I. ĐỌC HIỂU (4,0 điểm)
Đọc văn bản:
Người chồng là tay thợ săn cự phách. Khẩu súng kíp trong tay lão như có mắt. Mỗi khi khẩu súng giơ lên, ít khi có chim chóc hoặc thú rừng nào thoát chết. Đằng sau nhà lão, lông chim, xương thú chất đầy thành đống. Những đống lông chim xơ xác đen xỉn như màu mực tàu, còn những đống xương thú màu đá vôi thì lốm đốm những vệt nước tủy vàng khè, hôi hám. Những đống ấy to như những cái mả. Lão thợ săn như là hiện thân thần Chết của rừng. Chim chóc và thú rừng sợ hãi lão. Cánh thợ săn ở Hua Tát vừa ghen tị, vừa bất bình với lão. Lão không tha bất cứ con vật nào trong tầm súng của mình. Có người kể rằng đã tận mắt nhìn thấy lão bắn chết một con công đang múa. Một con công đang múa nhé: cái đầu cong như lá lúa, cái đuôi xòe nửa vòng cung với đủ màu sắc, tia nắng mặt trời hắt ánh lửa lấp lánh như vàng, đôi chân kheo khéo lượn vòng. Chỉ có tình yêu thì mới lượn vòng tinh tế như thế. Con công đang múa, thế mà - “Đùng” - khẩu súng trong tay lão già giật lên, phụt ra một lưỡi lửa đỏ. Con công ngã gục, cái cánh có ánh cầu vồng ngũ sắc nhòe máu. Vợ lão già đến, khô đét, đen ngòm, âm thầm nhặt con công cho vào cái lếp sau lưng.
Tuy vậy, suốt đời lão già chỉ săn được những con chim, con thú bình thường. Lão già chưa bao giờ săn được con thú lớn ba bốn tạ thịt. Khẩu súng của lão chỉ bắn được những con vật nhỏ ngu ngốc. Đấy chính là điều lão già khổ tâm, dằn vặt.
Cả bản Hua Tát xa lánh vợ chồng lão, không ai nói chuyện, chơi bời với gia đình lão. Nhìn thấy vợ chồng lão, người ta tránh ngoắt đi. Cứ thế, lão thợ săn sống cô đơn bên người vợ âm thầm.
Cuối năm ấy, ở Hua Tát động rừng, cây cối xơ xác, chim chóc trốn biệt, không có dấu chân một con thú nào trong rừng. Chưa bao giờ người Hua Tát sống vất vả đến thế. Người ta đồn là Then bắt đầu trừng phạt. Lão thợ săn ngụ cư kiếm ăn cũng rất khó khăn. Vợ chồng lão lang thang khắp rừng. Lần đầu tiên trong đời lão già gặp phải cảnh này. Ba tuần trăng, khẩu súng của lão không hề được nổ. Lão già dậy từ gà gáy canh ba vác súng đi đến tối mịt.
Người vợ gầy của lão không còn đủ sức đi theo chồng nữa. Mụ ở nhà nhóm lửa chờ đợi. Ngọn lửa mụ nhóm như có ma ám, không đỏ mà lại xanh lét như mắt chó sói.
Lần ấy lão già đi vắng cả tuần liền. Người lão mệt lả. Đầu gối lão chùn xuống, các bắp thịt nhão ra tưởng chừng có thể dùng tay bấu được như bấu những con vắt nhẽo bết máu. Lão đã lết khắp nơi mà không gặp gì. Đến một con chim sâu, thậm chí một con bướm lão cũng không thấy. Lão hoang mang sợ hãi. Then đã trừng phạt thế gian như lời người ta đồn đại hay chăng?
Cuối cùng, mệt lả, lão già kiệt sức phải lết về nhà. Đến con suối đầu bản, lão dừng lại nhìn về nhà mình. Nhà lão có ánh lửa, cái ánh lửa xanh lét, chắc là vợ lão vẫn thức đợi chồng. Lão nhắm nghiền đôi mắt đục và sâu hoắm lại. Ngẫm nghĩ một lát, lão lộn lại rừng. Mũi lão đã đánh hơi thấy mùi thú... Lão gặp may thật. Lão đã nhìn thấy nó. Cái con công ấy đang múa. Kìa, đôi chân con công di chuyển nhẹ nhàng về phía bên phải, cái đuôi xòe thành đường tròn lại dịch về phía bên trái, cái ánh xanh gay gắt trên túm lông đầu của nó mới rực rỡ làm sao! Lão già giương súng lên: “Đùng!” Phát súng nổ. Lão nghe thấy tiếng rú thất thanh. Lão chạy lại con thú bị bắn ngã. Đấy là vợ lão. Mụ đi ra rừng đợi lão, tay mụ còn cầm bộ lông chim công.
Lão thợ săn nằm sấp xuống, úp mặt vào vũng máu trên lớp lá mục nồng nồng, ngái và hoi như mùi chuột.
Miệng lão hộc lên như tiếng lợn lòi. Lão nằm thế rất lâu. Mây đen sà xuống thấp, khu rừng tối sẫm, nóng hâm hấp như da người sốt. Gần sáng, lão già bỗng đứng phắt dậy nhanh như con sóc. Lão nảy ý định lấy xác vợ lão làm mồi để săn con thú, con thú lớn nhất đời mình. Lão nằm trong bụi cây gần cái xác thối rữa của vợ lão một sải tay, đạn lên nòng, khắc khoải chờ đợi. Nhưng Then đã trừng phạt lão. Không có con thú nào đến với lão, chỉ có cái chết đến với lão.
Ba ngày sau, người ta lôi cái xác còng queo của lão ra khỏi bụi cây. Một vết đạn xuyên qua trán lão. Lão đã bắn được con thú lớn nhất đời mình.
CON THÚ LỚN NHẤT
(Nguyễn Huy Thiệp)
Ngày ấy, ở Hua Tát có một gia đình ngụ cư không biết ở mường nào chuyển đến. Họ dựng nhà ở ngoài rìa bản, chỗ gần rừng ma. Nhà ấy chỉ có hai vợ chồng đều luống tuổi. Họ đi đâu cũng có nhau. Người vợ lúc nào cũng âm thầm, im lặng, suốt ngày không hề thấy nói một tiếng. Người chồng cao lớn, gầy guộc, mặt sắt lại, mũi như mỏ chim. Đôi mắt của lão đục và sâu hoắm, phảng phất những tia lân tinh lạnh lẽo.Người chồng là tay thợ săn cự phách. Khẩu súng kíp trong tay lão như có mắt. Mỗi khi khẩu súng giơ lên, ít khi có chim chóc hoặc thú rừng nào thoát chết. Đằng sau nhà lão, lông chim, xương thú chất đầy thành đống. Những đống lông chim xơ xác đen xỉn như màu mực tàu, còn những đống xương thú màu đá vôi thì lốm đốm những vệt nước tủy vàng khè, hôi hám. Những đống ấy to như những cái mả. Lão thợ săn như là hiện thân thần Chết của rừng. Chim chóc và thú rừng sợ hãi lão. Cánh thợ săn ở Hua Tát vừa ghen tị, vừa bất bình với lão. Lão không tha bất cứ con vật nào trong tầm súng của mình. Có người kể rằng đã tận mắt nhìn thấy lão bắn chết một con công đang múa. Một con công đang múa nhé: cái đầu cong như lá lúa, cái đuôi xòe nửa vòng cung với đủ màu sắc, tia nắng mặt trời hắt ánh lửa lấp lánh như vàng, đôi chân kheo khéo lượn vòng. Chỉ có tình yêu thì mới lượn vòng tinh tế như thế. Con công đang múa, thế mà - “Đùng” - khẩu súng trong tay lão già giật lên, phụt ra một lưỡi lửa đỏ. Con công ngã gục, cái cánh có ánh cầu vồng ngũ sắc nhòe máu. Vợ lão già đến, khô đét, đen ngòm, âm thầm nhặt con công cho vào cái lếp sau lưng.
Tuy vậy, suốt đời lão già chỉ săn được những con chim, con thú bình thường. Lão già chưa bao giờ săn được con thú lớn ba bốn tạ thịt. Khẩu súng của lão chỉ bắn được những con vật nhỏ ngu ngốc. Đấy chính là điều lão già khổ tâm, dằn vặt.
Cả bản Hua Tát xa lánh vợ chồng lão, không ai nói chuyện, chơi bời với gia đình lão. Nhìn thấy vợ chồng lão, người ta tránh ngoắt đi. Cứ thế, lão thợ săn sống cô đơn bên người vợ âm thầm.
Cuối năm ấy, ở Hua Tát động rừng, cây cối xơ xác, chim chóc trốn biệt, không có dấu chân một con thú nào trong rừng. Chưa bao giờ người Hua Tát sống vất vả đến thế. Người ta đồn là Then bắt đầu trừng phạt. Lão thợ săn ngụ cư kiếm ăn cũng rất khó khăn. Vợ chồng lão lang thang khắp rừng. Lần đầu tiên trong đời lão già gặp phải cảnh này. Ba tuần trăng, khẩu súng của lão không hề được nổ. Lão già dậy từ gà gáy canh ba vác súng đi đến tối mịt.
Người vợ gầy của lão không còn đủ sức đi theo chồng nữa. Mụ ở nhà nhóm lửa chờ đợi. Ngọn lửa mụ nhóm như có ma ám, không đỏ mà lại xanh lét như mắt chó sói.
Lần ấy lão già đi vắng cả tuần liền. Người lão mệt lả. Đầu gối lão chùn xuống, các bắp thịt nhão ra tưởng chừng có thể dùng tay bấu được như bấu những con vắt nhẽo bết máu. Lão đã lết khắp nơi mà không gặp gì. Đến một con chim sâu, thậm chí một con bướm lão cũng không thấy. Lão hoang mang sợ hãi. Then đã trừng phạt thế gian như lời người ta đồn đại hay chăng?
Cuối cùng, mệt lả, lão già kiệt sức phải lết về nhà. Đến con suối đầu bản, lão dừng lại nhìn về nhà mình. Nhà lão có ánh lửa, cái ánh lửa xanh lét, chắc là vợ lão vẫn thức đợi chồng. Lão nhắm nghiền đôi mắt đục và sâu hoắm lại. Ngẫm nghĩ một lát, lão lộn lại rừng. Mũi lão đã đánh hơi thấy mùi thú... Lão gặp may thật. Lão đã nhìn thấy nó. Cái con công ấy đang múa. Kìa, đôi chân con công di chuyển nhẹ nhàng về phía bên phải, cái đuôi xòe thành đường tròn lại dịch về phía bên trái, cái ánh xanh gay gắt trên túm lông đầu của nó mới rực rỡ làm sao! Lão già giương súng lên: “Đùng!” Phát súng nổ. Lão nghe thấy tiếng rú thất thanh. Lão chạy lại con thú bị bắn ngã. Đấy là vợ lão. Mụ đi ra rừng đợi lão, tay mụ còn cầm bộ lông chim công.
