I. ĐỌC HIỂU (4,0 điểm)
Đọc đoạn trích:
“Tôi có tính hay lãng quên những việc không đáng quên một chút nào, nhưng ông trời vốn dĩ phú bẩm cho tôi một trí nhớ đôi lúc chớp lóe lên, có thể nhìn thấy rõ một ngày trong đời của tôi hồi sáu bảy tuổi, như nhìn vào một bức ảnh cũ. Thế là tôi đã nhận ra được người thanh niên làm nghề cắt tóc đó. Đúng, chính là người chiến sĩ đã “thồ” tranh cho tôi, tám năm về trước. Ôi chao, lúc ấy, tôi chỉ muốn có một cái mặt nạ, hoặc bé xíu lại như một hạt đậu, trên cái ghế cắt tóc. Tôi biết nói thế nào để các bạn có thể cảm thụ được cái cảm giác phạm tội của tôi lúc ấy nhỉ? Có bao giờ bạn dọn nhà không? Khi người ta phải thay đổi chỗ ở, có những thứ đồ đạc tưởng mất biến từ lâu, lục lọi, tìm kiếm khắp vẫn không thấy, thì tự nhiên lòi mặt ra tận trong góc tủ, dưới gầm giường. Có những thứ đồ vật vô nghĩa. Có những thứ nhắc tới một chút kỉ niệm đẹp đẽ. Có những thứ gợi lên một câu chuyện chẳng hay ho gì, tưởng đã quên hẳn cái chuyện đó thì bây giờ cái đồ vật lại từ xó xỉnh, bụi bặm, từ trong xó tối từ từ bò ra, cái vật vô tri lại thủ thỉ nói chuyện với anh, khiển trách anh, lên án anh.
Tại sao ngày ấy tôi đã không đưa “tấm ảnh” đến cho gia đình anh? Tại sao tôi không giữ lời hứa? Mà tôi vẫn còn nhớ, tôi đã hứa với anh và cả với tôi nữa, đinh ninh và hùng hồn lắm, và cũng thực tâm lắm chứ? Trong cái đêm ấy, khi tôi ngồi bên anh trên phiến đá giữa khu rừng bên nước bạn, giá có phải chạy qua làn đạn của địch, hay băng qua ngọn lửa, thì tôi cũng quyết định sẽ vượt qua, để đưa tấm hình về trao tận tay những người trong gia đình anh, để đền đáp chút ít tấm lòng độ lượng quá lớn lao nhưng lặng lẽ mà anh đã đối xử với tôi. Lúc ấy, mắt tôi đã rưng rưng khi nghe kể chuyện ở ngoài này, bà mẹ anh đang nhầm tưởng anh đã hi sinh. Và buổi sáng hôm sau, lúc chia tay nhau, tôi lại còn hứa đi hứa lại, để cho anh trở về thật yên tâm và tôi lại còn nhớ, tôi đã nắm tay nhiều lần không nỡ rời, tôi ôm anh, rồi thật là giả dối chưa, tôi lại còn hôn anh nữa, trước khi lên đường đi chặng tiếp. Từ bữa đó, tôi đi bộ ròng rã gần ba tháng thì ra đến Hà Nội. Ngày đó, khi đặt chân về đến Hà Nội, tôi vẫn còn mang ý định đến thăm nhà anh ngay, và mang theo bức vẽ đến. Nhưng chỉ sau một tuần lễ, tôi đã thiết lập được với cái xã hội hậu phương chung quanh những mối quan hệ mới, cái không khí chiến trường tự nhiên nhạt nhòa đi, cái mối nhiệt tâm của lúc còn ở trong đó vơi bớt đi - không, đừng đổ lỗi cho hoàn cảnh! Tôi phải nhận rằng, chỉ sau một tuần lễ, được bè bạn sành sỏi nhất trong nghề đánh giá bức kí họa thật cao, tôi liền lờ quên cái người mẹ đang ôm ấp mối đau khổ vì ngộ nhận con trai đã hi sinh đang ở ngay trong thành phố, tôi liền đóng gói bức kí họa chung với những bức tranh đem đi dự triển lãm Việt Nam ở nước ngoài. Ỷ vào ngày giờ đi quá cấp bách, tôi cũng không kịp nghĩ đến việc tới thăm bà mẹ anh nữa!
Có những lúc con người ta không còn chỗ trú nấp. Đó là cái lúc ngồi ngửa mặt lên chiếc ghế, tôi nhận ra anh một cách chắc chắn, biết không thể nào nhầm được nữa! Tôi chỉ còn mong anh không nhận ra tôi. Không, nhất định anh phải nhận ra chứ, khuôn mặt tôi gần mười năm nay chụp ảnh thấy ít thay đổi lắm. Mà cái mặt mình chỉ cách mặt anh có mấy tấc. Cặp mắt anh lại đang nhìn xói vào cái mặt tôi đang được bàn tay anh dằn ngửa ra. Da mặt tôi cứ dày lên. Tôi nhắm mắt, rồi mở mắt. Mỗi lúc mở mắt, tôi không thể nhìn đi đâu khác cặp mắt anh. Trời ơi, có lẽ tôi ngồi trên ghế cắt tóc ở cái quán này đã một nửa thế kỉ? Chốc nữa, sắp tới, anh sẽ làm gì tôi đây?”
