I. ĐỌC HIỂU (4,0 điểm)
Đọc đoạn trích:
“Tất cả những lá thư gói chung trong tờ báo cũ để dưới đáy rương đều là của mẹ gửi cho em trai của Tân. Trên tất cả các phong bì, tên người nhận đều là Nghĩa, tất cả đều được kiên nhẫn gửi tới một số hiệu hòm thư duy nhất, và tất cả đều là những lá thư do bưu điện huyện Lương Sơn kiên nhẫn gửi trả lại. Tất cả còn để nguyên chưa được bóc ra.
Tân không vội mở xem lá thư đầu tiên. Anh ngồi im ngẫm nghĩ cố hiểu cho ra sự lạ lùng này. Đúng là Tân từng có một cậu em trai, nhưng đã từ lâu lắm rồi. Đến nỗi, có lần làm lí lịch tự khai, Tân đã quên không ghi Nghĩa vào. Có lẽ cả ông anh, bà chị của Tân cũng vậy. Quen nói ba chị em mình, dần dần trong tâm thức họ, hình bóng người em út cứ lẳng lặng phai mờ, rồi tắt hẳn đi lúc nào không hay. Tất nhiên là thoảng hoặc Tân cũng chợt nhớ. Và anh gắng mường tượng lại gương mặt Nghĩa, mà không được. [...]
Có gì trong những năm ấy nhỉ? Chiến tranh, sơ tán, nỗi sợ hãi. Không chỉ là sợ bom đạn, mà còn nỗi khiếp hãi cảnh sống nghèo nàn, kham khổ. So với các gia đình khác trong khu tập thể, gia đình Tân thuộc diện khá nhất. Nhưng xét cho cùng thì vẫn là thế cả thôi, mức sống gia đình cán bộ trong một đời sống tập thể chung dụng, cau có, ảm đạm, sờn nát và buồn ê ẩm, không có gì đáng cho người ta phải nuối tiếc mà nhớ nhung, hồi tưởng. Tân chỉ nhớ là hồi đó anh không có nghĩ ngợi nào khác ngoài học và học, học thật giỏi, hạnh kiểm thật đẹp để xong lớp 10 được đi học nước ngoài như anh trai, như chị gái.
[...] Mẹ thì tất nhiên là thương xót hết mực thằng con út không có được đường đời dễ dàng, êm thấm như các anh chị của nó. Bà cho Tân số hòm thư của Nghĩa và hối thúc anh viết ngay gửi sớm để em nó mừng. Bà kể là đã lên thăm Nghĩa ở trại luyện tân binh trên Bãi Nai - Hoà Bình, thấy nó vất vả, gian khổ, thương lắm. Hồi đó, đọc biết thế, nhưng bây giờ mở xem lá thư mẹ viết cho Nghĩa mới thấy thấu cái tình thương xót của mẹ đối với nó.
“Người ta bảo là ở rừng thì dù nhọc mệt thế nào cũng chớ có ngủ trưa, vì bị ngã nước đấy, con ạ. Hại sức lắm, mà mẹ thì ở xa chẳng lo được cho con... Mẹ lại thường hay nghĩ đến cái tính liều của con. Con ơi, có báo động dù chưa tiếng tàu bay vẫn phải "tăng xế” xuống ngay. Tránh voi chẳng xấu mặt nào. Thương mẹ, thương cha, con phải tự thương xót lấy mình, con nhé.
Chỗ quà này mẹ gói ra hai màu để con phân biệt. Gói bọc giấy xanh là kẹo, bánh, thuốc lá thì con mời anh em bè bạn với cấp chỉ huy. Riêng thuốc lá, mẹ mong con hút ít. Nghe nói nơi các con đóng binh, người dân tộc nấu rượu sắn nhiều lắm, mẹ lo. Uống rượu, hút thuốc hỏng đời, con ạ. Còn trong gói đó là kim chỉ, đá lửa, pin, cặp ba lá, con phải cất kĩ. Các thức ấy không vặt vãnh đâu, ở Hà Nội đã khó kiếm, trong Khu Bốn với bên Lào lại càng quý báu. Nặng thêm một chút nhưng con gắng mang. Phòng khi ốm đau cảm cúm, nhất là chẳng may mà sốt rét thì đem đổi lấy thịt thà, rau quả mà bồi dưỡng cho chóng lại. Mấy bà trong khối phố có con đi bộ đội trước con, họ bày kinh nghiệm cho mẹ như thế.”
Tân không hiểu gói quà ấy có đến tay Nghĩa không, bởi rõ ràng tất cả những phong thư anh đang thấy đây mẹ anh đều đã gửi lên Lương Sơn khi mà đơn vị của Nghĩa đã rời đi. Tất cả đều bị gửi ngược về hoàn trả, nhưng mẹ vẫn nhẫn nại viết và nhẫn nại gửi cầu may tới cái hòm thư đã hoang phế đó. Mấy bức đầu mẹ anh viết ngắn như là viết vội để gửi đi gấp. Không viết gì nhiều, những thư ấy chi hối Nghĩa mau biên thư về cho cha mẹ hay số hòm thư mới với lại hiện đang ở đâu, sức khoẻ thế nào. Nhưng theo dần năm tháng chiến tranh, thư của mẹ ngày một nhiều trang hơn và ngày một buồn bã hơn. Gửi đi bao nhiêu nhận lại bấy nhiêu, những lá thư của mẹ càng về sau càng như nhật kí, như là để gửi tới chính mình. Chữ mẹ nắn nót, dễ đọc dẫu màu mực đã phai, dòng nối dòng đều đều, miên man che giấu niềm vô vọng. Mẹ kể rằng đêm qua mẹ nhìn thấy Nghĩa nhưng chưa kịp gọi thì đã tỉnh, tỉnh dậy thì đã chẳng còn lại gì, chẳng níu giữ được gì nữa cả, trong phòng tối đen, ngoài trời còi báo động hú vang.”
“Tất cả những lá thư gói chung trong tờ báo cũ để dưới đáy rương đều là của mẹ gửi cho em trai của Tân. Trên tất cả các phong bì, tên người nhận đều là Nghĩa, tất cả đều được kiên nhẫn gửi tới một số hiệu hòm thư duy nhất, và tất cả đều là những lá thư do bưu điện huyện Lương Sơn kiên nhẫn gửi trả lại. Tất cả còn để nguyên chưa được bóc ra.
Tân không vội mở xem lá thư đầu tiên. Anh ngồi im ngẫm nghĩ cố hiểu cho ra sự lạ lùng này. Đúng là Tân từng có một cậu em trai, nhưng đã từ lâu lắm rồi. Đến nỗi, có lần làm lí lịch tự khai, Tân đã quên không ghi Nghĩa vào. Có lẽ cả ông anh, bà chị của Tân cũng vậy. Quen nói ba chị em mình, dần dần trong tâm thức họ, hình bóng người em út cứ lẳng lặng phai mờ, rồi tắt hẳn đi lúc nào không hay. Tất nhiên là thoảng hoặc Tân cũng chợt nhớ. Và anh gắng mường tượng lại gương mặt Nghĩa, mà không được. [...]
Có gì trong những năm ấy nhỉ? Chiến tranh, sơ tán, nỗi sợ hãi. Không chỉ là sợ bom đạn, mà còn nỗi khiếp hãi cảnh sống nghèo nàn, kham khổ. So với các gia đình khác trong khu tập thể, gia đình Tân thuộc diện khá nhất. Nhưng xét cho cùng thì vẫn là thế cả thôi, mức sống gia đình cán bộ trong một đời sống tập thể chung dụng, cau có, ảm đạm, sờn nát và buồn ê ẩm, không có gì đáng cho người ta phải nuối tiếc mà nhớ nhung, hồi tưởng. Tân chỉ nhớ là hồi đó anh không có nghĩ ngợi nào khác ngoài học và học, học thật giỏi, hạnh kiểm thật đẹp để xong lớp 10 được đi học nước ngoài như anh trai, như chị gái.
[...] Mẹ thì tất nhiên là thương xót hết mực thằng con út không có được đường đời dễ dàng, êm thấm như các anh chị của nó. Bà cho Tân số hòm thư của Nghĩa và hối thúc anh viết ngay gửi sớm để em nó mừng. Bà kể là đã lên thăm Nghĩa ở trại luyện tân binh trên Bãi Nai - Hoà Bình, thấy nó vất vả, gian khổ, thương lắm. Hồi đó, đọc biết thế, nhưng bây giờ mở xem lá thư mẹ viết cho Nghĩa mới thấy thấu cái tình thương xót của mẹ đối với nó.
“Người ta bảo là ở rừng thì dù nhọc mệt thế nào cũng chớ có ngủ trưa, vì bị ngã nước đấy, con ạ. Hại sức lắm, mà mẹ thì ở xa chẳng lo được cho con... Mẹ lại thường hay nghĩ đến cái tính liều của con. Con ơi, có báo động dù chưa tiếng tàu bay vẫn phải "tăng xế” xuống ngay. Tránh voi chẳng xấu mặt nào. Thương mẹ, thương cha, con phải tự thương xót lấy mình, con nhé.
Chỗ quà này mẹ gói ra hai màu để con phân biệt. Gói bọc giấy xanh là kẹo, bánh, thuốc lá thì con mời anh em bè bạn với cấp chỉ huy. Riêng thuốc lá, mẹ mong con hút ít. Nghe nói nơi các con đóng binh, người dân tộc nấu rượu sắn nhiều lắm, mẹ lo. Uống rượu, hút thuốc hỏng đời, con ạ. Còn trong gói đó là kim chỉ, đá lửa, pin, cặp ba lá, con phải cất kĩ. Các thức ấy không vặt vãnh đâu, ở Hà Nội đã khó kiếm, trong Khu Bốn với bên Lào lại càng quý báu. Nặng thêm một chút nhưng con gắng mang. Phòng khi ốm đau cảm cúm, nhất là chẳng may mà sốt rét thì đem đổi lấy thịt thà, rau quả mà bồi dưỡng cho chóng lại. Mấy bà trong khối phố có con đi bộ đội trước con, họ bày kinh nghiệm cho mẹ như thế.”
Tân không hiểu gói quà ấy có đến tay Nghĩa không, bởi rõ ràng tất cả những phong thư anh đang thấy đây mẹ anh đều đã gửi lên Lương Sơn khi mà đơn vị của Nghĩa đã rời đi. Tất cả đều bị gửi ngược về hoàn trả, nhưng mẹ vẫn nhẫn nại viết và nhẫn nại gửi cầu may tới cái hòm thư đã hoang phế đó. Mấy bức đầu mẹ anh viết ngắn như là viết vội để gửi đi gấp. Không viết gì nhiều, những thư ấy chi hối Nghĩa mau biên thư về cho cha mẹ hay số hòm thư mới với lại hiện đang ở đâu, sức khoẻ thế nào. Nhưng theo dần năm tháng chiến tranh, thư của mẹ ngày một nhiều trang hơn và ngày một buồn bã hơn. Gửi đi bao nhiêu nhận lại bấy nhiêu, những lá thư của mẹ càng về sau càng như nhật kí, như là để gửi tới chính mình. Chữ mẹ nắn nót, dễ đọc dẫu màu mực đã phai, dòng nối dòng đều đều, miên man che giấu niềm vô vọng. Mẹ kể rằng đêm qua mẹ nhìn thấy Nghĩa nhưng chưa kịp gọi thì đã tỉnh, tỉnh dậy thì đã chẳng còn lại gì, chẳng níu giữ được gì nữa cả, trong phòng tối đen, ngoài trời còi báo động hú vang.”
(Trích Gọi con - Bảo Ninh, theo Văn bản đọc hiểu Ngữ văn 10, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2022)
Thực hiện các yêu cầu:
Câu 1 [706578]: Đoạn trích viết về đề tài nào?
Đoạn trích viết về đề tài chiến tranh - hậu chiến.
Câu 2 [706579]: Đoạn trích được kể bởi ngôi kể thứ mấy?
Đoạn trích được kể bởi ngôi kể thứ ba.
Câu 3 [706580]: Đúng là Tân từng có một cậu em trai, nhưng đã từ lâu lắm rồi. Đến nỗi, có lần làm lí lịch tự khai, Tân đã quên không ghi Nghĩa vào. Có lẽ cả ông anh, bà chị của Tân cũng vậy. Quen nói ba chị em mình, dần dần trong tâm thức họ, hình bóng người em út cứ lẳng lặng phai mờ, rồi tắt hẳn đi lúc nào không hay. Tất nhiên là thoảng hoặc Tân cũng chợt nhớ. Và anh gắng mường tượng lại gương mặt Nghĩa, mà không được.
Đoạn văn trên khiến anh/ chị hiểu gì về tình cảm của những người thân trong gia đình Tân dành cho Nghĩa?
Đoạn văn trên khiến anh/ chị hiểu gì về tình cảm của những người thân trong gia đình Tân dành cho Nghĩa?
Đúng là Tân từng có một cậu em trai, nhưng đã từ lâu lắm rồi. Đến nỗi, có lần làm lí lịch tự khai, Tân đã quên không ghi Nghĩa vào. Có lẽ cả ông anh, bà chị của Tân cũng vậy. Quen nói ba chị em mình, dần dần trong tâm thức họ, hình bóng người em út cứ lẳng lặng phai mờ, rồi tắt hẳn đi lúc nào không hay. Tất nhiên là thoảng hoặc Tân cũng chợt nhớ. Và anh gắng mường tượng lại gương mặt Nghĩa, mà không được.
Đoạn văn trên cho thấy sự thờ ơ, dửng dưng, vô tâm, vô tình của những người thân trong gia đình Tân dành cho Nghĩa.
Đoạn văn trên cho thấy sự thờ ơ, dửng dưng, vô tâm, vô tình của những người thân trong gia đình Tân dành cho Nghĩa.
Câu 4 [706581]: Nội dung lá thư trong đoạn trích cho thấy tình cảm nào của người mẹ dành cho Nghĩa?
Nội dung lá thư trong đoạn trích cho thấy tình yêu thương con vô hạn của người mẹ dành cho Nghĩa:
- Nỗi lo cho sự an nguy của con: ở rừng (...) chớ có ngủ trưa, vì bị ngã nước đấy, có báo động dù chưa tiếng tàu bay vẫn phải “tăng xế” xuống ngay, Uống rượu, hút thuốc hỏng đời, con ạ, khi ốm đau cảm cúm, nhất là chẳng may mà sốt rét thì đem đổi lấy thịt thà, rau quả mà bồi dưỡng cho chóng lại).
- Nỗi xót xa đến đến đắng lòng (mẹ thì ở xa chẳng lo được cho con..., Thương mẹ, thương cha, con phải tự thương xót lấy mình, con nhé.).
- Nỗi lo cho sự an nguy của con: ở rừng (...) chớ có ngủ trưa, vì bị ngã nước đấy, có báo động dù chưa tiếng tàu bay vẫn phải “tăng xế” xuống ngay, Uống rượu, hút thuốc hỏng đời, con ạ, khi ốm đau cảm cúm, nhất là chẳng may mà sốt rét thì đem đổi lấy thịt thà, rau quả mà bồi dưỡng cho chóng lại).
- Nỗi xót xa đến đến đắng lòng (mẹ thì ở xa chẳng lo được cho con..., Thương mẹ, thương cha, con phải tự thương xót lấy mình, con nhé.).
Câu 5 [706582]: Ghi lại cảm nhận của anh/ chị về chủ đề của đoạn trích (trình bày khoảng 5 - 7 dòng).
- Chủ đề của đoạn trích: Nỗi buồn đau, mất mát trong chiến tranh/ tình yêu thương con của người mẹ (có con đi chiến đấu và không trở về).
- (Chiến tranh, người lính là những đề tài quen thuộc trong văn học Việt Nam giai đoạn từ năm 1945 - 1975. Sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ kết thúc, nhiều sáng tác văn chương vẫn viết về những đề tài này song có sự khác biệt trong cách tiếp cận. Nhiều sáng tác đi sâu vào nỗi đau thời hậu chiến như tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, các truyện ngắn Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành của Nguyễn Minh Châu, Người sót lại của Rừng Cười của Võ Thị Hảo, Lời hứa của thời gian của Nguyễn Quang Thiều,...). Truyện ngắn Gọi con nói chúng và đoạn trích (trong ngữ liệu phần Đọc hiểu) nói riêng là đề cập đến những mất mát, đau thương không gì có thể bù đắp nổi của một người mẹ có con trai đi chiến đấu và hi sinh. Nỗi đau ấy, người mẹ giữ riêng cho mình và chính điều này khiến người đọc không thể không nghĩ đến sự vĩ đại của người mẹ, của hết thảy những bà mẹ Việt Nam như bà trong chiến tranh.
- (Chiến tranh, người lính là những đề tài quen thuộc trong văn học Việt Nam giai đoạn từ năm 1945 - 1975. Sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ kết thúc, nhiều sáng tác văn chương vẫn viết về những đề tài này song có sự khác biệt trong cách tiếp cận. Nhiều sáng tác đi sâu vào nỗi đau thời hậu chiến như tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, các truyện ngắn Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành của Nguyễn Minh Châu, Người sót lại của Rừng Cười của Võ Thị Hảo, Lời hứa của thời gian của Nguyễn Quang Thiều,...). Truyện ngắn Gọi con nói chúng và đoạn trích (trong ngữ liệu phần Đọc hiểu) nói riêng là đề cập đến những mất mát, đau thương không gì có thể bù đắp nổi của một người mẹ có con trai đi chiến đấu và hi sinh. Nỗi đau ấy, người mẹ giữ riêng cho mình và chính điều này khiến người đọc không thể không nghĩ đến sự vĩ đại của người mẹ, của hết thảy những bà mẹ Việt Nam như bà trong chiến tranh.
II. VIẾT (6,0 điểm)
Câu 6 [706583]: (2,0 điểm)
Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) phân tích các chi tiết sau đây trong đoạn trích ở phần Đọc hiểu:
- Tân chỉ nhớ là hồi đó anh không có nghĩ ngợi nào khác ngoài học và học, học thật giỏi, hạnh kiểm thật đẹp để xong lớp 10 được đi học nước ngoài như anh trai, như chị gái.
- Mẹ thì tất nhiên là thương xót hết mực thằng con út không có được đường đời dễ dàng, êm thấm như các anh chị của nó.
Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) phân tích các chi tiết sau đây trong đoạn trích ở phần Đọc hiểu:
- Tân chỉ nhớ là hồi đó anh không có nghĩ ngợi nào khác ngoài học và học, học thật giỏi, hạnh kiểm thật đẹp để xong lớp 10 được đi học nước ngoài như anh trai, như chị gái.
- Mẹ thì tất nhiên là thương xót hết mực thằng con út không có được đường đời dễ dàng, êm thấm như các anh chị của nó.
Đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) phân tích chi tiết trong đoạn trích từ truyện ngắn Gọi con (Bảo Ninh) ở phần Đọc hiểu có thể được triển khai theo hướng:
- Bảo Ninh: một trong những gương mặt tiêu biểu của văn xuôi Việt Nam đương đại. Nhiều sáng tác của Bảo Ninh viết về mảng đề tài chiến tranh - hậu chiến - người lính và đạt được những thành công vang dội. (Tiêu biểu có thể kể đến tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh, các truyện ngắn Gió dại, Hà Nội lúc 0 giờ,...)
- Gọi con là một trong những truyện ngắn đặc sắc của Bảo Ninh về đề tài chiến tranh - hậu chiến. Truyện có những chi tiết khơi ngợi nhiều nghĩ suy.
+ Chi tiết thứ nhất mang đến cho người đọc thông tin về lí tưởng của Tân thuở trước: khao khát học giỏi, hạnh kiểm đẹp để được đi học nước ngoài như anh trai, chị gái.
+ Chi tiết thứ hai bên cạnh việc bộc lộ nỗi lòng của người mẹ còn thông tin đến người đọc về lựa chọn khác biệt của Nghĩa - người con út trong nhà, em út của ba anh chị trước đó. Nghĩa không lựa chọn đường đời dễ dàng, êm thấm - đi học nước ngoài - như các anh chị của mình. Kết nối chi tiết này với đoạn trích, chúng ta có thể nhận ra ngay lựa chọn của Nghĩa: đi bộ đội.
+ Các nhân vật Tân, anh trai chị gái của Tân, Nghĩa là bốn người con trong một gia đình cán bộ, thuộc diện khá nhất trong khu tập thể nhưng rõ ràng họ không cùng chí hướng, không cùng lí tưởng sống. Lí tưởng với Nghĩa là chiến đấu vì hoà bình, thống nhất cho nhân dân, đất nước, là vị tha, hi sinh. Trong khi đó, lí tưởng của Tân và các anh chị của anh là vì cuộc sống của chính mình, là vị kỉ.
- Bảo Ninh không đặt ra vấn đề đúng - sai, tốt - xấu trong lựa chọn của mỗi nhân vật. (Phải vậy chăng mà ông chọn điểm nhìn của Tân để câu chuyện hiện lên chân thực, thành thực hơn). Có lẽ ông muốn trao quyền phán xét tới bạn đọc. Song, chắc hẳn nhà văn muốn qua câu chuyện của một gia đình để bạn đọc có thể chiêm nghiệm nhiều hơn về sự hi sinh của những người như Nghĩa (và về nỗi đau thầm lặng của những người mẹ như bà mẹ của Nghĩa, Tân,...).
