I. ĐỌC HIỂU (4,0 điểm)
Đọc văn bản:
NÀNG BUA
(Nguyễn Huy Thiệp)
(1) Ở Hua Tát có một người đàn bà đặc biệt là Lò Thị Bua. Đi ra đường không ai chào hỏi nàng. “Quỷ dữ đấy! Đừng gần nó!” Các bà mẹ dặn con như thế. Các bà vợ dặn chồng như thế.
Bua là một thiếu phụ duyên dáng. Người nàng cao lớn, đôi hông to khỏe, thân hình lẳn chắc, bộ ngực nở nang mềm mại. Nàng lúc nào cũng tươi cười, tràn trề thứ ánh sáng cuốn hút lòng người.
Bua ở một mình với chín đứa con của nàng. Không ai biết bố chúng là ai. Ngay với Bua, nàng cũng không biết đích xác bố của từng đứa một. Rất nhiều người đàn ông đến với nàng rồi sau đó họ bỏ rơi nàng. Những anh chàng thiếu niên miệng còn hơi sữa chưa đủ kinh nghiệm làm bố, những ông già từng trải, những người thợ săn dũng cảm, những kẻ hà tiện... Mỗi người đến với Bua một cách và họ ra đi cũng chẳng có ai giống nhau. Chuyện tình ái, giống đực thường khôn ngoan và vô trách nhiệm, giống cái thì nhẹ dạ và tận tụy quá. Bua nồng nàn với tất cả những người đàn ông đến với nàng và cũng lãnh đạm với tất cả những người đàn ông bỏ rơi nàng. Những đứa con không bố sinh ra tự nàng lo liệu lấy chúng. Bua không quyến luyến, gắn bó với bất cứ người đàn ông nào trong bản. Nàng sống trơ trơ trước mắt mọi người. Nàng có chú ý đến mọi người không, nào ai biết được?
Cái hộ gia đình đông đúc của nàng Bua sống vui vẻ, hòa thuận và nghèo túng. Đàn bà trong bản nổi khùng, họ rít lên những lời khinh rẻ qua kẽ răng. Thực ra lòng họ sợ hãi. Đàn ông trong bản cười cợt, thèm thuồng. Họ ngồi cạnh nhau quanh các bếp lửa, nước dãi nhỏ ra bên khóe mép, đôi mắt long lanh, trơn tuột.
Ở Hua Tát, mọi người đều có gia đình nền nếp của mình. Ai cũng phải sống theo phong tục cổ truyền, vợ có chồng, con có bố. Thật chưa bao giờ có một gia đình quái gở thế này? Vợ không chồng! Con không bố! Chín đứa con! Chín đứa mà chẳng đứa nào giống một đứa nào! Những lời đàm tiếu như nạn dịch lan nhanh trong bản. Ở đàn bà, đấy là nạn dịch bọ gà. Ở đàn ông, đấy là nạn dịch sốt... Kẻ bị hành hạ nhiều nhất là đám phụ nữ. Họ buộc cánh đàn ông phải có cách gì giải quyết ổn thỏa việc này. Hoặc là phải đuổi Bua đi, hoặc là tìm ra bố của những đứa trẻ. Sao lại để một gia đình như thế ở trong cộng đồng Hua Tát? Những đứa trẻ lớn lên rồi chúng sẽ trở thành trai bản, gái bản. Chúng sẽ phá vỡ tất cả nền nếp cổ truyền.
Cuộc họp của cánh đàn ông trong bản Hua Tát nhiều lần dự định không thành. Nhiều người đàn ông thấy mình có lỗi ở trong chuyện ấy. