hơn quê hương mình. Quê hương với ông là mẹ-người phụ nữ thiêng liêng liêng của đời ông: “Con là con trai của mẹ/Người đàn ông ở làng Hiếu Lễ”; “Ơi cái làng của mẹ sinh con/Có ngôi nhà xây bằng đá hộc”… Đi đâu, lớn đến nhường nào, thành ông nọ, bà kia thì vẫn cứ là “con của mẹ”, vẫn chưa ra khỏi được vòng tay yêu thương của mẹ. Mẹ là ngôi nhà lớn nhất, vĩ đại nhất và luôn bền vững nhất.
Y Phương viết về mẹ bằng một sự phản tỉnh cao độ. Nhà thơ không chỉ biết thương mẹ, nghe mẹ mà còn ân hận, mà suy xét cái lẽ hiếu thuận ở đời. Đã có mấy người ngồi ngẫm ra lời mẹ như thế đâu:
Con ơi
Mẹ yêu con như nắng
Nắng chẳng bao giờ thừa
Nhưng con ơi
Con thương mẹ bằng mưa
Mưa một ngày đã nhạt
Mưa cả tháng thì sao.
Đúng là, trước mẹ ta nhỏ bé, ta mãi vụng về. Rồi nhớ lại ngày xưa mẹ ốm, chính là lúc tình cảm gia đình đầm ấm và hạnh phúc nhất: “Trưa nay Mẹ ốm/ Chi gắp thịt cho Mẹ/ Em gắp thịt cho Mẹ/ Chị rủ em ăn toàn rau” (Mẹ ốm). Những câu thơ ông viết đơn giản như lời người dân làng Hiếu Lễ, như lời đứa trẻ mà đặt cạnh nhau, chúng tạo nên một hiệu ứng mạnh mẽ trong lòng người đọc. Mẹ là mạch nguồn của thơ. Mẹ là nguồn cảm hứng bất tận và cũng là lẽ sống.
Thương vợ, thương mẹ, với nhà thơ Y Phương còn chưa đủ. Tất cả những chiêm nghiệm, thấm thía ông dồn vào tình yêu với con gái. Người phụ nữ bé nhỏ, đại diện của phái đẹp mang gen của thi nhân. Nào là:
Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười
Người đồng mình yêu lắm con ơi
Một ngày tháng Giêng năm Nhâm Dần 2022, khi “Tiếng hát tháng Giêng” (như tên một bài thơ của ông) vừa cất lên trên quê hương ông, nhà thơ Y Phương đột ngột ra đi trong sự bàng hoàng, luyến thương của mọi người. Một người thơ yêu phái đẹp, yêu cái đẹp, một thi sĩ của tình yêu đã cưỡi hạc về cõi tiên, để lại cho đời những câu thơ mà hôm nay và cho đến mai sau vẫn còn hơi ấm như lời thơ ông viết: “câu hát này thiêng liêng lắm chứ/hát bây giờ còn đề hát mai sau”.
- Y Phương: người dân tộc Tày, một trong những nhà thơ tiêu biểu của nền văn học Việt Nam hiện đại.
- Bài thơ Mùa hoa ngắn gọn, xinh xắn nhưng đủ để khắc hoạ đậm nét vẻ đẹp của hình tượng người phụ nữ:
+ Người phụ nữ được đặt trong bối cảnh mùa hoa - mùa xuân, mùa của sự sinh sôi nảy nở, mùa của sức sống dạt dào và cũng là mùa của cái đẹp hiện hữu.
+ Người phụ nữ hiện lên:
• trực tiếp qua các chi tiết: mặt đỏ phừng; đủ sức vác chồng/ chạy phăm phăm lên núi. Tại sao người vợ lại phải vác chồng? - Có lẽ là vì người chồng đã uống rượu say mềm, không thể tự được và người vợ không thể bỏ mặc chồng mình nằm rũ ở quán rượu bên đường, đợi tỉnh rượu rồi tự về. Chi tiết mặt đỏ phừng cùng chi tiết chạy phăm phăm vừa miêu tả sức vóc khoẻ mạnh, vẻ nhanh nhẹn của người đàn bà vừa gợi trong người đọc cảm nhận về sự tình cảm yêu thương hồn nhiên, chất phác, tận tuỵ của người vợ dành cho chồng.
• gián tiếp qua hình ảnh người chồng trong ba dòng thơ cuối cùng: Hình ảnh người đàn ông mệt rũ (vì say rượu) vừa vịn rào, vừa ngái ngủ đi nốt quãng đường còn lại để về nhà (quãng đồi núi cheo leo nhất đã có người vợ cõng vác trên vai rồi lúc anh say khướt) mang đến cảm nhận về một đời sống tinh thần thong dong, bình yên. Hẳn nhiên, phía sau cái thong dong, “mặc kệ đời” ấy chính là sự lo toan, thu vén, chu toàn của người vợ trong gia đình, là sự thấu hiểu, yêu thương, là sự tự nhận thức về bổn phận, trách nhiệm của người vợ.
+ Người phụ nữ trong bài thơ Mùa hoa của Y Phương thật đẹp. Chính chị đã hiện lên một bông hoa thật đặc biệt của những “mùa hoa”.
<*> Tham khảo bài viết:
Phụ nữ thường được ví như hoa ở vào độ xuân sắc đắm say mật ngọt. Những mùa yêu chính là mùa hoa đẹp như thế. Họ đẹp nhất khi yêu, nồng nàn, mãnh liệt nhất khi yêu và cũng đầy cả tin khờ dại. Hẳn nhiều người đã từng biết đến những câu thơ viết về điều đó hay như thế này:
Mùa hoa
Mùa đàn bà
Mặt đỏ phừng
Thừa sức vác ông chồng
Chạy phăm phăm lên núi.
(Mùa hoa)
Đó là thơ của Y Phương - nhà thơ dân tộc Tày có gương mặt nam tính, lãng tử. Ông tên thật là Hứa Vĩnh Sước, sinh năm 1948 ở làng Hiếu Lễ, xã Lăng Hiếu, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng. Tại sao lại là Y Phương mà không phải là một bút danh nào khác? Ông lý giải về bút danh của mình bằng thơ: “Nhưng rồi anh tự đặt cho mình cái tên/ Ấm nóng/ Rạo rực một thời…/ Và bây giờ/ Khi gọi cái tên ấy lên/ Con đường đang đi bỗng mở ra”. Cái tên gắn với mối tình đẹp của thời trai trẻ. Nhưng nó không u sầu, bi luỵ khép lại một quá khứ mà mở ra một con đường mới. Bởi thế, với nhà thơ Y Phương, thơ chính là tình yêu, một thế giới hoàn toàn mới mẻ, lạ lẫm, nơi mà ông gặt hái được những thành công.Thú thực, nhà thơ đã từng bỏ lại đường quan lộ đang hanh thông để chuyên chú vào văn học nghệ thuật, vào việc viết về tình yêu và vẻ đẹp của người phụ nữ. Ông làm Chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật Cao Bằng rồi Uỷ viên Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam. Từ Cao Bằng về Hà Nội, cuộc sống có khá nhiều biến động, đổi thay nhưng con người và thơ vẫn vẹn nguyên một ngọn lửa ấy. Trong làng thơ Việt Nam, có không ít thi sĩ viết về tình yêu, về vẻ đẹp của người phụ nữ. Nhưng, ở góc độ hiểu phụ nữ, yêu phụ nữ từ những bếp núc lo toan bình dị nhất thì khó ai vượt qua được Y Phương: “Em là củi/ Đun đời anh chín thơm/ Em là nước/ Tắm đời anh sạch thơm/ Em là cơm/ Suốt đời ăn/ Vẫn ... đói” (Cơm). Những củi, lửa, cơm, nước... tưởng sẽ dập tắt ngọn lửa tình yêu, biến những rung cảm lãng mạn thành bình thường, thậm chí là tầm thường nhất trong hôn nhân. Nhưng không, với thi sĩ, người đàn ông dẫu mạnh mẽ, can đảm vẫn là bé nhỏ, đơn lẻ. Chỉ khi họ có được người vợ, soi mình vào yêu thương, thanh lọc mình trong tình yêu hạnh phúc gia đình họ mới là chính mình, mới là toàn vẹn. Ông từng viết: “Có em về/ Anh mất dần thói xấu/ Biết ăn năn trước lúc bình minh/ Khẩu súng trường qua cuộc chiến tranh/ Anh bắn vỡ tảng ngực thằng xâm lược” (Em - Cơn mưa rào - Ngọn lửa). Thế đó, người vợ là sự thanh lọc, là phép màu, là tấm gương, là dòng suối nguồn tươi mát. Nào ai hạnh phúc như người đàn ông có vợ, như thể có báu vật trong nhà.
Vẻ đẹp của người phụ nữ trong mắt của chàng thi sĩ Tày đâu chỉ là hình thức bên ngoài mà còn ở sự trân trọng, là giá trị của cô gái và lòng quyết yêu, sự thật lòng của chàng trai: “Mưa ngập đường anh vẫn tới/ Hổ báo đón đường anh vẫn tới/ Đến nơi có một Tình yêu lớn”. Để rồi, đổi lại là hơi ấm từ ngọn lửa hạnh phúc gia đình. Chẳng ai “nịnh vợ” khéo như Y Phương, đơn giản như Y Phương mà vẫn sâu sắc: “Em là mực trong ngòi/ Là cơm trong nồi/ Là gà gáy/ Cũng là quả ớt”. “Gia vị” của tình yêu là thế đó. Có đắng cay, ngọt bùi, nhưng tất cả mới làm nên bữa tiệc của hạnh phúc. Những gì bền lâu thì không đơn điệu, một chiều, có tương sinh, tương khắc, hài hoà bổ khuyết cho nhau.
Nhưng trong cuộc đời không chỉ có những niềm hạnh phúc viên mãn mà còn có cả những tiếc nuối. Bản thân trong mỗi con người chúng ta cũng đầy ắp những dở dang, nhức nhối của kỷ niệm sau va vấp. Người ta yêu thì không đến được, người yêu ta đã phải lấy chồng. Nói như nhà thơ Thuận Hữu “Ai cũng có những phút giây ngoài chồng ngoài vợ”, với nhà thơ Y Phương, “ngoài chồng ngoài vợ” ấy, “một nửa” ấy trong thơ cũng đau đáu, thiết tha, như cách ông đặt tên cho bài thơ Biết gọi tình yêu là gì?: “Nào/ khuya rồi/ Em về đi/ Chồng và con đang chờ/ Nào/ Sắp sáng rồi/ Sương rụng ướt mà không hề lạnh/ Co đôi vai lại/ Ấm rất lâu/ Vai mình còn hơi người/ Tình yêu là gì, trời ơi!”. Ai cũng hiểu, có thể chẳng có cuộc gặp nào, sương lạnh, đêm khuya nào nhưng trong lòng vẫn thấy bờ vai ấm. Chỉ là gặp nhau trong tâm tưởng vẫn quan tâm, vẫn nhớ đến nhau. Không hề xảy ra mà vẫn cảm nhận được sự lưu luyến lúc chia tay mới thật thấm thía. Bất giác, người viết nhớ đến bài thơ của một cây bút dân tộc Mường, cố nhà văn Bùi Minh Chức: “Mới nhắc đến nhau đã là kỷ niệm/ Dù rằng vẫn bến, dù rằng vẫn sông” (Rằm này trăng sau).
Y Phương đi xa khỏi cái làng nhỏ trên núi để trở về yêu hơn quê hương mình. Quê hương với ông là mẹ-người phụ nữ thiêng liêng liêng của đời ông: “Con là con trai của mẹ/Người đàn ông ở làng Hiếu Lễ”; “Ơi cái làng của mẹ sinh con/Có ngôi nhà xây bằng đá hộc”… Đi đâu, lớn đến nhường nào, thành ông nọ, bà kia thì vẫn cứ là “con của mẹ”, vẫn chưa ra khỏi được vòng tay yêu thương của mẹ. Mẹ là ngôi nhà lớn nhất, vĩ đại nhất và luôn bền vững nhất.