Các chi tiết nhẹ nhàng, giản dị nhưng buộc bạn đọc phải chiêm nghiệm kĩ lưỡng để có những kiến giải riêng cho chính mình một cách công bằng về mỗi nhân vật.
- Bảo Ninh: một trong những gương mặt tiêu biểu của văn xuôi Việt Nam đương đại. Nhiều sáng tác của Bảo Ninh viết về mảng đề tài chiến tranh - hậu chiến - người lính và đạt được những thành công vang dội. (Tiêu biểu có thể kể đến tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh, các truyện ngắn Gió dại, Hà Nội lúc 0 giờ,...)
- Gọi con là một trong những truyện ngắn đặc sắc của Bảo Ninh về đề tài chiến tranh - hậu chiến. Truyện có những chi tiết khơi ngợi nhiều nghĩ suy.
+ Chi tiết thứ nhất mang đến cho người đọc thông tin về lí tưởng của Tân thuở trước: khao khát học giỏi, hạnh kiểm đẹp để được đi học nước ngoài như anh trai, chị gái.
+ Chi tiết thứ hai bên cạnh việc bộc lộ nỗi lòng của người mẹ còn thông tin đến người đọc về lựa chọn khác biệt của Nghĩa - người con út trong nhà, em út của ba anh chị trước đó. Nghĩa không lựa chọn đường đời dễ dàng, êm thấm - đi học nước ngoài - như các anh chị của mình. Kết nối chi tiết này với đoạn trích, chúng ta có thể nhận ra ngay lựa chọn của Nghĩa: đi bộ đội.
+ Các nhân vật Tân, anh trai chị gái của Tân, Nghĩa là bốn người con trong một gia đình cán bộ, thuộc diện khá nhất trong khu tập thể nhưng rõ ràng họ không cùng chí hướng, không cùng lí tưởng sống. Lí tưởng với Nghĩa là chiến đấu vì hoà bình, thống nhất cho nhân dân, đất nước, là vị tha, hi sinh. Trong khi đó, lí tưởng của Tân và các anh chị của anh là vì cuộc sống của chính mình, là vị kỉ.
- Bảo Ninh không đặt ra vấn đề đúng - sai, tốt - xấu trong lựa chọn của mỗi nhân vật. (Phải vậy chăng mà ông chọn điểm nhìn của Tân để câu chuyện hiện lên chân thực, thành thực hơn). Có lẽ ông muốn trao quyền phán xét tới bạn đọc. Song, chắc hẳn nhà văn muốn qua câu chuyện của một gia đình để bạn đọc có thể chiêm nghiệm nhiều hơn về sự hi sinh của những người như Nghĩa (và về nỗi đau thầm lặng của những người mẹ như bà mẹ của Nghĩa, Tân,...).
Các chi tiết nhẹ nhàng, giản dị nhưng buộc bạn đọc phải chiêm nghiệm kĩ lưỡng để có những kiến giải riêng cho chính mình một cách công bằng về mỗi nhân vật.
Câu 7 [706584]: (4,0 điểm)
Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ), trình bày suy nghĩ của anh/ chị về câu nói sau đây:
Nếu bạn muốn giữ hạnh phúc, bạn phải chia sẻ nó. (Dale Carnegie)
Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ), trình bày suy nghĩ của anh/ chị về câu nói sau đây:
Nếu bạn muốn giữ hạnh phúc, bạn phải chia sẻ nó. (Dale Carnegie)
Bài văn trình bày suy nghĩ về câu nói của Dale Carnegie: Nếu bạn muốn giữ hạnh phúc, bạn phải chia sẻ nó. có thể được triển khai nhiều cách. Song cần bảo đảm các ý:
1. Mở bài (gián tiếp)
- Dẫn dắt vấn đề
- Nêu vấn đề
2. Thân bài
- Giải thích ngắn gọn câu nói:
+ Câu nói đặt ra mối quan hệ kết quả - điều kiện/ cách thức: muốn giữ hạnh phúc - chia sẻ hạnh phúc. Ở đây cần hiểu chia sẻ ít nhất theo hai nghĩa:
• Nói ra, thông tin cho người khác hạnh phúc của mình, để họ chung vui với hạnh phúc của mình.
• San sẻ “bí quyết” có được hạnh phúc với mọi người, để mọi người cùng hạnh phúc như mình.
+ Câu nói là một lời khuyên về cách thức giữ hạnh phúc cho bản thân mình.
- Bình luận câu nói của Dale Carnegie:
+ Câu nói đúng. Bởi lẽ:
• Hạnh phúc là trạng thái sung sướng vì cảm thấy hoàn toàn đạt được ý nguyện (chẳng hạn: hạnh phúc khi đạt điểm cao, hạnh phúc khi được mẹ mua cho chiếc áo yêu thích, hạnh phúc khi được người bạn mình thầm thương mến ngỏ lời, hạnh phúc khi được chia sẻ với những người khó khăn hơn mình,...). Vậy nên, còn gì vui hơn khi niềm hạnh phúc của mình được nhiều người biết đến. Những người yêu thương mình ắt sẽ rất vui vì hạnh phúc của mình, mình sẽ thêm vui, thêm hạnh phúc khi thấy niềm hạnh phúc của mình làm hân hoan những người mình thương yêu. (Bố mẹ sẽ rất vui khi con chăm ngoan, học giỏi, đạt thành tích tốt; những người bạn chân thành sẽ không tiếc lời khen chiếc áo mới của ta và xuýt xoa ao ước có được nó;...).
• Khi mình sẵn sàng chia sẻ cách thức để có được niềm vui, sung sướng, hạnh phúc với mọi người, thành quả đạt được có thể là nhiều người cũng sẽ được vui sướng, hạnh phúc như mình. Theo đó, hạnh phúc sẽ được cộng lên, nhân lên gấp bội. (Khi một người bạn chia sẻ với một người bạn cách giải nhanh hơn, chính xác hơn cho bài toán này, chắc chắn bạn chia sẻ sẽ rất vui vì nhớ lâu hơn bài học và bạn được chia sẻ cũng sẽ rất vui vì biết thêm cách giải hay, cách học hay; một em bé quyết định đập lợn tiết kiệm để ủng hộ các bạn nhỏ vùng cao những suất “cơm có thịt” chắc chắn sẽ rất hạnh phúc vì em biết em đã góp phần giúp những người bạn nhỏ như em có thêm suất ăn no hơn, ngon hơn; một người trẻ thành công với mô hình khởi nghiệp của mình chắc chắn sẽ hạnh phúc hơn nữa khi thấy mô hình ấy được lan toả rộng rãi, để thêm nhiều người có được công ăn việc làm và thu nhập ổn định;...).
+ Mỗi người có thể chia sẻ hạnh phúc với mọi người của mình bằng cách:
• Công khai thông tin, thông báo với mọi người niềm vui của mình: một cuốn sách hay, một chiếc điện thoại mới, một tấm bằng tốt nghiệp đại học xuất sắc, một dự án khởi nghiệp với những kết quả đáng mừng,...
• Tuyệt vời hơn nữa, chúng ta hãy đừng ngại ngần mà chia sẻ với mọi người cách thức thành công: phương pháp học tập hiệu quả, những vấn đề mấu chốt cần giải quyết để dự án được thành công, cách ứng phó với thiên tai, lũ lụt, cách vượt qua những thách thức trong đời sống,...
- Mở rộng:
+ Chia sẻ hạnh phúc cũng cần sự tinh tế. Sẽ là vô duyên, thậm chí vô tâm khi chúng ta tỏ ra sung sướng, hài lòng về điều mình đạt được trước những người đang chưa may mắn như ta (chẳng hạn: không nên reo vui, ồn ào khi mình đạt điểm cao trước mặt người bạn vừa nhận kết quả thấp; không nên khoe quần áo, giày dép hàng hiệu khi trước mặt ta là những người bạn có hoàn cảnh khó khăn hơn;...).
+ Sẽ là tinh tế và nhân văn hơn khi chúng ta biết chia sẻ hạnh phúc mình đạt được bằng cách giúp đỡ những người bạn của mình, những người chưa hạnh phúc như mình cách để có được hạnh phúc.