Thực hiện các yêu cầu:
“Tôi có tính hay lãng quên những việc không đáng quên một chút nào, nhưng ông trời vốn dĩ phú bẩm cho tôi một trí nhớ đôi lúc chớp lóe lên, có thể nhìn thấy rõ một ngày trong đời của tôi hồi sáu bảy tuổi, như nhìn vào một bức ảnh cũ. Thế là tôi đã nhận ra được người thanh niên làm nghề cắt tóc đó. Đúng, chính là người chiến sĩ đã “thồ” tranh cho tôi, tám năm về trước. Ôi chao, lúc ấy, tôi chỉ muốn có một cái mặt nạ, hoặc bé xíu lại như một hạt đậu, trên cái ghế cắt tóc. Tôi biết nói thế nào để các bạn có thể cảm thụ được cái cảm giác phạm tội của tôi lúc ấy nhỉ? Có bao giờ bạn dọn nhà không? Khi người ta phải thay đổi chỗ ở, có những thứ đồ đạc tưởng mất biến từ lâu, lục lọi, tìm kiếm khắp vẫn không thấy, thì tự nhiên lòi mặt ra tận trong góc tủ, dưới gầm giường. Có những thứ đồ vật vô nghĩa. Có những thứ nhắc tới một chút kỉ niệm đẹp đẽ. Có những thứ gợi lên một câu chuyện chẳng hay ho gì, tưởng đã quên hẳn cái chuyện đó thì bây giờ cái đồ vật lại từ xó xỉnh, bụi bặm, từ trong xó tối từ từ bò ra, cái vật vô tri lại thủ thỉ nói chuyện với anh, khiển trách anh, lên án anh.
Tại sao ngày ấy tôi đã không đưa “tấm ảnh” đến cho gia đình anh? Tại sao tôi không giữ lời hứa? Mà tôi vẫn còn nhớ, tôi đã hứa với anh và cả với tôi nữa, đinh ninh và hùng hồn lắm, và cũng thực tâm lắm chứ? Trong cái đêm ấy, khi tôi ngồi bên anh trên phiến đá giữa khu rừng bên nước bạn, giá có phải chạy qua làn đạn của địch, hay băng qua ngọn lửa, thì tôi cũng quyết định sẽ vượt qua, để đưa tấm hình về trao tận tay những người trong gia đình anh, để đền đáp chút ít tấm lòng độ lượng quá lớn lao nhưng lặng lẽ mà anh đã đối xử với tôi. Lúc ấy, mắt tôi đã rưng rưng khi nghe kể chuyện ở ngoài này, bà mẹ anh đang nhầm tưởng anh đã hi sinh. Và buổi sáng hôm sau, lúc chia tay nhau, tôi lại còn hứa đi hứa lại, để cho anh trở về thật yên tâm và tôi lại còn nhớ, tôi đã nắm tay nhiều lần không nỡ rời, tôi ôm anh, rồi thật là giả dối chưa, tôi lại còn hôn anh nữa, trước khi lên đường đi chặng tiếp. Từ bữa đó, tôi đi bộ ròng rã gần ba tháng thì ra đến Hà Nội. Ngày đó, khi đặt chân về đến Hà Nội, tôi vẫn còn mang ý định đến thăm nhà anh ngay, và mang theo bức vẽ đến. Nhưng chỉ sau một tuần lễ, tôi đã thiết lập được với cái xã hội hậu phương chung quanh những mối quan hệ mới, cái không khí chiến trường tự nhiên nhạt nhòa đi, cái mối nhiệt tâm của lúc còn ở trong đó vơi bớt đi - không, đừng đổ lỗi cho hoàn cảnh! Tôi phải nhận rằng, chỉ sau một tuần lễ, được bè bạn sành sỏi nhất trong nghề đánh giá bức kí họa thật cao, tôi liền lờ quên cái người mẹ đang ôm ấp mối đau khổ vì ngộ nhận con trai đã hi sinh đang ở ngay trong thành phố, tôi liền đóng gói bức kí họa chung với những bức tranh đem đi dự triển lãm Việt Nam ở nước ngoài. Ỷ vào ngày giờ đi quá cấp bách, tôi cũng không kịp nghĩ đến việc tới thăm bà mẹ anh nữa!
Có những lúc con người ta không còn chỗ trú nấp. Đó là cái lúc ngồi ngửa mặt lên chiếc ghế, tôi nhận ra anh một cách chắc chắn, biết không thể nào nhầm được nữa! Tôi chỉ còn mong anh không nhận ra tôi. Không, nhất định anh phải nhận ra chứ, khuôn mặt tôi gần mười năm nay chụp ảnh thấy ít thay đổi lắm. Mà cái mặt mình chỉ cách mặt anh có mấy tấc. Cặp mắt anh lại đang nhìn xói vào cái mặt tôi đang được bàn tay anh dằn ngửa ra. Da mặt tôi cứ dày lên. Tôi nhắm mắt, rồi mở mắt. Mỗi lúc mở mắt, tôi không thể nhìn đi đâu khác cặp mắt anh. Trời ơi, có lẽ tôi ngồi trên ghế cắt tóc ở cái quán này đã một nửa thế kỉ? Chốc nữa, sắp tới, anh sẽ làm gì tôi đây?”
(Trích Bức tranh - Nguyễn Minh Châu, theo isach.info)
Thực hiện các yêu cầu:
Câu 1 [706592]: Đoạn truyện được kể theo trình tự thời gian như thế nào?
Đoạn truyện được kể theo trình tự thời gian từ hiện tại (“tôi” đang ngồi trên cái ghế cắt tóc ở quán cắt tóc của người thợ cắt tóc, người lính từng thồ tranh giúp anh năm xưa) - quá khứ (gắn liền với sự thất hứa của “tôi” với người lính quê Hà Nội có mẹ già tưởng con đã hi sinh) - hiện tại (bây giờ, khi “tôi” đang chờ người thợ cắt tóc cắt cho mình).