Y Phương viết về mẹ bằng một sự phản tỉnh cao độ. Nhà thơ không chỉ biết thương mẹ, nghe mẹ mà còn ân hận, mà suy xét cái lẽ hiếu thuận ở đời. Đã có mấy người ngồi ngẫm ra lời mẹ như thế đâu:
Con ơi
Mẹ yêu con như nắng
Nắng chẳng bao giờ thừa
Nhưng con ơi
Con thương mẹ bằng mưa
Mưa một ngày đã nhạt
Mưa cả tháng thì sao.
Đúng là, trước mẹ ta nhỏ bé, ta mãi vụng về. Rồi nhớ lại ngày xưa mẹ ốm, chính là lúc tình cảm gia đình đầm ấm và hạnh phúc nhất: “Trưa nay Mẹ ốm/ Chi gắp thịt cho Mẹ/ Em gắp thịt cho Mẹ/ Chị rủ em ăn toàn rau” (Mẹ ốm). Những câu thơ ông viết đơn giản như lời người dân làng Hiếu Lễ, như lời đứa trẻ mà đặt cạnh nhau, chúng tạo nên một hiệu ứng mạnh mẽ trong lòng người đọc. Mẹ là mạch nguồn của thơ. Mẹ là nguồn cảm hứng bất tận và cũng là lẽ sống.
Thương vợ, thương mẹ, với nhà thơ Y Phương còn chưa đủ. Tất cả những chiêm nghiệm, thấm thía ông dồn vào tình yêu với con gái. Người phụ nữ bé nhỏ, đại diện của phái đẹp mang gen của thi nhân. Nào là:
Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười
Người đồng mình yêu lắm con ơi
(Nói với con)
Những câu thơ ấy đã đưa tên tuổi ông xuất hiện trong trang sách giáo khoa của các em học sinh phổ thông. Các thày cô giáo và các em học sinh đã đón nhận và yêu quý thơ ông, một giọng thơ mới mẻ, hiện đại những vẫn mang bản sắc Tày và tâm thức của người miền núi.Một ngày tháng Giêng năm Nhâm Dần 2022, khi “Tiếng hát tháng Giêng” (như tên một bài thơ của ông) vừa cất lên trên quê hương ông, nhà thơ Y Phương đột ngột ra đi trong sự bàng hoàng, luyến thương của mọi người. Một người thơ yêu phái đẹp, yêu cái đẹp, một thi sĩ của tình yêu đã cưỡi hạc về cõi tiên, để lại cho đời những câu thơ mà hôm nay và cho đến mai sau vẫn còn hơi ấm như lời thơ ông viết: “câu hát này thiêng liêng lắm chứ/hát bây giờ còn đề hát mai sau”.
Câu 7 [706570]: (4,0 điểm)
Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ), trình bày suy nghĩ của anh/chị về quan niệm hạnh phúc của những người trẻ hôm nay.
Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ), trình bày suy nghĩ của anh/chị về quan niệm hạnh phúc của những người trẻ hôm nay.
Bài văn trình bày suy nghĩ về quan niệm hạnh phúc của những người trẻ hôm nay có thể được triển khai nhiều cách. Song cần bảo đảm các ý:
1. Mở bài (gián tiếp)
- Dẫn dắt vấn đề
- Nêu vấn đề
2. Thân bài
- Giải thích ngắn gọn “hạnh phúc”: trạng thái sung sướng vì cảm thấy hoàn toàn đạt được ý nguyện.
Trạng thái này không giống nhau ở mỗi người vì mỗi người có quan niệm khác nhau về hạnh phúc và có tiêu chí riêng trong việc đánh giá mức độ hạnh phúc của bản thân. Có người coi việc có nhiều của cải là hạnh phúc. Có người cảm thấy có địa vị trong xã hội, được nhiều người biết đến là hạnh phúc. Có người lại chỉ tìm thấy hạnh phúc trong cuộc sống lặng lẽ, bình yên...
Tuy nhiên, thế giới có các chỉ số để có thể đo lường về mức độ hạnh phúc. Theo đó, đánh giá về hạnh phúc cơ bản dựa vào các chỉ số như tuổi thọ, sức khoẻ, thu nhập bình quân đầu người, hỗ trợ xã hội trong thời kì khó khăn, mức độ tham nhũng và lòng tin xã hội. Cùng với đó là độ rộng lượng của cộng đồng và người dân được tự do đưa ra các quyết định quan trọng trong cuộc sống. - Bình luận quan niệm hạnh phúc của những người trẻ hôm nay:
+ Thời đại ngày nay:
• Thế giới: thời đại phát triển của khoa học công nghệ hiện đại, trong đó sự phát triển của trí tuệ nhân tạo (AI) mang lại nhiều cơ hội và thách thức cho giới trẻ. Nhiều ngành nghề, công việc mất đi, những ngành nghề mới xuất hiện đòi hỏi người trẻ phải có kiến thức, kĩ năng ở mức độ, trình độ cao.
Nhiều vấn đề mang tính toàn cầu cũng buộc người trẻ hôm nay phải nghiêm túc đối diện, như: vấn đề ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu, dịch bệnh, chiến tranh,...
• Ở Việt Nam, thu nhập bình quân đầu người ở nước ta dẫu tăng qua các năm nhưng vẫn còn ở mức thấp so với thế giới; những chính sách hỗ trợ xã hội ngày càng được cải thiện; công cuộc chống tham nhũng của Đảng và Nhà nước ngày càng tạo được niềm tin trong nhân dân.
⟶ Tất cả những vấn đề này đều ảnh hưởng đến các chỉ số của hạnh phúc của mỗi quốc gia nói chung và thế giới nói riêng.
+ Trước đây, trong bối cảnh đất nước có chiến tranh, người trẻ coi độc lập, hoà bình của đất nước là một trong những tiêu chí lớn lao của hạnh phúc. Gắn hạnh phúc cá nhân với hạnh phúc của dân tộc, họ sẵn sàng hi sinh bản thân để giành lại độc lập, tự do cho dân tộc và nhân dân.
+ Quan niệm hạnh phúc của những người trẻ hôm nay:
• Ngày nay, trong bối cảnh thời đại hiện đại hoà bình, phát triển, rất nhiều người trẻ vẫn có quan niệm sâu sắc về hạnh phúc:
o Họ là những người trẻ có lí tưởng, biết gắn hạnh phúc cá nhân với hạnh phúc của cộng đồng, họ sẵn sàng dâng hiến sức lực, nhiệt huyết, trí tuệ của mình cho cộng đồng, đất nước (Ví dụ những tấm gương ra sức học tập, tích cực tham gia vào các công tác xã hội, các dự án cộng đồng như bảo vệ môi trường, chống biến đổi khí hậu, các chương trình thiện nguyện,...). Họ hạnh phúc khi được hoà mình vào tập thể, được dâng hiến, cống hiến cho xã hội.
o Họ là những người trẻ cảm thấy hạnh phúc trong hành trình khám phá bản thân, dám đặt mình vào những thách thức để khám phá mình, coi trọng những trải nghiệm giúp mình trưởng thành hơn. Những người trẻ này dám bước ra khỏi vùng an toàn, dám “thử sai” để có được những trải nghiệm thú vị trong đời sống. (Ví dụ nhiều người trẻ sẵn sàng nghỉ việc ở công ty để tự mình khởi nghiệp bằng những công việc phù hợp hơn với bản thân; nhiều người bỏ phố về quê lập nghiệp. Quyết định táo bạo này khiến nhiều người trẻ thành công, họ không chỉ có thu nhập tốt mà còn giúp đỡ nhiều người dân ở quê hương mình hay các vùng quê có công ăn việc làm ổn định.)...
• Bên cạnh những người trẻ coi trọng giá trị hạnh phúc thực sự, vẫn có những người trẻ không biết trân trọng sự sống. Họ chọn lối sống buông thả, để bản thân đắm chìm vào những thứ vô bổ như các chất gây nghiện (ma tuý, thuốc lá điện tử,...), trò chơi điện tử,... hay thu mình trong thế giới ảo của mạng xã hội và xây lưng với cuộc sống thực tế... (Nhiều nghiên cứu khoa học cho thấy người trẻ hôm nay đang phải đối mặt với các vấn đề thuộc về sức khoẻ tâm thần, nhiều người trẻ cảm thấy bất an. Bị cô lập bởi điện thoại thông minh, máy tính, mạng xã hội, họ hiếm khi ra ngoài, không chơi với bạn bè, không tiếp xúc giao lưu với thiên nhiên, với xã hội,... và dần dần mất đi cảm giác hạnh phúc thực sự.
- Mở rộng: Để người trẻ hôm nay ngày càng hạnh phúc:
+ Mỗi người trẻ cần nhận thức rõ cảm giác hạnh phúc sẽ mang lại ý nghĩa cho sự tồn tại của chúng ta. Sống hạnh phúc cũng là cách để chúng ta góp phần duy trì sự sống tươi đẹp trên trái đất. Thêm nữa, cũng cần nhận thấy không thể có hạnh phúc trọn vẹn nếu chúng ta không biết sống vì cộng đồng, không biết gắn hạnh phúc cá nhân với cộng đồng.
+ Hạnh phúc không tự đến nếu chúng ta không nỗ lực hành động để có nó. Người trẻ nên không ngừng rèn luyện, trau dồi để có tâm - trí - lực tốt nhất để lao động và thụ hưởng thành quả tốt đẹp mình tạo ra.
3. Kết bài
Rút ra bài học nhận thức và hành động
1. Mở bài (gián tiếp)
- Dẫn dắt vấn đề
- Nêu vấn đề
2. Thân bài
- Giải thích ngắn gọn “hạnh phúc”: trạng thái sung sướng vì cảm thấy hoàn toàn đạt được ý nguyện.
Trạng thái này không giống nhau ở mỗi người vì mỗi người có quan niệm khác nhau về hạnh phúc và có tiêu chí riêng trong việc đánh giá mức độ hạnh phúc của bản thân. Có người coi việc có nhiều của cải là hạnh phúc. Có người cảm thấy có địa vị trong xã hội, được nhiều người biết đến là hạnh phúc. Có người lại chỉ tìm thấy hạnh phúc trong cuộc sống lặng lẽ, bình yên...
Tuy nhiên, thế giới có các chỉ số để có thể đo lường về mức độ hạnh phúc. Theo đó, đánh giá về hạnh phúc cơ bản dựa vào các chỉ số như tuổi thọ, sức khoẻ, thu nhập bình quân đầu người, hỗ trợ xã hội trong thời kì khó khăn, mức độ tham nhũng và lòng tin xã hội. Cùng với đó là độ rộng lượng của cộng đồng và người dân được tự do đưa ra các quyết định quan trọng trong cuộc sống. - Bình luận quan niệm hạnh phúc của những người trẻ hôm nay:
+ Thời đại ngày nay:
• Thế giới: thời đại phát triển của khoa học công nghệ hiện đại, trong đó sự phát triển của trí tuệ nhân tạo (AI) mang lại nhiều cơ hội và thách thức cho giới trẻ. Nhiều ngành nghề, công việc mất đi, những ngành nghề mới xuất hiện đòi hỏi người trẻ phải có kiến thức, kĩ năng ở mức độ, trình độ cao.
Nhiều vấn đề mang tính toàn cầu cũng buộc người trẻ hôm nay phải nghiêm túc đối diện, như: vấn đề ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu, dịch bệnh, chiến tranh,...
• Ở Việt Nam, thu nhập bình quân đầu người ở nước ta dẫu tăng qua các năm nhưng vẫn còn ở mức thấp so với thế giới; những chính sách hỗ trợ xã hội ngày càng được cải thiện; công cuộc chống tham nhũng của Đảng và Nhà nước ngày càng tạo được niềm tin trong nhân dân.
