I. ĐỌC HIỂU (4,0 điểm)
Đọc đoạn trích:
“Bộ phim tài liệu nổi tiếng "Chuyện tử tế" bắt đầu từ câu chuyện ngày giỗ đầu của nhà quay phim Đồng Xuân Thuyết (1940 - 1986). Những thước phim hồi tưởng lại hình ảnh đạo diễn Trần Văn Thủy với nhà quay phim Đồng Xuân Thuyết. Trên giường bệnh, nhà quay phim Đồng Xuân Thuyết tâm sự với bạn bè, sau những cơn đau xé ruột thì những lúc tỉnh táo thì ông thích đọc sách và rất thích đoạn luận về tâm hồn và thể xác trong cuốn sách "Quy luật của muôn đời" của nhà văn Nga Dumbatzê.
[...]
Hành trình bộ phim cứ thế trên chặng đường đi tìm những câu chuyện tử tế, trả lời cho câu hỏi “Thế nào là sự tử tế?”. Đạo diễn Trần Văn Thủy đã kéo mạch phim đi theo những phận đời, những hoàn cảnh sống khác nhau. Đó là hình ảnh một giáo viên dạy Toán giỏi phải đi bán rau kiếm sống. Đó cũng là hình ảnh cựu chiến binh từng chiến đấu dũng cảm 8 lần bị thương, với đời thường lăn lộn kiếm sống qua ngày bằng công việc sửa xe đạp...
Lấy đi nhiều nước mắt của người xem trong phim là hình ảnh cậu bé có người mẹ bị hủi. Vì thương con, và chịu sự kì thị của người đời, người mẹ ấy chỉ biết đêm đêm, trong cái tối tăm, dù gió bấc mưa phùn vẫn miệt mài đóng từng viên gạch để xây ngôi nhà cho con. Hạnh phúc cuối cùng cũng mỉm cười khi người mẹ hủi ấy được bác sĩ cứu chữa và trở về với cậu con trai. Hình ảnh mẹ dắt con đi dọc bờ sông khiến người xem ấm lòng đến lạ. Đó cũng là một câu chuyện tử tế.
Năm 2016, nhân dịp hơn 30 năm bộ phim "Chuyện tử tế" được giới thiệu với công chúng, đạo diễn Trần Văn Thủy có chia sẻ rằng, khát vọng của xã hội gồm có những người tử tế, xã hội không có người tử tế thì khó sống lắm. “Trong môi trường đạo đức này, xuất phát từ việc giáo dục chân chính, giáo dục đầu tiên phải dạy là làm người”, ông nói.
Có người nói đạo diễn Trần Văn Thủy dũng cảm khi làm phim, nhưng ông nói mình không nghĩ tới sự dũng cảm nào cả, mà việc tới thì phải làm, phải có trách nhiệm với đất nước. Và cũng bởi tình yêu quê hương đất nước, mong muốn một cuộc sống tốt đẹp hơn, nên ông không có gì phải sợ, và làm phải bằng hết khả năng của mình trong công việc.
[...]
"Chuyện tử tế" là một bộ phim tài liệu nổi tiếng của đạo diễn Trần Văn Thủy, được sản xuất năm 1985. Bộ phim được xem là “siêu phẩm” của Việt Nam khi một tác phẩm phim tài liệu được chiếu độc lập ngoài các rạp chiếu phim, với các suất chiếu dày đặc, thay vì thói quen là phim tài liệu là để “chiếu kèm với phim truyện”. Tác phẩm này cũng là tập 2 của bộ phim tài liệu gây tiếng vang trước đó - "Hà Nội trong mắt ai" (năm 1982) của đạo diễn Trần Văn Thuỷ.
"Chuyện tử tế" đã giành giải Bồ câu bạc tại Liên hoan phim Quốc tế Leipzig, Cộng hòa Dân chủ Đức và được 12 đài truyền hình quốc tế mua bản quyền để phát lại. Cho đến nay đây vẫn được đánh giá là một trong những bộ phim tài liệu xuất sắc nhất của đạo diễn Trần Văn Thủy cùng với các tác phẩm nổi tiếng của ông như "Những người dân quê tôi", "Hà Nội trong mắt ai", "Tiếng vĩ cầm ở Mỹ Lai",...