Lão thợ săn nằm sấp xuống, úp mặt vào vũng máu trên lớp lá mục nồng nồng, ngái và hoi như mùi chuột.
Miệng lão hộc lên như tiếng lợn lòi. Lão nằm thế rất lâu. Mây đen sà xuống thấp, khu rừng tối sẫm, nóng hâm hấp như da người sốt. Gần sáng, lão già bỗng đứng phắt dậy nhanh như con sóc. Lão nảy ý định lấy xác vợ lão làm mồi để săn con thú, con thú lớn nhất đời mình. Lão nằm trong bụi cây gần cái xác thối rữa của vợ lão một sải tay, đạn lên nòng, khắc khoải chờ đợi. Nhưng Then đã trừng phạt lão. Không có con thú nào đến với lão, chỉ có cái chết đến với lão.
Ba ngày sau, người ta lôi cái xác còng queo của lão ra khỏi bụi cây. Một vết đạn xuyên qua trán lão. Lão đã bắn được con thú lớn nhất đời mình.
1971
(Theo Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp với minh hoạ của các hoạ sĩ, NXB Văn học, 2020)
Thực hiện các yêu cầu:(Theo Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp với minh hoạ của các hoạ sĩ, NXB Văn học, 2020)
Câu 1 [706571]: Truyện được kể bởi ngôi kể nào?
Truyện được kể bởi ngôi kể thứ ba.
Câu 2 [706572]: Truyện được chia làm mấy phần? Nêu nội dung chính của từng phần.
Truyện được chia làm ba phần:
- Phần thứ nhất (từ đầu đến những tia lân tinh lạnh lẽo): Giới thiệu các nhân vật (vợ chồng lão thợ săn).
- Phần thứ hai (tiếp đến bên người vợ âm thầm): Tài bắn “bách phát bách trúng” của gã thợ săn với biệt danh “thần Chết của rừng” cùng khát vọng bắn được con thú lớn của gã.
- Phần thứ ba (còn lại): Gã thợ săn và “con thú lớn nhất” trong đời săn bắn của gã.
- Phần thứ nhất (từ đầu đến những tia lân tinh lạnh lẽo): Giới thiệu các nhân vật (vợ chồng lão thợ săn).
- Phần thứ hai (tiếp đến bên người vợ âm thầm): Tài bắn “bách phát bách trúng” của gã thợ săn với biệt danh “thần Chết của rừng” cùng khát vọng bắn được con thú lớn của gã.
- Phần thứ ba (còn lại): Gã thợ săn và “con thú lớn nhất” trong đời săn bắn của gã.
Câu 3 [706573]: Phân tích một chi tiết khiến anh/ chị ấn tượng nhất trong văn bản.
Thí sinh chọn và phân tích một chi tiết đặc sắc khiến bản thân tượng nhất trong văn bản. Chẳng hạn:
- Chi tiết mỗi khi khẩu súng giơ lên, ít khi có chim chóc hoặc thú rừng nào thoát chết tô đậm ấn tượng về khả năng bắn trúng mục tiêu của lão thợ săn.
Hoặc:
- Chi tiết đằng sau nhà lão, lông chim, xương thú chất đầy thành đống chứng tỏ lão thợ săn đã bắn chết rất nhiều muông thú.
Hoặc:
- Chi tiết lão thợ săn như là hiện thân thần Chết của rừng mô tả sự gớm ghiếc của nhân vật, ẩn chứa nỗi ám ảnh, kinh hoàng về sự tàn độc của nhân vật.
Hoặc:
- Chi tiết lão thợ săn bắn chết con công đang múa (thường thì loài công chỉ xoè đuôi múa để hấp dẫn bạn tình trong mùa giao phối) khắc hoạ sự tính cách vô tình, vô cảm trước cái đẹp và tình yêu, sự tàn độc đến kiệt cùng của tay thợ săn.
...
- Chi tiết mỗi khi khẩu súng giơ lên, ít khi có chim chóc hoặc thú rừng nào thoát chết tô đậm ấn tượng về khả năng bắn trúng mục tiêu của lão thợ săn.
Hoặc:
- Chi tiết đằng sau nhà lão, lông chim, xương thú chất đầy thành đống chứng tỏ lão thợ săn đã bắn chết rất nhiều muông thú.
Hoặc:
- Chi tiết lão thợ săn như là hiện thân thần Chết của rừng mô tả sự gớm ghiếc của nhân vật, ẩn chứa nỗi ám ảnh, kinh hoàng về sự tàn độc của nhân vật.
Hoặc:
- Chi tiết lão thợ săn bắn chết con công đang múa (thường thì loài công chỉ xoè đuôi múa để hấp dẫn bạn tình trong mùa giao phối) khắc hoạ sự tính cách vô tình, vô cảm trước cái đẹp và tình yêu, sự tàn độc đến kiệt cùng của tay thợ săn.
...
Câu 4 [706574]: Nêu triết lí nhân sinh của truyện.