Câu 2 [706593]: Đoạn trích gồm các nhân vật nào? Tìm các chi tiết nhận diện mỗi nhân vật.
- Đoạn trích gồm các nhân vật: “tôi” (hoạ sĩ); anh thợ cắt tóc (người thanh niên thồ tranh giúp “tôi” trong chiến trường năm xưa); bà mẹ anh thợ cắt tóc.
- Các chi tiết nhận diện mỗi nhân vật:
+ “Tôi”: là một hoạ sĩ; tám năm về trước, trong chiến trường, “tôi” đã quên đi lời hứa mang “tấm ảnh” (thực chất chính là bức vẽ “tôi” vẽ anh chiến sĩ đã thồ tranh giúp “tôi” đến cho bà mẹ của anh, để chứng thực với bà mẹ rằng anh chiến sĩ còn sống; về Hà Nội, “tôi” đã mang bức vẽ anh chiến sĩ đó đi triển lãm và đoạt giải rồi “tôi” quên bẵng người mẹ khốn khổ vì thương nhớ con); hiện tại, đối diện với người thợ cắt tóc - anh thanh niên năm xưa - “tôi” bắt đầu cảm thấy dằn vặt bản thân.
+ Anh thợ cắt tóc: người chiến sĩ đã “thồ” tranh cho “tôi”, tám năm về trước giờ làm nghề cắt tóc.
+ Bà mẹ anh thợ cắt tóc: nhầm tưởng con trai mình đã hi sinh trong chiến trường.
- Các chi tiết nhận diện mỗi nhân vật:
+ “Tôi”: là một hoạ sĩ; tám năm về trước, trong chiến trường, “tôi” đã quên đi lời hứa mang “tấm ảnh” (thực chất chính là bức vẽ “tôi” vẽ anh chiến sĩ đã thồ tranh giúp “tôi” đến cho bà mẹ của anh, để chứng thực với bà mẹ rằng anh chiến sĩ còn sống; về Hà Nội, “tôi” đã mang bức vẽ anh chiến sĩ đó đi triển lãm và đoạt giải rồi “tôi” quên bẵng người mẹ khốn khổ vì thương nhớ con); hiện tại, đối diện với người thợ cắt tóc - anh thanh niên năm xưa - “tôi” bắt đầu cảm thấy dằn vặt bản thân.
+ Anh thợ cắt tóc: người chiến sĩ đã “thồ” tranh cho “tôi”, tám năm về trước giờ làm nghề cắt tóc.
+ Bà mẹ anh thợ cắt tóc: nhầm tưởng con trai mình đã hi sinh trong chiến trường.
Câu 3 [706594]: Các câu văn in đậm trong đoạn trích được viết theo kiểu câu gì (theo mục đích nói)? Nêu tác dụng của kiểu câu đó trong việc khắc hoạ nhân vật “tôi”.
- Các câu văn in đậm trong đoạn trích được viết theo kiểu câu nghi vấn.
- Tác dụng: thể hiện tâm trạng tự dằn vặt, ăn năn, hối lỗi của “tôi” về điều tệ hại mình đã làm (không mang bức vẽ anh chiến sĩ về cho bà mẹ anh ấy để người mẹ tin rằng con trai bà chưa chết).
- Tác dụng: thể hiện tâm trạng tự dằn vặt, ăn năn, hối lỗi của “tôi” về điều tệ hại mình đã làm (không mang bức vẽ anh chiến sĩ về cho bà mẹ anh ấy để người mẹ tin rằng con trai bà chưa chết).
Câu 4 [706595]: Tìm một chi tiết diễn tả tâm trạng của “tôi” khi đối diện với người thợ cắt tóc ở thời điểm hiện tại. Từ đó, nhận xét tính cách của nhân vật “tôi”.
Thí sinh tìm một chi tiết diễn tả tâm trạng của “tôi” khi đối diện với người thợ cắt tóc ở thời điểm hiện tại; đồng thời nhận xét tính cách của nhân vật “tôi”. Chẳng hạn:
- Chi tiết diễn tả tâm trạng của “tôi” khi đối diện với người thợ cắt tóc ở thời điểm hiện tại: tôi chỉ muốn có một cái mặt nạ, hoặc bé xíu lại như một hạt đậu, trên cái ghế cắt tóc. Với chi tiết này, Nguyễn Minh Châu đã khắc hoạ tâm lí muốn lẩn trốn khỏi thực tại/ hiện thực của nhân vật “tôi”.
- Chi tiết chứng tỏ “tôi” nhận thức được và biết xấu hổ vì lỗi lầm trong quá khứ của mình. Nhân vật “tôi” quả thật đã có hành vi sai trái, lỗi lầm trong quá khứ nhưng không phải là không còn tự trọng.
- Chi tiết diễn tả tâm trạng của “tôi” khi đối diện với người thợ cắt tóc ở thời điểm hiện tại: tôi chỉ muốn có một cái mặt nạ, hoặc bé xíu lại như một hạt đậu, trên cái ghế cắt tóc. Với chi tiết này, Nguyễn Minh Châu đã khắc hoạ tâm lí muốn lẩn trốn khỏi thực tại/ hiện thực của nhân vật “tôi”.
- Chi tiết chứng tỏ “tôi” nhận thức được và biết xấu hổ vì lỗi lầm trong quá khứ của mình. Nhân vật “tôi” quả thật đã có hành vi sai trái, lỗi lầm trong quá khứ nhưng không phải là không còn tự trọng.
Câu 5 [706596]: Cảm nhận của anh/ chị về chủ đề chính của đoạn trích.
- Chủ đề chính của đoạn trích: nhận thức về vai trò, sứ mệnh của nghệ thuật đối với cuộc đời. Trong đoạn trích, nhận thức ấy được thể hiện qua tâm trạng xấu hổ, ăn năn, dằn vặt của “tôi” - hoạ sĩ - khi gặp lại anh chiến sĩ thồ tranh hộ mình năm xưa. Cách đây tám năm, “tôi” đã sống chết hứa sẽ mang “tấm ảnh” - bức vẽ do chính “tôi” hoạ lại chân dung anh chiến sĩ ở chiến trường - về Hà Nội cho mẹ anh ấy, để bà mẹ già đang đau khổ vì ngộ nhận con trai đã hi sinh được yên tâm rằng con mình vẫn còn sống. Song, thay vì thực hiện lời hứa, “tôi” đã mang bức vẽ đi triển lãm và giành giải, mặc kệ bà mẹ già với nỗi khổ tâm tột cùng.
- Chủ đề của đoạn trích mang đến thông điệp sâu sắc về nghệ thuật đích thực: Nghệ thuật đích thực phải gắn liền với cuộc đời, vì cuộc đời mà có.
- Chủ đề của đoạn trích mang đến thông điệp sâu sắc về nghệ thuật đích thực: Nghệ thuật đích thực phải gắn liền với cuộc đời, vì cuộc đời mà có.
II. VIẾT (6,0 điểm)
Câu 6 [706597]: (2,0 điểm)
Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ), phân tích yếu tố tượng trưng được thể hiện trong đoạn thơ sau:
“Tôi hát bài hát về cố hương tôi
Khi tất cả đã ngủ say
Dưới những vì sao ướt át
Và những ngọn gió hoang mê dại tìm về
Đâu đây có tiếng nói mê đàn ông bên mé tóc đàn bà
Đâu đây thơm mùi sữa bà mẹ khe khẽ tràn vào đêm
Đâu đây những bầu vú con gái tuổi mười lăm
như những mầm cây đang nhoi lên khỏi đất
Và đâu đây tiếng ho người già khúc khắc
Như những trái cây chín mê ngủ tuột khỏi cành rơi xuống
Góc vườn khuya cỏ thức trắng một mình”
Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ), phân tích yếu tố tượng trưng được thể hiện trong đoạn thơ sau:
“Tôi hát bài hát về cố hương tôi
Khi tất cả đã ngủ say
Dưới những vì sao ướt át
Và những ngọn gió hoang mê dại tìm về
Đâu đây có tiếng nói mê đàn ông bên mé tóc đàn bà
Đâu đây thơm mùi sữa bà mẹ khe khẽ tràn vào đêm
Đâu đây những bầu vú con gái tuổi mười lăm
như những mầm cây đang nhoi lên khỏi đất
Và đâu đây tiếng ho người già khúc khắc
Như những trái cây chín mê ngủ tuột khỏi cành rơi xuống
Góc vườn khuya cỏ thức trắng một mình”
(Trích Bài hát về cố hương - Nguyễn Quang Thiều, theo Tuyển tập Thơ Việt Nam 1975 - 2000, tập 2, NXB Hội Nhà văn, 2001)
Đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) phân tích yếu tố tượng trưng được thể hiện trong đoạn thơ rút từ tác phẩm Bài hát về cố hương (Nguyễn Quang Thiều) có thể được triển khai theo hướng:
- Nguyễn Quang Thiều: một trong những gương mặt xuất sắc của nền thơ ca Việt Nam đương đại. Thơ ông có những hình ảnh mang tính biểu tượng sâu sắc, trường liên tưởng lạ và hiệu ứng cảm xúc đa chiều, mở ra những không gian nghệ thuật phong phú và khác biệt.
- Bài hát về cố hương: được sáng tác năm 1991, thi phẩm được Nguyễn Quang Thiều coi là tuyên ngôn của cá nhân ông về một làng quê Việt, về làng ông. Bài thơ tái hiện hình ảnh làng quê Việt Nam những năm tháng còn khó khăn của đất nước. Trong sáng tác có nhiều hình ảnh mang tính biểu tượng, gợi cho người đọc những ý niệm hay liên tưởng sâu xa: phép so sánh thật lạ (những bầu vú con gái tuổi mười lăm như những mầm cây đang nhoi lên khỏi đất), chuỗi nhân hoá độc đáo (những vì sao ướt át, những ngọn gió hoang mê dại, thơm mùi sữa bà mẹ khe khẽ tràn vào đêm, những trái cây chín mê ngủ tuột khỏi cành, cỏ thức trắng một mình). Trong đó:
+ Phép so sánh những bầu vú con gái tuổi mười lăm như những mầm cây đang nhoi lên khỏi đất gợi cảm nhận về sức sống, sức trào bật, sự sinh sôi, nảy nở lặng lẽ, âm thầm mà mãnh liệt của con người và thiên nhiên vạn vật.
+ Phép nhân hoá mang đến cách tri nhận đặc biệt về các hình ảnh vốn trực quan (những vì sao, những ngọn gió, mùi sữa bà mẹ). Thiên nhiên kia không còn vô tri vô giác, cũng không chỉ đơn thuần dựng lên một bầu trời cao rộng, khoáng đạt lấp lánh những ánh sao và mênh mang gió nữa. Các từ ngữ ướt át, mê dại, tìm về khiến ngàn vạn vì sao cùng bao ngọn gió như cũng thấm tháp tình cảm, cảm xúc của con người. Không gian cố hương không chỉ có hình sắc mà còn có hương thơm, hương thơm từ mùi sữa bà mẹ đang khe khẽ tràn vào đêm. Tràn vào không phải vì nhiều, vì đầy mà có lẽ vì không gian thanh khiết quá, thanh khiết, trong khiết đến độ hương thơm ngọt của bầu sữa người mẹ có thể lan thấm và đẫm tràn không gian đêm.
Trong đoạn thơ, không gian cố hương còn được khắc hoạ bằng những hình ảnh thật nhỏ bé, giản dị như cỏ, như quả chín trên cây. Điều thú vị là trong cảm nhận của nhà thơ, chúng, hẳn nhiên không vô tri vô giác: những trái cây chín mê ngủ tuột khỏi cành rơi xuống cùng cỏ thức trắng một mình nơi góc vườn khuya tiếp tục gợi đến một đời sống thật sống động. Các hình ảnh thơ gợi đến một cái gì đó thật mê say nhưng cũng đầy trăn trở trong đời sống miền cố hương này.
- Với các hình ảnh giàu sức biểu tượng, Nguyễn Quang Thiều đã mang đến cảm nhận ở chiều sâu hình ảnh cố hương vừa gần gũi, giản dị, chân thực, thân quen vừa linh thiêng, thiêng liêng, huyền ảo, để mỗi người đọc, từ “cố hương” của nhà thơ, nghĩ đến “cố hương” của mình mà thêm yêu, thêm trân quý, tôn thờ.
<*> Tham khảo bài viết:
Trong những cuộc giao lưu với bạn đọc, Nguyễn Quang Thiều từng bộc bạch: “Với văn xuôi, tôi chỉ là người kể chuyện. Nhưng thơ ca lại là thế giới tự do của mình. Ở đó tôi được tự do làm con giun bò qua khu mồ của dòng họ, làm con chim tung bay trên bầu trời riêng...”
Dịch giả Nguyễn Thị Kim Hiền, người Việt ở LB Nga nhớ lại: “Tôi nhớ lần đầu tiên gặp nhà thơ Nguyễn Quang Thiều là tại Hội thảo về văn học Việt Nam, trong đợt Những ngày văn hóa Việt Nam tại LB Nga. Tác giả Mùa hoa cải ven sông đã tặng tôi một tập thơ nhỏ. Trước đó, nói thật là tôi chưa bao giờ đọc thơ ông cả. Ngồi trong hội trường, tôi đã giở tập thơ đó. Và bất ngờ đập vào mắt tôi là một bài thơ nhan đề là Bài hát về cố hương. Không biết có phải vì tôi đã sống xa quê hương rất lâu hay không, nhưng bài thơ đó đã khiến tôi chú ý, đã cuốn hút tôi. Tôi đọc và những câu thơ tha thiết của Nguyễn Quang Thiều đã cuốn hút tôi, lay động đến tận những góc sâu thẳm nhất trong trái tim tôi. Và làm cho tôi như quên hết tất cả. Ngồi trong hội trường, tôi đã chuyển ngữ bài thơ đó sang tiếng Nga một cách rất dễ dàng và nhanh chóng. Về sau nhà thơ Nga Nhikolai Periaslov đã hoàn chỉnh bản dịch đó và gửi đi dự thi. Bài hát về cố hương của Nguyễn Quang Thiều đã được giải Bài thơ nước ngoài hay nhất dịch ra tiếng Nga trong năm đó”.
[...] Bài hát về cố hương của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều, được đăng trên tạp chí Văn học Nga, từng được bình chọn là tác phẩm dịch thuật hay nhất năm 2011 của bạn đọc yêu thơ ca tại Nga...
Trong hành trình đọc thơ qua khoảng 50 nước trên thế giới. Bài hát về cố hương luôn được Nguyễn Quang Thiều lựa chọn chia sẻ với bạn yêu thơ. Không chỉ tiếng Nga, bài thơ đã được dịch ra các thứ tiếng của các nước: Anh, Nhật, Colombia, Tây Ban Nha... Bài thơ cũng được in trong tập Những người đàn bà gánh nước sông và những bài thơ trong tập Sự mất ngủ của lửa tại Mỹ, và được giải thưởng chung kết của Hội dịch giả văn học quốc gia Mỹ.
[...]
Nguyễn Quang Thiều, trong các tác phẩm văn học đã viết, say đắm với mảnh đất làng Chùa của mình, như Đoàn Lê với làng Chùa của bà, như cụ Kim Lân với làng chợ Giầu Phù Lưu, như Raxun Gamdatov kể chuyện về mảnh đất Đaghextan.
Và ông cũng còn may mắn, khi làng Chùa của ông vẫn đẹp, vẫn là một làng quê còn được bao người dân yêu thơ, làm thơ gìn giữ; không phải khắc khoải, đau xót tìm cách giữ làng trước làn sóng đô thị hóa, trước những cơn bão bất động sản tràn tới.
Ông, như nhiều nhà văn nhà thơ tên tuổi khác, đã nói hộ người bình thường cái lòng yêu mảnh đất cố hương, cái tâm tình khiến người dù đi xa đâu vẫn không khỏi một lúc nào đó chạnh lòng nhớ về nơi mình đã từng sinh ra, lớn lên.
- Nguyễn Quang Thiều: một trong những gương mặt xuất sắc của nền thơ ca Việt Nam đương đại. Thơ ông có những hình ảnh mang tính biểu tượng sâu sắc, trường liên tưởng lạ và hiệu ứng cảm xúc đa chiều, mở ra những không gian nghệ thuật phong phú và khác biệt.
- Bài hát về cố hương: được sáng tác năm 1991, thi phẩm được Nguyễn Quang Thiều coi là tuyên ngôn của cá nhân ông về một làng quê Việt, về làng ông. Bài thơ tái hiện hình ảnh làng quê Việt Nam những năm tháng còn khó khăn của đất nước. Trong sáng tác có nhiều hình ảnh mang tính biểu tượng, gợi cho người đọc những ý niệm hay liên tưởng sâu xa: phép so sánh thật lạ (những bầu vú con gái tuổi mười lăm như những mầm cây đang nhoi lên khỏi đất), chuỗi nhân hoá độc đáo (những vì sao ướt át, những ngọn gió hoang mê dại, thơm mùi sữa bà mẹ khe khẽ tràn vào đêm, những trái cây chín mê ngủ tuột khỏi cành, cỏ thức trắng một mình). Trong đó:
+ Phép so sánh những bầu vú con gái tuổi mười lăm như những mầm cây đang nhoi lên khỏi đất gợi cảm nhận về sức sống, sức trào bật, sự sinh sôi, nảy nở lặng lẽ, âm thầm mà mãnh liệt của con người và thiên nhiên vạn vật.
+ Phép nhân hoá mang đến cách tri nhận đặc biệt về các hình ảnh vốn trực quan (những vì sao, những ngọn gió, mùi sữa bà mẹ). Thiên nhiên kia không còn vô tri vô giác, cũng không chỉ đơn thuần dựng lên một bầu trời cao rộng, khoáng đạt lấp lánh những ánh sao và mênh mang gió nữa. Các từ ngữ ướt át, mê dại, tìm về khiến ngàn vạn vì sao cùng bao ngọn gió như cũng thấm tháp tình cảm, cảm xúc của con người. Không gian cố hương không chỉ có hình sắc mà còn có hương thơm, hương thơm từ mùi sữa bà mẹ đang khe khẽ tràn vào đêm. Tràn vào không phải vì nhiều, vì đầy mà có lẽ vì không gian thanh khiết quá, thanh khiết, trong khiết đến độ hương thơm ngọt của bầu sữa người mẹ có thể lan thấm và đẫm tràn không gian đêm.
Trong đoạn thơ, không gian cố hương còn được khắc hoạ bằng những hình ảnh thật nhỏ bé, giản dị như cỏ, như quả chín trên cây. Điều thú vị là trong cảm nhận của nhà thơ, chúng, hẳn nhiên không vô tri vô giác: những trái cây chín mê ngủ tuột khỏi cành rơi xuống cùng cỏ thức trắng một mình nơi góc vườn khuya tiếp tục gợi đến một đời sống thật sống động. Các hình ảnh thơ gợi đến một cái gì đó thật mê say nhưng cũng đầy trăn trở trong đời sống miền cố hương này.
- Với các hình ảnh giàu sức biểu tượng, Nguyễn Quang Thiều đã mang đến cảm nhận ở chiều sâu hình ảnh cố hương vừa gần gũi, giản dị, chân thực, thân quen vừa linh thiêng, thiêng liêng, huyền ảo, để mỗi người đọc, từ “cố hương” của nhà thơ, nghĩ đến “cố hương” của mình mà thêm yêu, thêm trân quý, tôn thờ.
<*> Tham khảo bài viết:
Trong những cuộc giao lưu với bạn đọc, Nguyễn Quang Thiều từng bộc bạch: “Với văn xuôi, tôi chỉ là người kể chuyện. Nhưng thơ ca lại là thế giới tự do của mình. Ở đó tôi được tự do làm con giun bò qua khu mồ của dòng họ, làm con chim tung bay trên bầu trời riêng...”
Dịch giả Nguyễn Thị Kim Hiền, người Việt ở LB Nga nhớ lại: “Tôi nhớ lần đầu tiên gặp nhà thơ Nguyễn Quang Thiều là tại Hội thảo về văn học Việt Nam, trong đợt Những ngày văn hóa Việt Nam tại LB Nga. Tác giả Mùa hoa cải ven sông đã tặng tôi một tập thơ nhỏ. Trước đó, nói thật là tôi chưa bao giờ đọc thơ ông cả. Ngồi trong hội trường, tôi đã giở tập thơ đó. Và bất ngờ đập vào mắt tôi là một bài thơ nhan đề là Bài hát về cố hương. Không biết có phải vì tôi đã sống xa quê hương rất lâu hay không, nhưng bài thơ đó đã khiến tôi chú ý, đã cuốn hút tôi. Tôi đọc và những câu thơ tha thiết của Nguyễn Quang Thiều đã cuốn hút tôi, lay động đến tận những góc sâu thẳm nhất trong trái tim tôi. Và làm cho tôi như quên hết tất cả. Ngồi trong hội trường, tôi đã chuyển ngữ bài thơ đó sang tiếng Nga một cách rất dễ dàng và nhanh chóng. Về sau nhà thơ Nga Nhikolai Periaslov đã hoàn chỉnh bản dịch đó và gửi đi dự thi. Bài hát về cố hương của Nguyễn Quang Thiều đã được giải Bài thơ nước ngoài hay nhất dịch ra tiếng Nga trong năm đó”.
[...] Bài hát về cố hương của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều, được đăng trên tạp chí Văn học Nga, từng được bình chọn là tác phẩm dịch thuật hay nhất năm 2011 của bạn đọc yêu thơ ca tại Nga...