Với những sự chiêm nghiệm ở hiện tại, sức sống của bộ phim còn nguyên giá trị, khi câu chuyện về “việc tử tế, người tử tế” vẫn là đề tài bàn luận hàng ngày trên các phương tiện truyền thông, mạng xã hội. Không ít khán giả sau khi xem bộ phim này đã cho rằng “Chuyện tử tế tưởng đơn giản, nhưng làm được lại không đơn giản. Bộ phim này lột tả được một phần lớn thực trạng thời bấy giờ và thời nay”; hay “Một bộ phim đi trước thời đại với những triết lí đơn giản của cuộc sống”. Bởi vậy, nếu có thể bạn hãy dành chút thời lượng để xem lại tác phẩm từng được nhận định là “một trong những bộ phim tài liệu cần thiết công chiếu cho nhân loại” này.”
(Trích Phim hay vượt thời gian: “Chuyện tử tế” - Hãy bền bỉ đánh thức nó! - Hoàng Vân, theo dantri.com.vn)
Thực hiện các yêu cầu:
Câu 1 [702281]: Đoạn trích gồm mấy phần? Chỉ ra nội dung chính của từng phần.
Đoạn trích có thể chia làm hai phần lớn:
- Phần thứ nhất (từ đầu đến khả năng của mình trong công việc): Giới thiệu về bộ phim “Chuyện tử tế”:
+ Giới thiệu nội dung của bộ phim (từ đầu đến Đó cũng là một câu chuyện tử tế.)
+ Chia sẻ của đạo diễn Trần Văn Thuỷ về động lực làm phim (tiếp theo đến khả năng của mình trong công việc)
- Phần thứ hai (còn lại): Đánh giá giá trị của bộ phim “Chuyện tử tế”:
+ “Chuyện tử tế” là một “siêu phẩm” với các suất chiếu dày đặc (từ “Chuyện tử tế” là một bộ phim tài liệu nổi tiếng đến của đạo diễn Trần Văn Thuỷ.)
+ Giải thưởng Bồ câu bạc tại Liên hoan phim Quốc tế Leipzig, Cộng hòa Dân chủ Đức (tiếp theo đến “Tiếng vĩ cầm ở Mỹ Lai”,...)
+ “Chuyện tử tế” qua cảm nhận, bình luận của khán giả (còn lại)
Câu 2 [702282]: Trong đoạn trích, bằng chứng nào được sử dụng để chứng tỏ bộ phim Chuyện tử tế lấy đi nhiều nước mắt của người xem?
Trong đoạn trích, bằng chứng được sử dụng để chứng tỏ bộ phim Chuyện tử tế lấy đi nhiều nước mắt của người xem là hình ảnh cậu bé có người mẹ bị hủi. Vì thương con, và chịu sự kì thị của người đời, người mẹ đêm đêm miệt mài đóng từng viên gạch để xây ngôi nhà cho con. Thật may mắn, sau đó người mẹ hủi ấy được bác sĩ cứu chữa và trở về với cậu con trai. Hình ảnh mẹ dắt con đi dọc bờ sông khiến người xem ấm lòng đến lạ.
Câu 3 [702283]: Với những sự chiêm nghiệm ở hiện tại, sức sống của bộ phim còn nguyên giá trị, khi câu chuyện về “việc tử tế, người tử tế” vẫn là đề tài bàn luận hàng ngày trên các phương tiện truyền thông, mạng xã hội.
Chi tiết trên có ý nghĩa gì?
Với những sự chiêm nghiệm ở hiện tại, sức sống của bộ phim còn nguyên giá trị, khi câu chuyện về “việc tử tế, người tử tế” vẫn là đề tài bàn luận hàng ngày trên các phương tiện truyền thông, mạng xã hội.
Chi tiết trên không chỉ khẳng định giá trị, sức sống của bộ phim tài liệu “Chuyện tử tế” (đạo diễn Trần Văn Thuỷ) mà còn khẳng định tính thời sự của bộ phim trong thời đại hôm nay. Nó cũng cho thấy sự quan tâm của mọi người tới sự tử tế trong cuộc đời.
Câu 4 [702284]: Đoạn trích bộc lộ tình cảm, thái độ nào của người viết trước đối tượng được giới thiệu?
Đoạn trích bộc lộ nỗi xúc động của người viết khi tái hiện hành trình thực hiện bộ phim “Chuyện tử tế” (Lấy đi nhiều nước mắt của người xem, khiến người xem ấm lòng đến lạ); đồng tình với những đánh giá khẳng định, ngợi ca thành công và giá trị của bộ phim (bộ phim tài liệu nổi tiếng, được xem là “siêu phẩm”, một trong những bộ phim tài liệu xuất sắc nhất của đạo diễn Trần Văn Thủy,...); nhiệt tình quảng bá, lan toả bộ phim tới mọi người (hãy dành chút thời lượng để xem lại tác phẩm);...
Câu 5 [702285]: Anh/Chị có đồng tình với ý kiến cho rằng: xã hội không có người tử tế thì khó sống lắm không? Vì sao?
Thí sinh có thể đồng tình/ không đồng tình/ đồng tình một phần với ý kiến xã hội không có người tử tế thì khó sống lắm song cần lí giải rõ nguyên nhân. Chẳng hạn:
- Tôi đồng tình với ý kiến xã hội không có người tử tế thì khó sống lắm bởi nếu không có người tử tế thì cái xấu, cái ác sẽ lên ngôi, ngự trị và cuộc sống sẽ toàn điều tồi tệ, đau thương.
Hoặc:
- Tôi không đồng tình với ý kiến xã hội không có người tử tế thì khó sống lắm bởi không có xã hội nào lại chỉ có người xấu xa, độc ác.
Hoặc:
- Tôi vừa đồng tình vừa không đồng tình với ý kiến xã hội không có người tử tế thì khó sống lắm...
- Thí sinh kết hợp lí do ở hai gợi ý trên để trả lời nguyên do.
II. VIẾT (6,0 điểm)
Câu 6 [702286]: (2,0 điểm)
Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về ý nghĩa của lối sống tử tế trong xã hội.
Đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ về ý nghĩa của lối sống tử tế trong xã hội có thể được triển khai theo hướng:
- Thể hiện lối ứng xử đẹp của con người; làm cho mỗi người tử tế được trân trọng, yêu quý;
- Gắn kết người với người; góp phần đẩy lùi cái xấu, cái ác trong xã hội, mang lại điều tốt đẹp cho cuộc sống; tạo nên niềm tin, tình yêu ở con người đối với cuộc sống; lan toả lối ứng xử đẹp tới mọi người;...
(Dẫn chứng: chương trình “Việc tử tế” nhằm ca ngợi và lan tỏa những việc làm tử tế; dự án nuôi em qua MV “Nấu ăn cho em” của rapper Đen Vâu đóng góp được hơn 1 tỷ đồng để ủng hộ cho các tổ chức, quỹ thiện nguyện, nuôi cơm và xây trường cho các em nhỏ ở vùng sâu vùng xa; ông Trương Văn Kiềm ở miền Tây đã dành 20 năm xây dựng 582 ngôi nhà cho người nghèo...)
Câu 7 [702287]: (4,0 điểm)
Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ), phân tích bi kịch của nhân vật Hồn Trương Ba trong đoạn trích sau:
“Anh con trai: Thế nào là lừa đảo? (Lắc đầu) Tính nết thầy vẫn chẳng thay đổi gì... Tôi tưởng bây giờ thầy phải nghĩ khác đi rồi cơ... Tôi nói thầy nghe nhé: đến cái thân thầy mang cũng không phải của thầy, chẳng qua thầy núp nhờ vào đó thôi... So với việc ấy, việc gian lận lừa đảo một vài món hàng của tôi ngoài chợ, nào có nghĩa lí gì!
Hồn Trương Ba: Nhưng tao có muốn vậy đâu, có thích thú gì đâu!
Anh con trai: Thầy muốn hay không thì sự thể vẫn là như vậy. Một khi đã mưu cầu được sống với bất cứ giá nào thì cũng chẳng nên chê việc này thơm, việc kia hôi!
Hồn Trương Ba: Thằng khốn kiếp! (Quát to) - Im ngay!
Vợ Trương Ba: Ông đừng quát lên thế nữa! Mà tiếng ông bây giờ có nhỏ nhẹ như trước đâu, ông quát lên như sấm ấy, nghe sợ lắm!
Hồn Trương Ba: (Cáu) Ra nói to tôi cũng không có quyền nữa sao? Cả cái tiếng của tôi cũng không là của tôi nữa sao? Hả? Hả? (Lại quát to hơn. Tiếng quát như lệnh vỡ gầm lên vang động khắp nhà. Mọi người trong nhà im thin thít. Cái Gái từ buồng trong ra, chăm chú nhìn Hồn Trương Ba).
Anh con trai: (Nhếch mép) Thầy cứ quát cho hả giận, cũng chẳng thay đổi gì được đâu. Chẳng phải chỉ cái giọng, toàn bộ cái lốt thầy mang giờ đã chẳng phải của thầy. Bản thân con người thầy đứng kia đã là một cái gì... một cái gì... không ngay thật rồi!
Chị con dâu: Nhà, không được nói thế!
Vợ Trương Ba: Cả! Mày nỡ nói vậy sao?
Anh con trai: Tôi chỉ nói sự thật. Lạ quá, tại sao mọi người lại sợ sự thật nhỉ?
Hồn Trương Ba: Mày bước ngay đi, bước đi với những việc làm ăn của mày, những sự thật gớm ghiếc của mày!
Anh con trai: Gớm ghiếc? Cả nhà cứ việc khinh thị tôi. Thử hỏi nhờ ai mà giữa thời buổi này nhà ta còn được đàng hoàng tươm tất như vậy? Cả thầy nữa, giờ thầy ăn mỗi bữa tám, chín bát cơm, rồi nào rượu, nào thịt,... Tiền làm ruộng làm vườn của u mà đủ cung phụng thầy chắc? Tiền làm vườn chỉ đủ nuôi thân ông Trương Ba chứ không đủ nuôi ông hàng thịt. U lo thắt ruột, nhưng không dám hé răng với thầy, chỉ còn biết trông cậy vào tôi, vào đồng tiền tôi buôn bán chạy chợ mang về... Thầy còn xỉ vả tôi nỗi gì? Đã đến nước này, thầy còn cao đạo!
Hồn Trương Ba: (Lắp bắp) Mày... mày... (Tát mạnh anh con trai. Anh con trai ngã xuống, lồm cồm đứng dậy, ôm má. Vợ Trương Ba và chị con dâu kêu lên).”
(Trích Hồn Trương Ba, da hàng thịt - Lưu Quang Vũ, theo Văn bản đọc hiểu Ngữ văn 11, NXB Đại học Huế, 2023)

Bài văn phân tích bi kịch của nhân vật Hồn Trương Ba trong đoạn trích có thể triển khai theo nhiều cách, song cần bảo đảm các ý chính:
* Giới thiệu khái quát tác giả, tác phẩm, đoạn trích
- Lưu Quang Vũ:
+ Vị trí: là “hiện tượng” đặc biệt của sân khấu kịch những năm 80 của thế kỉ XX, một trong những nhà soạn kịch tài năng của nền văn học nghệ thuật Việt Nam hiện đại.
+ Sức hấp dẫn của kịch Lưu Quang Vũ nằm ở chiều sâu những giá trị muôn thuở được thể hiện qua ngôn ngữ kịch vừa đời thường, vừa thấm đẫm chất thơ cùng màu sắc triết lí nhân sinh.
- Hồn Trương Ba, da hàng thịt:
+ Là một trong những vở kịch đặc sắc nhất của Lưu Quang Vũ, đã công diễn nhiều lần trên sân khấu trong và ngoài nước
+ Từ một cốt truyện dân gian, Lưu Quang Vũ đã xây dựng thành một vở kịch nói hiện đại, đặt ra nhiều vấn đề mới mẻ, có ý nghĩa tư tưởng, triết lí và nhân văn sâu sắc.
+ Khái quát nội dung vở kịch: Trương Ba giỏi đánh cờ bị Nam Tào bắt chết nhầm. Vì muốn sửa sai, nên Nam Tào và Đế Thích cho hồn Trương Ba sống lại, nhập vào xác hàng thịt vừa mới chết. Trú nhờ linh hồn trong thể xác hàng thịt, Trương Ba gặp rất nhiều phiền toái: lí trưởng sách nhiễu, chị hàng thịt đòi chồng, gia đình Trương Ba cũng cảm thấy xa lạ... mà bản thân Trương Ba thì đau khổ vì phải sống trái tự nhiên, giả tạo. Đặc biệt thân xác hàng thịt làm Trương Ba nhiễm một số thói xấu và có những nhu cầu vốn không phải của chính bản thân ông. Trước nguy cơ tha hoá về nhân cách và sự phiền toái do mượn thân xác của kẻ khác, Trương Ba quyết định trả lại xác cho hàng thịt và chấp nhận cái chết.
- Đoạn trích:
* Phân tích bi kịch của nhân vật Hồn Trương Ba trong đoạn trích
- “Bi kịch”: tình cảnh éo le, trắc trở, đau thương.
- Bi kịch của nhân vật Hồn Trương Ba trong đoạn trích:
+ Trong đoạn trích, Hồn Trương Ba ở bên nhà mình, trong gia đình mình, đối thoại với những người thân của mình (vợ Trương Ba, anh con trai, cô con dâu, cháu gái).
+ Bi kịch của Trương Ba:
• Tình cảnh éo le, ngang trái của Hồn Trương Ba: sống nhờ sống gửi trong thân xác của anh hàng thịt. Chính anh con trai Hồn Trương Ba đã hơn một lần phơi bày tình cảnh này của bố: “cái thân thầy mang cũng không phải của thầy, chẳng qua thầy núp nhờ vào đó”, “toàn bộ cái lốt thầy mang giờ đã chẳng phải của thầy”. Bản thân Hồn Trương Ba cũng cay đắng nhận ra đời sống vay mượn của mình: “Cả cái tiếng của tôi cũng không là của tôi nữa sao?”,
• Trong tình cảnh đó, Hồn Trương Ba đã thay đổi, dần nhiễm những thói xấu của anh hàng thịt, thậm chí có nguy cơ tha hoá. Những thay đổi của Hồn Trương Ba tiếp tục được người thân chỉ rõ (“tiếng ông bây giờ có nhỏ nhẹ như trước đâu, ông quát lên     như sấm ấy, nghe sợ lắm”, “giờ thầy ăn mỗi bữa tám, chín bát cơm, rồi nào rượu, nào thịt,...”); hành vi quát như lệnh vỡ rồi tát mạnh anh con trai là bằng chứng của nguy cơ tha hoá trong Hồn Trương Ba (Trước đây, sinh thời, Trương Ba là người hiền lành, chất phác, rất yêu thương gia đình.).
• Sự thay đổi của Hồn Trương Ba khiến trong gia đình ông có sự va chạm (giữa bố với con trai); người thân của ông sợ hãi khi nghe ông quát (Mọi người trong nhà im thin thít.); đau khổ khi chứng kiến Hồn Trương Ba tát anh con trai (Vợ Trương Ba và chị con dâu kêu lên.);...
Anh con trai Trương Ba ti tiện biện minh cho sự sai trái của mình bằng việc sống nhờ sống gửi của bố (“Tôi nói thầy nghe nhé: đến cái thân thầy mang cũng không phải của thầy, chẳng qua thầy núp nhờ vào đó thôi... So với việc ấy, việc gian lận lừa đảo một vài món hàng của tôi ngoài chợ, nào có nghĩa lí gì!”); lên án bố: “không ngay thật”, “còn cao đạo”.
• Chứng kiến gia đình rạn nứt, con trai làm điều xấu xa, vợ con, cháu gái đau khổ, Hồn Trương Ba cảm thấy bất lực tột cùng: “tao có muốn vậy đâu, có thích thú gì đâu”. Hành vi đánh anh con trai về bản chất phản ánh sự bất lực của Hồn Trương Ba trong tình cảnh éo le.
* Đánh giá chung
- Đoạn trích đã tô đậm bi kịch sống nhờ sống gửi, không được là chính mình của Hồn Trương Ba.
- Để khắc hoạ bi kịch của nhân vật, Lưu Quang Vũ đã đặt nhân vật trong màn đối thoại với người thân; để nhân vật tự thể hiện mình qua lời nói, hành động; đồng thời cũng để Hồn Trương Ba hiện lên qua lăng kính của nhân vật khác;... Các chỉ dẫn sân khấu cũng góp phần mô tả đặc điểm của nhân vật khá rõ nét.
- Đoạn trích bộc lộ kín đáo sự thấu hiểu, đồng cảm, yêu thương, sẻ chia của tác giả đối với nhân vật Hồn Trương Ba. Qua bi kịch của nhân vật, Lưu Quang Vũ đã gửi đến người đọc thông điệp giàu ý nghĩa: Con người sẽ lâm phải bi kịch đau đớn khi không được sống là chính mình.
<*> Tham khảo bài viết:
“Hồn Trương Ba, da hàng thịt” là một trong những vở kịch đặc sắc nhất của Lưu Quang Vũ được viết vào năm 1981 và được công diễn vào năm 1984. Từ một cốt truyện dân gian, tác giả đã xây dựng thành một vở kịch nói hiện đại, đặt ra nhiều vấn đề mới mẻ có ý nghĩa tư tưởng, gửi gắm triết lý nhân sinh sâu sắc qua bi kịch éo le của nhân vật hồn Trương Ba.