3. Kết bài
1. Mở bài (gián tiếp)
- Dẫn dắt vấn đề
- Nêu vấn đề
2. Thân bài
- Giải thích ngắn gọn câu nói:
+ Câu nói đặt ra mối quan hệ kết quả - điều kiện/ cách thức: muốn giữ hạnh phúc - chia sẻ hạnh phúc. Ở đây cần hiểu chia sẻ ít nhất theo hai nghĩa:
• Nói ra, thông tin cho người khác hạnh phúc của mình, để họ chung vui với hạnh phúc của mình.
• San sẻ “bí quyết” có được hạnh phúc với mọi người, để mọi người cùng hạnh phúc như mình.
+ Câu nói là một lời khuyên về cách thức giữ hạnh phúc cho bản thân mình.
- Bình luận câu nói của Dale Carnegie:
+ Câu nói đúng. Bởi lẽ:
• Hạnh phúc là trạng thái sung sướng vì cảm thấy hoàn toàn đạt được ý nguyện (chẳng hạn: hạnh phúc khi đạt điểm cao, hạnh phúc khi được mẹ mua cho chiếc áo yêu thích, hạnh phúc khi được người bạn mình thầm thương mến ngỏ lời, hạnh phúc khi được chia sẻ với những người khó khăn hơn mình,...). Vậy nên, còn gì vui hơn khi niềm hạnh phúc của mình được nhiều người biết đến. Những người yêu thương mình ắt sẽ rất vui vì hạnh phúc của mình, mình sẽ thêm vui, thêm hạnh phúc khi thấy niềm hạnh phúc của mình làm hân hoan những người mình thương yêu. (Bố mẹ sẽ rất vui khi con chăm ngoan, học giỏi, đạt thành tích tốt; những người bạn chân thành sẽ không tiếc lời khen chiếc áo mới của ta và xuýt xoa ao ước có được nó;...).
• Khi mình sẵn sàng chia sẻ cách thức để có được niềm vui, sung sướng, hạnh phúc với mọi người, thành quả đạt được có thể là nhiều người cũng sẽ được vui sướng, hạnh phúc như mình. Theo đó, hạnh phúc sẽ được cộng lên, nhân lên gấp bội. (Khi một người bạn chia sẻ với một người bạn cách giải nhanh hơn, chính xác hơn cho bài toán này, chắc chắn bạn chia sẻ sẽ rất vui vì nhớ lâu hơn bài học và bạn được chia sẻ cũng sẽ rất vui vì biết thêm cách giải hay, cách học hay; một em bé quyết định đập lợn tiết kiệm để ủng hộ các bạn nhỏ vùng cao những suất “cơm có thịt” chắc chắn sẽ rất hạnh phúc vì em biết em đã góp phần giúp những người bạn nhỏ như em có thêm suất ăn no hơn, ngon hơn; một người trẻ thành công với mô hình khởi nghiệp của mình chắc chắn sẽ hạnh phúc hơn nữa khi thấy mô hình ấy được lan toả rộng rãi, để thêm nhiều người có được công ăn việc làm và thu nhập ổn định;...).
+ Mỗi người có thể chia sẻ hạnh phúc với mọi người của mình bằng cách:
• Công khai thông tin, thông báo với mọi người niềm vui của mình: một cuốn sách hay, một chiếc điện thoại mới, một tấm bằng tốt nghiệp đại học xuất sắc, một dự án khởi nghiệp với những kết quả đáng mừng,...
• Tuyệt vời hơn nữa, chúng ta hãy đừng ngại ngần mà chia sẻ với mọi người cách thức thành công: phương pháp học tập hiệu quả, những vấn đề mấu chốt cần giải quyết để dự án được thành công, cách ứng phó với thiên tai, lũ lụt, cách vượt qua những thách thức trong đời sống,...
- Mở rộng:
+ Chia sẻ hạnh phúc cũng cần sự tinh tế. Sẽ là vô duyên, thậm chí vô tâm khi chúng ta tỏ ra sung sướng, hài lòng về điều mình đạt được trước những người đang chưa may mắn như ta (chẳng hạn: không nên reo vui, ồn ào khi mình đạt điểm cao trước mặt người bạn vừa nhận kết quả thấp; không nên khoe quần áo, giày dép hàng hiệu khi trước mặt ta là những người bạn có hoàn cảnh khó khăn hơn;...).
+ Sẽ là tinh tế và nhân văn hơn khi chúng ta biết chia sẻ hạnh phúc mình đạt được bằng cách giúp đỡ những người bạn của mình, những người chưa hạnh phúc như mình cách để có được hạnh phúc.
3. Kết bài