Trong hành trình đọc thơ qua khoảng 50 nước trên thế giới. Bài hát về cố hương luôn được Nguyễn Quang Thiều lựa chọn chia sẻ với bạn yêu thơ. Không chỉ tiếng Nga, bài thơ đã được dịch ra các thứ tiếng của các nước: Anh, Nhật, Colombia, Tây Ban Nha... Bài thơ cũng được in trong tập Những người đàn bà gánh nước sông và những bài thơ trong tập Sự mất ngủ của lửa tại Mỹ, và được giải thưởng chung kết của Hội dịch giả văn học quốc gia Mỹ.
[...]
Nguyễn Quang Thiều, trong các tác phẩm văn học đã viết, say đắm với mảnh đất làng Chùa của mình, như Đoàn Lê với làng Chùa của bà, như cụ Kim Lân với làng chợ Giầu Phù Lưu, như Raxun Gamdatov kể chuyện về mảnh đất Đaghextan.
Và ông cũng còn may mắn, khi làng Chùa của ông vẫn đẹp, vẫn là một làng quê còn được bao người dân yêu thơ, làm thơ gìn giữ; không phải khắc khoải, đau xót tìm cách giữ làng trước làn sóng đô thị hóa, trước những cơn bão bất động sản tràn tới.
Ông, như nhiều nhà văn nhà thơ tên tuổi khác, đã nói hộ người bình thường cái lòng yêu mảnh đất cố hương, cái tâm tình khiến người dù đi xa đâu vẫn không khỏi một lúc nào đó chạnh lòng nhớ về nơi mình đã từng sinh ra, lớn lên.
(Theo vovworld.vn)
Câu 7 [706598]: (4,0 điểm)
Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ), trả lời câu hỏi: Người trẻ ngày nay nên sử dụng mạng xã hội như thế nào cho thông minh?.
Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ), trả lời câu hỏi: Người trẻ ngày nay nên sử dụng mạng xã hội như thế nào cho thông minh?.
Bài văn trả lời câu hỏi: Người trẻ ngày nay nên sử dụng mạng xã hội như thế nào cho thông minh? có thể được triển khai nhiều cách. Song cần bảo đảm các ý:
1. Mở bài (gián tiếp)
- Dẫn dắt vấn đề
- Nêu vấn đề
2. Thân bài
- Giải thích “mạng xã hội”: là một nền tảng trực tuyến kết nối và tạo ra cơ hội giao tiếp cho mọi người trên khắp thế giới. Một số mạng xã hội phổ biến hiện nay: Facebook, Zalo, Instagram, Tik Tok,...
- Sơ lược về lợi ích của mạng xã hội và tác hại của mạng xã hội khi bị lạm dụng:
+ Không thể phủ nhận được vai trò của mạng xã hội đối với con người nói chung và người trẻ nói riêng. Sự phát triển của internet và công nghệ kĩ thuật số đã tạo ra khả năng kết nối không giới hạn giữa con người với con người, giúp trao đổi thông tin, biểu đạt tình cảm, quan điểm, hình ảnh, giọng nói... vượt qua giới hạn của không gian thông thường, tạo ra một không gian giao tiếp mới rất phong phú. Không chỉ có vậy, mạng xã hội còn mang lại thật nhiều cơ hội học tập, việc làm cho mọi người.
+ Tuy nhiên, mạng xã hội cũng mang đến nhiều hệ luỵ khi người trẻ lạm dụng nó:
• Nhiều người trẻ sa vào lối sống “ảo” và quên đi đời thực, từ đó lãng phí thời gian, xao nhãng học tập, công việc; thiếu kĩ năng giao tiếp thực tế;...
• Sức khoẻ tâm lí của nhiều người trẻ bị ảnh hưởng (mạng xã hội gây ra sự so sánh liên tục và căng thẳng về việc phải đáp ứng các tiêu chuẩn ảo. Nhiều người trẻ cảm thấy áp lực khi luôn phải xuất hiện hoàn hảo, khoe khoang cuộc sống “lí tưởng” trên mạng xã hội. Kết quả là họ cảm thấy không đủ tốt hoặc luôn bị “bỏ rơi” khi so sánh với cuộc sống lung linh của bạn bè trên mạng; gây ra hiện tượng FOMO (fear of missing out) - nỗi sợ bị bỏ lỡ thông tin hoặc sự kiện nào đó trên mạng;...)
• Nguy cơ mất an toàn an ninh mạng (nhiều thông tin cá nhân của người sử dụng, đặc biệt là người trẻ bị khai thác vào những việc xấu như lừa đảo, tống tiền,...)
- Thực trạng sử dụng mạng xã hội của giới trẻ ngày nay:
+ Nhiều người trẻ sử dụng mạng xã hội chủ yếu để giải trí: giao lưu gặp gỡ với bạn bè khắp mọi nơi, mọi lúc, tán chuyện phiếm, nói chuyện gẫu; theo dõi tin tức của những người nổi tiếng (thường là các ca sĩ, nhạc sĩ, diễn viên điện ảnh,...); chơi điện tử trực tuyến; mua sắm trực tuyến; đăng tải các thông tin chưa được kiểm chứng, nhiều thông tin sai sự thật
+ Nhiều người biết khai thác mạng xã hội để phục vụ cho việc học tập, công việc: kết nối với bạn bè, đồng nghiệp để tương tác công việc; tìm kiếm các thông tin phục vụ học tập, công việc; tìm kiếm các cơ hội học để học tập, làm việc, giao lưu,...
- Cách sử dụng mạng xã hội thông minh:
+ Về nhận thức, người trẻ nên nắm rõ các quy định của pháp luật về lợi ích, quyền hạn, trách nhiệm khi sử dụng mạng xã hội; nhìn nhận rõ những ưu điểm và hạn chế trong việc sử dụng, lạm dụng mạng xã hội; xem xét mục đích, xác định hiệu quả, tác hại của việc sử dụng mạng xã hội đối với bản thân mình;...