Trong truyện dân gian, Hồn Trương Ba nhập vào xác anh hàng thịt dẫn tới việc tranh chấp chồng của hai bà vợ phải đưa ra xử, bà Trương Ba thắng kiện được đưa chồng về. Lưu Quang Vũ khai thác tình huống kịch bắt đầu ở chỗ kết thúc của tích truyện dân gian. Khi hồn Trương Ba được sống trong xác anh hàng thịt, mọi sự càng trở nên rắc rối, éo le để rồi cuối cùng đau khổ, tuyệt vọng khiến Hồn Trương Ba không chịu nổi phải cầu xin Đế Thích cho mình được chết hẳn. Quá trình Hồn Trương Ba tự đấu tranh với chính bản thân mình để thoát khỏi nghịch cảnh trên cũng là hành trình để được sống là tôi toàn vẹn, sống là chính mình.
Đau khổ vì “trong một đằng, ngoài một nẻo”
Do sự vô tâm và tắc trách của Nam Tào, Trương Ba phải chết một cách oan uổng, Nam Tào sửa sai bằng cách cho hồn Trương Ba sống nhờ thể xác anh hàng thịt vừa mới chết. Sau mấy tháng sống trong tình trạng “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo”, nhân vật Hồn Trương Ba ngày càng trở nên xa lạ với bạn bè, người thân trong gia đình và tự chán ghét chính mình, muốn thoát ra khỏi nghịch cảnh trớ trêu.
Linh hồn nhân hậu, trong sạch, bản tính thẳng thắn của Trương Ba dần dần bị xác thịt thô lỗ của anh hàng thịt sai khiến, đứng trước nguy cơ bị tha hóa. Ý thức được điều đó, Hồn Trương Ba dằn vặt, đau khổ: “Ngồi ôm đầu một hồi lâu rồi vụt đứng dậy” với một lời độc thoại đầy khẩn thiết:
“- Không! Không! Tôi không muốn sống như thế này mãi! Tôi chán cái chỗ ở không phải là của tôi này lắm rồi! Cái thân thể kềnh càng, thô lỗ này, ta bắt đầu sợ mi, ta chỉ muốn rời xa mi tức khắc! Nếu cái hồn của ta có hình thù riêng nhỉ, để nó tách ra khỏi cái xác này, dù chỉ một lát”.
Hồn Trương Ba đã nhận thức sâu sắc về sự thay đổi của bản thân trong thân xác anh hàng thịt. Hồn bức bối, muốn thoát ra khỏi thân xác. Nhà văn Lưu Quang Vũ đã mở ra cuộc đối thoại giữa xác và hồn giúp nhân vật ý thức rõ hơn bi kịch của chính mình.
Trong cuộc đối thoại với xác anh hàng thịt, Hồn Trương Ba ở vào thế yếu, đuối lí bởi xác nói những điều mà dù muốn hay không muốn hồn vẫn phải thừa nhận (cái đêm khi ông đứng cạnh vợ anh hàng thịt với “tay chân run rẩy”, “hơi thở nóng rực”, “cổ nghẹn lại” và “suýt nữa thì...”. Đó là cảm giác “xao xuyến” trước những món ăn mà trước đây Hồn cho là “phàm”. Đó là cái lần ông tát thằng con ông “tóe máu mồm máu mũi”...). Xác lên mặt dạy đời, chỉ trích, châm chọc: Tuyên bố sức mạnh âm u, đui mù ghê gớm của mình; còn ve vãn hồn thỏa hiệp với “trò chơi tâm hồn” Vì: “Chẳng còn cách nào khác đâu”, “cả hai đã hòa nhau làm một rồi”.
Trước những “lí lẽ đê tiện” của xác ban đầu, Hồn Trương Ba nổi giận, khinh bỉ, mắng xác thịt hèn hạ, khẳng định “ta có đời sống riêng, nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn”. Sau đó, hồn ngậm ngùi thấm thía nghịch cảnh của mình nên chỉ nói những lời thoại ngắn với giọng nhát gừng kèm theo những tiếng than, tiếng kêu. Có thể nói, sau khi đối thoại với xác hàng thịt, dù đã nhận ra nghịch cảnh của bản thân, thấy được nguy cơ tha hóa và bị cái dung tục ngự trị, lấn át cả linh hồn cao khiết của mình, nhưng Hồn Trương Ba vẫn chưa tìm được lối thoát, vẫn phải nhập trở lại vào xác trong sự tuyệt vọng, đau đớn và bế tắc.