(Triết lí nhân sinh trong văn học là quan niệm và sự lí giải của nhà văn về các vấn đề chung liên quan đến cuộc sống, số phận con người, sự tồn tại và phát triển của xã hội.
- Biểu hiện của triết lí nhân sinh trong tác phẩm văn học:
+ Triết lí nhân sinh thường biểu hiện trực tiếp qua lời người kể chuyện.
+ Rất nhiều triết lí nhân sinh được thể hiện trực tiếp qua lời nhân vật hoặc gián tiếp qua tình huống truyện, nhân vật, biểu tượng, bối cảnh.)
Thí sinh có thể chỉ ra một vài triết lí nhân sinh trong truyện Con thú lớn nhất:
- Triết lí nhân sinh được biểu hiện trực tiếp qua lời của người kể chuyện: Chỉ có tình yêu thì mới lượn vòng tinh tế như thế.
- Triết lí nhân sinh được gián tiếp biểu hiện qua sự kiện lão thợ săn bắn nhầm phải vợ lão: “ác giả ác báo”, “gieo nhân nào gặt quả ấy” (Lão đã giết rất nhiều muông thú trong rừng, đã tàn độc, vô tình trước tình yêu nên chính lão đã bị trả giá bởi sự tàn độc và vô tình của mình: bắn trúng phải người vợ đầu gối tay kề với lão.)
- Triết lí nhân sinh được gián tiếp biểu hiện qua biểu tượng con thú lớn nhất: Con thú lớn nhất trong mỗi con người chính là sự độc ác, vô tâm, vô tình trong bản thân của chúng ta. Đó cũng chính là con thú lớn nhất chúng ta nên săn lùng để tiêu diệt trong hành trình sống của mình.
- Biểu hiện của triết lí nhân sinh trong tác phẩm văn học:
+ Triết lí nhân sinh thường biểu hiện trực tiếp qua lời người kể chuyện.
+ Rất nhiều triết lí nhân sinh được thể hiện trực tiếp qua lời nhân vật hoặc gián tiếp qua tình huống truyện, nhân vật, biểu tượng, bối cảnh.)
Thí sinh có thể chỉ ra một vài triết lí nhân sinh trong truyện Con thú lớn nhất:
- Triết lí nhân sinh được biểu hiện trực tiếp qua lời của người kể chuyện: Chỉ có tình yêu thì mới lượn vòng tinh tế như thế.
- Triết lí nhân sinh được gián tiếp biểu hiện qua sự kiện lão thợ săn bắn nhầm phải vợ lão: “ác giả ác báo”, “gieo nhân nào gặt quả ấy” (Lão đã giết rất nhiều muông thú trong rừng, đã tàn độc, vô tình trước tình yêu nên chính lão đã bị trả giá bởi sự tàn độc và vô tình của mình: bắn trúng phải người vợ đầu gối tay kề với lão.)
- Triết lí nhân sinh được gián tiếp biểu hiện qua biểu tượng con thú lớn nhất: Con thú lớn nhất trong mỗi con người chính là sự độc ác, vô tâm, vô tình trong bản thân của chúng ta. Đó cũng chính là con thú lớn nhất chúng ta nên săn lùng để tiêu diệt trong hành trình sống của mình.
Câu 5 [706575]: Chỉ ra thông điệp của truyện.
Thí sinh có thể chỉ ra một trong các thông điệp từ truyện:
- Hãy sống hoà hợp, nhân ái với thiên nhiên.
- Ở hiền gặp lành, ở ác gặp ác.
- ...
- Hãy sống hoà hợp, nhân ái với thiên nhiên.
- Ở hiền gặp lành, ở ác gặp ác.
- ...
II. VIẾT (6,0 điểm)
Câu 6 [706576]: (2,0 điểm)
Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) cảm nhận về một nét đặc sắc nổi bật về nội dung hoặc nghệ thuật của bài thơ sau:
GHI Ở VẠN LÝ TRƯỜNG THÀNH
(Mai Văn Phấn)
Mây xếp lên vai từng tảng đá nặng
nhòe mắt cát
thở đầy ngực cát
Vạn Lý Trường Thành còn xây dở?
Trên không tiếng hoạn quan truyền chỉ
Bắt được kẻ nào vừa vác đá vừa làm thơ
đánh hộc máu mồm
Khâm thử!
Ngước lên gặp một khuôn mặt bì bì
tay lạnh, mắt chì, giọng mỡ
Mái Phong hỏa đài màu huyết dụ
hình thanh long đao dính máu đang kề cổ
Còng lưng đẩy nắng đi
Chồn chân đẩy gió đi
Miễn sao gần được bông hoa
đang mởn mơ trong gió lớn.
Tâu Hoàng thượng/ thưa ngài/ báo cáo đồng chí....
Bỉ chức/ thảo dân/ em...
sẽ làm trọn bổn phận
Đây là đỉnh trời
hay đáy vực sâu
chỉ thấy trên lưng lằn roi bỏng rát
Mồ hôi du khách trên đá xám
nở thành hoa phù dung.
Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) cảm nhận về một nét đặc sắc nổi bật về nội dung hoặc nghệ thuật của bài thơ sau:
GHI Ở VẠN LÝ TRƯỜNG THÀNH
(Mai Văn Phấn)
Mây xếp lên vai từng tảng đá nặng
nhòe mắt cát
thở đầy ngực cát
Vạn Lý Trường Thành còn xây dở?