⟶ Tất cả những vấn đề này đều ảnh hưởng đến các chỉ số của hạnh phúc của mỗi quốc gia nói chung và thế giới nói riêng.
+ Trước đây, trong bối cảnh đất nước có chiến tranh, người trẻ coi độc lập, hoà bình của đất nước là một trong những tiêu chí lớn lao của hạnh phúc. Gắn hạnh phúc cá nhân với hạnh phúc của dân tộc, họ sẵn sàng hi sinh bản thân để giành lại độc lập, tự do cho dân tộc và nhân dân.
+ Quan niệm hạnh phúc của những người trẻ hôm nay:
• Ngày nay, trong bối cảnh thời đại hiện đại hoà bình, phát triển, rất nhiều người trẻ vẫn có quan niệm sâu sắc về hạnh phúc:
o Họ là những người trẻ có lí tưởng, biết gắn hạnh phúc cá nhân với hạnh phúc của cộng đồng, họ sẵn sàng dâng hiến sức lực, nhiệt huyết, trí tuệ của mình cho cộng đồng, đất nước (Ví dụ những tấm gương ra sức học tập, tích cực tham gia vào các công tác xã hội, các dự án cộng đồng như bảo vệ môi trường, chống biến đổi khí hậu, các chương trình thiện nguyện,...). Họ hạnh phúc khi được hoà mình vào tập thể, được dâng hiến, cống hiến cho xã hội.
o Họ là những người trẻ cảm thấy hạnh phúc trong hành trình khám phá bản thân, dám đặt mình vào những thách thức để khám phá mình, coi trọng những trải nghiệm giúp mình trưởng thành hơn. Những người trẻ này dám bước ra khỏi vùng an toàn, dám “thử sai” để có được những trải nghiệm thú vị trong đời sống. (Ví dụ nhiều người trẻ sẵn sàng nghỉ việc ở công ty để tự mình khởi nghiệp bằng những công việc phù hợp hơn với bản thân; nhiều người bỏ phố về quê lập nghiệp. Quyết định táo bạo này khiến nhiều người trẻ thành công, họ không chỉ có thu nhập tốt mà còn giúp đỡ nhiều người dân ở quê hương mình hay các vùng quê có công ăn việc làm ổn định.)...
• Bên cạnh những người trẻ coi trọng giá trị hạnh phúc thực sự, vẫn có những người trẻ không biết trân trọng sự sống. Họ chọn lối sống buông thả, để bản thân đắm chìm vào những thứ vô bổ như các chất gây nghiện (ma tuý, thuốc lá điện tử,...), trò chơi điện tử,... hay thu mình trong thế giới ảo của mạng xã hội và xây lưng với cuộc sống thực tế... (Nhiều nghiên cứu khoa học cho thấy người trẻ hôm nay đang phải đối mặt với các vấn đề thuộc về sức khoẻ tâm thần, nhiều người trẻ cảm thấy bất an. Bị cô lập bởi điện thoại thông minh, máy tính, mạng xã hội, họ hiếm khi ra ngoài, không chơi với bạn bè, không tiếp xúc giao lưu với thiên nhiên, với xã hội,... và dần dần mất đi cảm giác hạnh phúc thực sự.
- Mở rộng: Để người trẻ hôm nay ngày càng hạnh phúc:
+ Mỗi người trẻ cần nhận thức rõ cảm giác hạnh phúc sẽ mang lại ý nghĩa cho sự tồn tại của chúng ta. Sống hạnh phúc cũng là cách để chúng ta góp phần duy trì sự sống tươi đẹp trên trái đất. Thêm nữa, cũng cần nhận thấy không thể có hạnh phúc trọn vẹn nếu chúng ta không biết sống vì cộng đồng, không biết gắn hạnh phúc cá nhân với cộng đồng.
+ Hạnh phúc không tự đến nếu chúng ta không nỗ lực hành động để có nó. Người trẻ nên không ngừng rèn luyện, trau dồi để có tâm - trí - lực tốt nhất để lao động và thụ hưởng thành quả tốt đẹp mình tạo ra.
3. Kết bài
Rút ra bài học nhận thức và hành động