Đấu tranh để tự hoàn thiện mình
Nỗi đau khổ, tuyệt vọng của Hồn Trương Ba càng được đẩy lên khi đối thoại với những người thân, đó là bi kịch không được thừa nhận, bị người thân xa lánh. Người vợ đã gắn bó với ông giờ đây buồn bã và cứ nhất quyết đòi bỏ đi “đi đâu cũng được... còn hơn là thế này”. Bà đã nói ra cái điều mà chính ông cũng đã cảm nhận được: “Ông đâu còn là ông, đâu còn là ông Trương Ba làm vườn ngày xưa”. Cái Gái, cháu ông giờ đây một mực khước từ tình thân (tôi không phải là cháu ông... Ông nội tôi chết rồi). Cái Gái yêu quý ông nó bao nhiêu thì giờ đây nó không thể chấp nhận cái con người có “bàn tay giết lợn”, bàn chân “to bè như cái xẻng” đã làm “gãy tiệt cái chồi non”, “giẫm lên nát cả cây sâm quý mới ươm” trong mảnh vườn của ông nội nó. Thậm chí ông chữa cái diều cho cu Tị mà làm gãy nát khiến cu Tị trong cơn sốt mê man cứ khóc, cứ tiếc, cứ bắt đền. Với nó, “Ông nội đời nào thô lỗ, phũ phàng như vậy”. Nỗi giận dữ của cái Gái đã biến thành sự xua đuổi quyết liệt: “Ông xấu lắm, ác lắm! Cút đi! Lão đồ tể, cút đi!”.
Chị con dâu là người sâu sắc, chín chắn, thấu hiểu tình cảnh trớ trêu của bố chồng. Chị biết ông “khổ hơn xưa nhiều lắm”. Nhưng chị cũng nhận thấy tình cảnh gia đình “như sắp tan hoang ra cả”, đau đớn phải thốt lên: “Con sợ lắm, bởi con cảm thấy, đau đớn thấy... mỗi ngày thầy một đổi khác dần, mất mát dần, tất cả cứ như lệch lạc, nhòa mờ dần đi, đến nỗi có lúc chính con cũng không nhận ra thầy nữa...”.
Tất cả những người thân yêu của Hồn Trương Ba đều nhận ra và đau khổ trước cái nghịch cảnh trớ trêu, trước sự thay đổi của Hồn Trương Ba. Sự cảm nhận, xa lánh của người thân chính là tấm gương phản chiếu hình ảnh Trương Ba của hiện tại, một Trương Ba xa lạ với chính người thân, thờ ơ với người xung quanh, thô lỗ, phũ phàng, không còn là người làm vườn thanh cao, trong sạch trước đây nữa.
Phản ứng của người thân giúp Hồn Trương Ba nhận ra sự thật đau đớn “Mày đã thắng thế rồi đấy, cái thân xác không phải của ta ạ”, nhận ra mình đã làm cho người thân phải đau khổ dù không hề mong muốn. Bi kịch của Hồn Trương Ba được đẩy lên đến đỉnh điểm.
Điều đáng quý ở đây là nhân vật Hồn Trương Ba đã không chấp nhận thỏa hiệp nữa, không chấp nhận thực tại đau đớn này nữa. Từ việc vẫn chấp nhận tiếp tục sống trong thân xác hàng thịt ở màn đối thoại trước, giờ đây, ông kiên quyết đấu tranh mạnh mẽ, khước từ việc sống nhờ, sống gửi ấy. Lời độc thoại nội tâm chính là quá trình nhân vật tự vấn, tự đấu tranh với bản thân mình: “Nhưng lẽ nào ta lại chịu thua mày, khuất phục mày và tự đánh mất mình? “Chẳng còn cách nào khác”! Mày nói như thế hả? Nhưng có thật là không còn cách nào khác? Có thật không còn cách nào khác? Không cần đến cái đời sống do mày mang lại! Không cần!”.
Kết quả quá trình đấu tranh ấy là quyết định dứt khoát: “Không cần đến cái đời sống do mày mang lại” - không chấp nhận ở trong thân xác anh hàng thịt nữa. Đây là quyết định dũng cảm, thể hiện bước chuyển biến lớn trong nhận thức của Hồn Trương Ba. Trương Ba thắp hương gọi Đế Thích để giải quyết tình trạng quái gở mang tên “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” này.