+ Về hành động, người trẻ nên:
• kiểm soát thời gian sử dụng mạng xã hội, hạn chế việc dành thời gian cho việc lướt mạng xã hội không mục đích;
• ưu tiên việc sử dụng mạng xã hội phù hợp với nhu cầu thực tế của bản thân (giao lưu kết nối với môi trường trong sạch; tiếp nhận thông tin lành mạnh, hữu ích; tìm kiếm cơ hội phát triển bản thân; sử dụng như một phương tiện trao đổi trong học tập, công việc;...);
• tránh sử dụng mạng xã hội vào những mục đích không tốt như lan truyền các thông tin xấu độc, chưa được kiểm chứng; tránh ứng xử thiếu văn hoá, văn minh trên mạng xã hội;
• ...
3. Kết bài
Rút ra bài học nhận thức và hành động
1. Mở bài (gián tiếp)
- Dẫn dắt vấn đề
- Nêu vấn đề
2. Thân bài
- Giải thích “mạng xã hội”: là một nền tảng trực tuyến kết nối và tạo ra cơ hội giao tiếp cho mọi người trên khắp thế giới. Một số mạng xã hội phổ biến hiện nay: Facebook, Zalo, Instagram, Tik Tok,...
- Sơ lược về lợi ích của mạng xã hội và tác hại của mạng xã hội khi bị lạm dụng:
+ Không thể phủ nhận được vai trò của mạng xã hội đối với con người nói chung và người trẻ nói riêng. Sự phát triển của internet và công nghệ kĩ thuật số đã tạo ra khả năng kết nối không giới hạn giữa con người với con người, giúp trao đổi thông tin, biểu đạt tình cảm, quan điểm, hình ảnh, giọng nói... vượt qua giới hạn của không gian thông thường, tạo ra một không gian giao tiếp mới rất phong phú. Không chỉ có vậy, mạng xã hội còn mang lại thật nhiều cơ hội học tập, việc làm cho mọi người.
+ Tuy nhiên, mạng xã hội cũng mang đến nhiều hệ luỵ khi người trẻ lạm dụng nó:
• Nhiều người trẻ sa vào lối sống “ảo” và quên đi đời thực, từ đó lãng phí thời gian, xao nhãng học tập, công việc; thiếu kĩ năng giao tiếp thực tế;...
• Sức khoẻ tâm lí của nhiều người trẻ bị ảnh hưởng (mạng xã hội gây ra sự so sánh liên tục và căng thẳng về việc phải đáp ứng các tiêu chuẩn ảo. Nhiều người trẻ cảm thấy áp lực khi luôn phải xuất hiện hoàn hảo, khoe khoang cuộc sống “lí tưởng” trên mạng xã hội. Kết quả là họ cảm thấy không đủ tốt hoặc luôn bị “bỏ rơi” khi so sánh với cuộc sống lung linh của bạn bè trên mạng; gây ra hiện tượng FOMO (fear of missing out) - nỗi sợ bị bỏ lỡ thông tin hoặc sự kiện nào đó trên mạng;...)
• Nguy cơ mất an toàn an ninh mạng (nhiều thông tin cá nhân của người sử dụng, đặc biệt là người trẻ bị khai thác vào những việc xấu như lừa đảo, tống tiền,...)
- Thực trạng sử dụng mạng xã hội của giới trẻ ngày nay:
+ Nhiều người trẻ sử dụng mạng xã hội chủ yếu để giải trí: giao lưu gặp gỡ với bạn bè khắp mọi nơi, mọi lúc, tán chuyện phiếm, nói chuyện gẫu; theo dõi tin tức của những người nổi tiếng (thường là các ca sĩ, nhạc sĩ, diễn viên điện ảnh,...); chơi điện tử trực tuyến; mua sắm trực tuyến; đăng tải các thông tin chưa được kiểm chứng, nhiều thông tin sai sự thật
+ Nhiều người biết khai thác mạng xã hội để phục vụ cho việc học tập, công việc: kết nối với bạn bè, đồng nghiệp để tương tác công việc; tìm kiếm các thông tin phục vụ học tập, công việc; tìm kiếm các cơ hội học để học tập, làm việc, giao lưu,...
- Cách sử dụng mạng xã hội thông minh:
+ Về nhận thức, người trẻ nên nắm rõ các quy định của pháp luật về lợi ích, quyền hạn, trách nhiệm khi sử dụng mạng xã hội; nhìn nhận rõ những ưu điểm và hạn chế trong việc sử dụng, lạm dụng mạng xã hội; xem xét mục đích, xác định hiệu quả, tác hại của việc sử dụng mạng xã hội đối với bản thân mình;...
+ Về hành động, người trẻ nên:
• kiểm soát thời gian sử dụng mạng xã hội, hạn chế việc dành thời gian cho việc lướt mạng xã hội không mục đích;
• ưu tiên việc sử dụng mạng xã hội phù hợp với nhu cầu thực tế của bản thân (giao lưu kết nối với môi trường trong sạch; tiếp nhận thông tin lành mạnh, hữu ích; tìm kiếm cơ hội phát triển bản thân; sử dụng như một phương tiện trao đổi trong học tập, công việc;...);
• tránh sử dụng mạng xã hội vào những mục đích không tốt như lan truyền các thông tin xấu độc, chưa được kiểm chứng; tránh ứng xử thiếu văn hoá, văn minh trên mạng xã hội;
• ...
3. Kết bài
Rút ra bài học nhận thức và hành động