Trên không tiếng hoạn quan truyền chỉ
Bắt được kẻ nào vừa vác đá vừa làm thơ
đánh hộc máu mồm
Khâm thử!
Ngước lên gặp một khuôn mặt bì bì
tay lạnh, mắt chì, giọng mỡ
Mái Phong hỏa đài màu huyết dụ
hình thanh long đao dính máu đang kề cổ
Còng lưng đẩy nắng đi
Chồn chân đẩy gió đi
Miễn sao gần được bông hoa
đang mởn mơ trong gió lớn.
Tâu Hoàng thượng/ thưa ngài/ báo cáo đồng chí....
Bỉ chức/ thảo dân/ em...
sẽ làm trọn bổn phận
Đây là đỉnh trời
hay đáy vực sâu
chỉ thấy trên lưng lằn roi bỏng rát
Mồ hôi du khách trên đá xám
nở thành hoa phù dung.
(Theo vanvn.vn)
Đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) cảm nhận về một nét đặc sắc nổi bật về nội dung hoặc nghệ thuật của bài thơ Ghi ở Vạn Lý Trường Thành (Mai Văn Phấn) có thể được triển khai theo hướng:
- Mai Văn Phấn: một trong những gương mặt tiêu biểu của thơ ca Việt Nam đương đại, luôn nỗ lực tìm tòi cách tân thơ ca.
- Ghi ở Vạn Lý Trường Thành: thi phẩm đặc sắc tái hiện bối cảnh trong quá khứ tại công trình kiến trúc vĩ đại của đất nước Trung Hoa. Bài thơ có nhiều nét đặc sắc về nội dung (đề tài, chủ đề, nhân vật trữ tình, cảm hứng chủ đạo, thông điệp,...) và nghệ thuật (bút pháp trữ tình kết hợp tự sự, cấu tứ, ngôn ngữ, hình ảnh, biện pháp tu từ,...). Thí sinh có thể lựa chọn bất kì nét đặc sắc nào để cảm nhận. Chẳng hạn:
+ Cảm hứng chủ đạo của bài thơ:
• Bài thơ ghi lại cảm nhận của nhân vật trữ tình - một du khách đến tham quan Vạn Lý Trường Thành. Điều đáng nói là lời thơ không tập trung bộc bạch tình cảm, cảm xúc của nhân vật trữ tình trước vẻ đẹp của công trình kiến trúc quân sự kì vĩ mà chủ yếu ghi lại những hình dung, tưởng tượng về hiện thực khốn khổ của những người phu xây thành xưa kia. Chuỗi hình ảnh tảng đá nặng, cát mù trời cùng các chi tiết còng lưng đẩy nắng đi, chồn chân đẩy gió đi khắc hoạ tính chất dữ dội, khắc nghiệt khung cảnh lao động. Các chi tiết tiếng hoạn quan truyền chỉ/ Bắt được kẻ nào vừa vác đá vừa làm thơ/ đánh hộc máu mồm chứng tỏ kẻ sĩ, học trò cũng bị tróc nã, chịu cảnh phu phen. Sự tàn độc của những kẻ bề trên không chỉ được nhà thơ miêu tả bằng mệnh lệnh được ban truyền mà còn được khắc hoạ qua các hình ảnh khuôn mặt bì bì, tay lạnh, mắt chì, giọng mỡ đầy vô tình, vô cảm, tàn nhẫn, vô lương tâm... Kẻ trên cứ sai truyền và kẻ dưới cứ phải răm rắp mà thực thi (Bỉ chức/ thảo dân/ em.../ sẽ làm tròn bổn phận). Vạn Lý Trường Thành dài bao nhiêu dặm thì máu, nước mắt, sinh mệnh của những phận đời bé mọn cũng trải dọc bấy nhiêu. Câu hỏi tu từ Đây là đỉnh trời/ hay đáy vực sâu là sự thấu cảm sâu sắc của nhân vật trữ tình về nỗi cơ cực, sự khốn cùng, khốn nạn của những người phu xây thành.
• Suốt dọc bài thơ không có từ ngữ nào trực tiếp bộc lộ tình cảm, cảm xúc của nhân vật trữ tình. Song việc tái hiện khung cảnh xây thành trong hình dung, tưởng tượng của khách tham quan mà tâm điểm là nỗi khốn khổ của ngu xây thành đã cho thấy sự thấu hiểu, đồng cảm, yêu thương sâu sắc của con người hôm nay với những kiếp đời xa xưa. Hai dòng thơ cuối cùng như là sự gặp gỡ, đồng điệu của du khách hôm nay với những người xây thành ngày xưa. Biểu tượng hoa phù dung kết đọng tình cảm thấu hiểu, đồng điệu, thương cảm, trân trọng, tri ân của người nay dành cho người xưa.
⟶ Bài thơ bởi lẽ đó mang cảm hứng nhân văn sâu sắc.
Hoặc:
+ Sự đan xen giữa trữ tình và tự sự trong bài thơ tạo nên bút pháp trữ tình - tự sự độc đáo:
• Màu sắc tự sự được thể hiện qua “thước phim” xây thành khổ cực của những người phu phen mấy ngàn năm trước. “Thước phim” có những “cảnh quay” ấn tượng như cảnh những người phu xây thành còng lưng đẩy đá giữa nắng chói chang và gió cát mù mịt; cảnh hoạn quan truyền chỉ bắt, đánh phu phen; cảnh chém giết những người trái lệnh; cảnh vâng mệnh, tuân chỉ của những tên cai lính,... Tất cả hiện lên với bao oan khổ, tội tình.
• Điều thú vị là các “cảnh quay” ấy lại không phải là hình ảnh hiện thực, trực tiếp. Tất cả chỉ là hình dung, tưởng tượng của du khách tham quan Vạn Lý Trường Thành. Song, chính những ảnh hình tưởng tượng này lại là bằng chứng cho thấy sự thấu hiểu, đồng cảm, lòng xót thương sâu sắc của con người hôm nay trước công lao, khổ cực của người xưa. Công trình kiến trúc quân sự kì vĩ, mĩ lệ không khiến khách tham quan cảm thấy choáng ngợp, ngưỡng mộ mà chủ yếu khơi sâu những xúc cảm rất nhân bản, nhân văn.
+ Sự đan xen giữa tự sự và trữ tình trong thi phẩm giúp bài thơ trở nên sâu sắc. Trữ tình không phô lộ mà kín đáo, khơi gợi nhiều suy tưởng trong người đọc.
- Mai Văn Phấn: một trong những gương mặt tiêu biểu của thơ ca Việt Nam đương đại, luôn nỗ lực tìm tòi cách tân thơ ca.
- Ghi ở Vạn Lý Trường Thành: thi phẩm đặc sắc tái hiện bối cảnh trong quá khứ tại công trình kiến trúc vĩ đại của đất nước Trung Hoa. Bài thơ có nhiều nét đặc sắc về nội dung (đề tài, chủ đề, nhân vật trữ tình, cảm hứng chủ đạo, thông điệp,...) và nghệ thuật (bút pháp trữ tình kết hợp tự sự, cấu tứ, ngôn ngữ, hình ảnh, biện pháp tu từ,...). Thí sinh có thể lựa chọn bất kì nét đặc sắc nào để cảm nhận. Chẳng hạn:
+ Cảm hứng chủ đạo của bài thơ:
• Bài thơ ghi lại cảm nhận của nhân vật trữ tình - một du khách đến tham quan Vạn Lý Trường Thành. Điều đáng nói là lời thơ không tập trung bộc bạch tình cảm, cảm xúc của nhân vật trữ tình trước vẻ đẹp của công trình kiến trúc quân sự kì vĩ mà chủ yếu ghi lại những hình dung, tưởng tượng về hiện thực khốn khổ của những người phu xây thành xưa kia. Chuỗi hình ảnh tảng đá nặng, cát mù trời cùng các chi tiết còng lưng đẩy nắng đi, chồn chân đẩy gió đi khắc hoạ tính chất dữ dội, khắc nghiệt khung cảnh lao động. Các chi tiết tiếng hoạn quan truyền chỉ/ Bắt được kẻ nào vừa vác đá vừa làm thơ/ đánh hộc máu mồm chứng tỏ kẻ sĩ, học trò cũng bị tróc nã, chịu cảnh phu phen. Sự tàn độc của những kẻ bề trên không chỉ được nhà thơ miêu tả bằng mệnh lệnh được ban truyền mà còn được khắc hoạ qua các hình ảnh khuôn mặt bì bì, tay lạnh, mắt chì, giọng mỡ đầy vô tình, vô cảm, tàn nhẫn, vô lương tâm... Kẻ trên cứ sai truyền và kẻ dưới cứ phải răm rắp mà thực thi (Bỉ chức/ thảo dân/ em.../ sẽ làm tròn bổn phận). Vạn Lý Trường Thành dài bao nhiêu dặm thì máu, nước mắt, sinh mệnh của những phận đời bé mọn cũng trải dọc bấy nhiêu. Câu hỏi tu từ Đây là đỉnh trời/ hay đáy vực sâu là sự thấu cảm sâu sắc của nhân vật trữ tình về nỗi cơ cực, sự khốn cùng, khốn nạn của những người phu xây thành.
• Suốt dọc bài thơ không có từ ngữ nào trực tiếp bộc lộ tình cảm, cảm xúc của nhân vật trữ tình. Song việc tái hiện khung cảnh xây thành trong hình dung, tưởng tượng của khách tham quan mà tâm điểm là nỗi khốn khổ của ngu xây thành đã cho thấy sự thấu hiểu, đồng cảm, yêu thương sâu sắc của con người hôm nay với những kiếp đời xa xưa. Hai dòng thơ cuối cùng như là sự gặp gỡ, đồng điệu của du khách hôm nay với những người xây thành ngày xưa. Biểu tượng hoa phù dung kết đọng tình cảm thấu hiểu, đồng điệu, thương cảm, trân trọng, tri ân của người nay dành cho người xưa.
⟶ Bài thơ bởi lẽ đó mang cảm hứng nhân văn sâu sắc.
Hoặc:
+ Sự đan xen giữa trữ tình và tự sự trong bài thơ tạo nên bút pháp trữ tình - tự sự độc đáo:
• Màu sắc tự sự được thể hiện qua “thước phim” xây thành khổ cực của những người phu phen mấy ngàn năm trước. “Thước phim” có những “cảnh quay” ấn tượng như cảnh những người phu xây thành còng lưng đẩy đá giữa nắng chói chang và gió cát mù mịt; cảnh hoạn quan truyền chỉ bắt, đánh phu phen; cảnh chém giết những người trái lệnh; cảnh vâng mệnh, tuân chỉ của những tên cai lính,... Tất cả hiện lên với bao oan khổ, tội tình.
• Điều thú vị là các “cảnh quay” ấy lại không phải là hình ảnh hiện thực, trực tiếp. Tất cả chỉ là hình dung, tưởng tượng của du khách tham quan Vạn Lý Trường Thành. Song, chính những ảnh hình tưởng tượng này lại là bằng chứng cho thấy sự thấu hiểu, đồng cảm, lòng xót thương sâu sắc của con người hôm nay trước công lao, khổ cực của người xưa. Công trình kiến trúc quân sự kì vĩ, mĩ lệ không khiến khách tham quan cảm thấy choáng ngợp, ngưỡng mộ mà chủ yếu khơi sâu những xúc cảm rất nhân bản, nhân văn.
+ Sự đan xen giữa tự sự và trữ tình trong thi phẩm giúp bài thơ trở nên sâu sắc. Trữ tình không phô lộ mà kín đáo, khơi gợi nhiều suy tưởng trong người đọc.
Câu 7 [706577]: (4,0 điểm)
Từ nội dung văn bản ở phần Đọc hiểu, viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ), trình bày suy nghĩ của anh/ chị về sự cần thiết của lối sống hoà hợp thiên nhiên.
Từ nội dung văn bản ở phần Đọc hiểu, viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ), trình bày suy nghĩ của anh/ chị về sự cần thiết của lối sống hoà hợp thiên nhiên.
Bài văn trình bày suy nghĩ về sự cần thiết của lối sống hoà hợp thiên nhiên có thể được triển khai nhiều cách. Song cần bảo đảm các ý:
1. Mở bài (gián tiếp)
- Dẫn dắt vấn đề
- Nêu vấn đề
2. Thân bài
* Sơ lược về mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên được thể hiện trong truyện ngắn “Con thú lớn nhất” (Nguyễn Huy Thiệp)
- Bối cảnh của truyện ngắn là không gian của rừng với rất nhiều chim chóc, muông thú và cả con người (đôi vợ chồng trong câu chuyện dựng nhà ở ngoài rìa bản, chỗ gần rừng ma.). Gã chồng trong câu chuyện làm nghề săn bắn - công việc này buộc gã phải giết chóc, tranh đoạt sự sống với muông thú - những đứa con của mẹ thiên nhiên.
- Rừng đã nuôi sống hai vợ chồng lão thợ săn và có vẻ như họ đã sống rất không biết điều khi giết rất nhiều chim thú (Đằng sau nhà lão, lông chim, xương thú chất đầy thành đống.). Chi tiết Cuối năm ấy, ở Hua Tát động rừng, cây cối xơ xác, chim chóc trốn biệt, không có dấu chân một con thú nào trong rừng cho phép người đọc nghĩ đến cơn thịnh nộ của thiên nhiên trước sự tham lam vô độ của con người.
- Truyện khép lại bằng sự việc lão thợ săn giết nhầm vợ lão, khi vợ lão trong bộ dạng của một con công đang múa, con công chờ bạn tình như mụ chờ chồng mụ trở về. Sau cùng, lão thợ săn cũng chết bằng một phát súng lão dành cho chính mình.
⟶ Truyện mang đến thông điệp về thái độ ứng xử của con người với thiên nhiên.
* Bàn luận về sự cần thiết của lối sống hoà hợp thiên nhiên
- Thiên nhiên là tổng thể những gì tồn tại nói chung xung quanh con người mà không phải do con người tạo ra.
- Sự cần thiết của lối sống hoà hợp thiên nhiên:
+ Thiên nhiên mang đến cho con người môi trường sống nguyên thuỷ, thuần khiết, ban cho con người những điều kiện sống lí tưởng (không khí để thở, đất đai để sinh sống, nước để uống, cây cối để điều hoà không khí, muông thú để cân bằng sinh thái,...). Con người từ ngàn xưa đến ngàn sau không thể sống tách rời thiên nhiên (chí ít, con người cần oxi: chúng ta có thể nhịn ăn, nhịn uống trong một khoảng thời gian nhất định nhưng không thể ngưng thở quá 3-5 phút).
+ Thiên nhiên đang bị con người tàn phá nặng nề: tình trạng ô nhiễm diễn ra ở khắp mọi nơi (không khí, nguồn nước, đất đai,...), rừng bị tàn phá, muông thú bị săn lùng, các sinh vật biển bị khai thác quá mức,... Thực trạng này khiến tình trạng biến đổi khí hậu ngày càng trở nên nghiêm trọng (trái đất nóng lên, nước biển dâng, tình trạng nước biển xâm mặn, hạn hán, lũ lụt, bão tố,... ngày càng trở nên phức tạp).
+ Biến đổi khí hậu đang có những tác động tiêu cực tới chính đời sống của con người. Những hậu quả do các hiện tượng thời tiết cực đoan (như hạn hán, bão lũ,...) khiến đời sống của con người ngày càng trở nên khó khăn, sinh kế bị ảnh hưởng.
- Con người, bởi thế rất cần sống hoà hợp với thiên nhiên. “Sống hoà hợp” ở đây cần hiểu là cần có nhận thức và hành vi ứng xử đúng đắn, thân thiện với thiên nhiên, cần biết bảo vệ, bảo tồn thiên nhiên, từ những điều, những việc nhỏ nhất (như tiết kiệm nguồn nước, nguồn điện tại chính gia đình mình, nơi mình học tập, làm việc; bỏ rác đúng nơi quy định, phân loại rác trước khi vứt bỏ; tích cực trồng cây xanh,...).
3. Kết bài
Rút ra bài học nhận thức và hành động
- Nhận thức: Thiên nhiên muôn đời chở che, ưu ái cho vạn vật sinh linh, trong đó có con người. Chỉ có con người “phụ bạc” mẹ thiên nhiên.
- Hành động: Bảo vệ thiên nhiên, hoà hợp với thiên nhiên là cách duy nhất để chúng ta “giành lại” tình cảm yêu thương từ mẹ thiên nhiên vĩ đại.
1. Mở bài (gián tiếp)
- Dẫn dắt vấn đề
- Nêu vấn đề
2. Thân bài
* Sơ lược về mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên được thể hiện trong truyện ngắn “Con thú lớn nhất” (Nguyễn Huy Thiệp)
- Bối cảnh của truyện ngắn là không gian của rừng với rất nhiều chim chóc, muông thú và cả con người (đôi vợ chồng trong câu chuyện dựng nhà ở ngoài rìa bản, chỗ gần rừng ma.). Gã chồng trong câu chuyện làm nghề săn bắn - công việc này buộc gã phải giết chóc, tranh đoạt sự sống với muông thú - những đứa con của mẹ thiên nhiên.
- Rừng đã nuôi sống hai vợ chồng lão thợ săn và có vẻ như họ đã sống rất không biết điều khi giết rất nhiều chim thú (Đằng sau nhà lão, lông chim, xương thú chất đầy thành đống.). Chi tiết Cuối năm ấy, ở Hua Tát động rừng, cây cối xơ xác, chim chóc trốn biệt, không có dấu chân một con thú nào trong rừng cho phép người đọc nghĩ đến cơn thịnh nộ của thiên nhiên trước sự tham lam vô độ của con người.
- Truyện khép lại bằng sự việc lão thợ săn giết nhầm vợ lão, khi vợ lão trong bộ dạng của một con công đang múa, con công chờ bạn tình như mụ chờ chồng mụ trở về. Sau cùng, lão thợ săn cũng chết bằng một phát súng lão dành cho chính mình.
⟶ Truyện mang đến thông điệp về thái độ ứng xử của con người với thiên nhiên.
* Bàn luận về sự cần thiết của lối sống hoà hợp thiên nhiên
- Thiên nhiên là tổng thể những gì tồn tại nói chung xung quanh con người mà không phải do con người tạo ra.
- Sự cần thiết của lối sống hoà hợp thiên nhiên:
+ Thiên nhiên mang đến cho con người môi trường sống nguyên thuỷ, thuần khiết, ban cho con người những điều kiện sống lí tưởng (không khí để thở, đất đai để sinh sống, nước để uống, cây cối để điều hoà không khí, muông thú để cân bằng sinh thái,...). Con người từ ngàn xưa đến ngàn sau không thể sống tách rời thiên nhiên (chí ít, con người cần oxi: chúng ta có thể nhịn ăn, nhịn uống trong một khoảng thời gian nhất định nhưng không thể ngưng thở quá 3-5 phút).
+ Thiên nhiên đang bị con người tàn phá nặng nề: tình trạng ô nhiễm diễn ra ở khắp mọi nơi (không khí, nguồn nước, đất đai,...), rừng bị tàn phá, muông thú bị săn lùng, các sinh vật biển bị khai thác quá mức,... Thực trạng này khiến tình trạng biến đổi khí hậu ngày càng trở nên nghiêm trọng (trái đất nóng lên, nước biển dâng, tình trạng nước biển xâm mặn, hạn hán, lũ lụt, bão tố,... ngày càng trở nên phức tạp).
+ Biến đổi khí hậu đang có những tác động tiêu cực tới chính đời sống của con người. Những hậu quả do các hiện tượng thời tiết cực đoan (như hạn hán, bão lũ,...) khiến đời sống của con người ngày càng trở nên khó khăn, sinh kế bị ảnh hưởng.
- Con người, bởi thế rất cần sống hoà hợp với thiên nhiên. “Sống hoà hợp” ở đây cần hiểu là cần có nhận thức và hành vi ứng xử đúng đắn, thân thiện với thiên nhiên, cần biết bảo vệ, bảo tồn thiên nhiên, từ những điều, những việc nhỏ nhất (như tiết kiệm nguồn nước, nguồn điện tại chính gia đình mình, nơi mình học tập, làm việc; bỏ rác đúng nơi quy định, phân loại rác trước khi vứt bỏ; tích cực trồng cây xanh,...).
3. Kết bài
Rút ra bài học nhận thức và hành động
- Nhận thức: Thiên nhiên muôn đời chở che, ưu ái cho vạn vật sinh linh, trong đó có con người. Chỉ có con người “phụ bạc” mẹ thiên nhiên.
- Hành động: Bảo vệ thiên nhiên, hoà hợp với thiên nhiên là cách duy nhất để chúng ta “giành lại” tình cảm yêu thương từ mẹ thiên nhiên vĩ đại.