Chấp nhận cái chết để được là chính mình
Trong cuộc đối thoại với Đế Thích, Hồn Trương Ba đã tranh biện quan niệm về sự sống, về hạnh phúc. Ông khước từ việc sống nhờ, sống gửi, sống phải là chính mình toàn vẹn: “Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn”... “- Sống nhờ vào đồ đạc, của cải người khác đã là chuyện không nên, đằng này đến cái thân tôi cũng phải sống nhờ anh hàng thịt. Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết!”. Được sống không phải là tất cả mà quan trọng hơn là sống như thế nào?
Có thể nói, nhân vật Hồn Trương Ba đã ý thức rõ về tình cảnh trớ trêu, đầy tính chất bi hài của mình, thấm thía nỗi đau khổ về tình trạng ngày càng vênh lệch giữa hồn và xác. Trước nguy cơ tự đánh mất mình, nhân vật đã đấu tranh mạnh mẽ, mong muốn được giải thoát khỏi nghịch cảnh để được là chính mình toàn vẹn.
Với mong muốn Trương Ba được sống với bất cứ giá nào, Đế Thích đưa ra một giải pháp có vẻ ít rắc rối hơn: Cho Hồn Trương Ba nhập vào xác cu Tị. Đến đây, hồn Trương Ba lại được thử thách một lần nữa. Liệu có nên chấp nhận nhập vào xác cu Tị để được sống?
Hồn Trương Ba thử hình dung cảnh hồn của mình lại nhập vào xác cu Tị để sống và thấy rõ “bao nhiêu sự rắc rối” vô lí lại tiếp tục xảy ra khi một ông già gần 60 tuổi ở trong thân xác một đứa trẻ mới lên 10, lại là bạn của cháu gái mình. Liệu khi đó, Hồn Trương Ba có được là chính mình toàn vẹn hay không. Nhận thức tỉnh táo ấy cùng tình thương mẹ con cu Tị càng khiến Hồn Trương Ba đi đến quyết định dứt khoát: Xin Đế Thích cho cu Tị sống lại, trả thân xác cho anh hàng thịt và chấp nhận cái chết.
Qua quyết định này, chúng ta thấy được vẻ đẹp tâm hồn của Trương Ba: Con người nhân hậu, sáng suốt, giàu lòng tự trọng. Đặc biệt, đó là con người ý thức được ý nghĩa của cuộc sống. Nhân vật sẵn sàng đánh đổi sự sống để: “Là tôi trọn vẹn”, là kết quả đấu tranh của một tâm hồn thanh cao trong sáng, vượt lên nghịch cảnh.
Trong đoạn kết, Trương Ba đã được giải thoát khỏi bi kịch. Hồn Trương Ba hóa thành màu xanh của cây vườn, vị thơm ngon của trái na, vẫn quấn quýt với người thân, gần gũi nơi bậc cửa, trong ánh lửa, nơi cầu ao, trong cơi trầu, con dao... của vợ con thương yêu. Cho dù không sống nhờ một thân xác nào cả, hồn Trương Ba cao khiết vẫn sống mãi trong trái tim những người thân yêu, vẫn bất tử trong cõi đời. Cái kết đầy chất thơ ấy đã làm cho tư tưởng nhân văn tỏa sáng tác phẩm.
Như vậy, từ sự thỏa hiệp sống chung với xác hàng thịt đến quyết định chấp nhận cái chết là quá trình chuyển biến tư tưởng của hồn Trương Ba; cũng là quá trình nhân vật tự đấu tranh để hoàn thiện chính bản thân, để được sống là chính mình.
Thông qua quá trình đấu tranh tư tưởng của nhân vật, Lưu Quang Vũ gửi gắm những triết lí nhân sinh sâu sắc. Con người là một thể thống nhất, hồn và xác phải hài hòa. Không thể có một tâm hồn thanh cao trong một thân xác phàm tục, tội lỗi. Sự sống là đáng quý nhưng được sống là chính mình, sống trọn vẹn, hài hòa giữa thể xác và tâm hồn còn đáng quý hơn nhiều. Con người phải luôn luôn đấu tranh với nghịch cảnh, chống lại sự tầm thường, dung tục để hoàn thiện nhân cách. Đọc “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”, độc giả tìm thấy trong cách kể của Lưu Quang Vũ như “một bi kịch triết lí thời nay với hai chiều kích đan thoa: Chiều kích nhân sinh, xã hội và chiều kích bản thể siêu hình...” (Phạm Vĩnh Cư).

(Theo Phạm Phương Hoài, giaoducthoidai.vn)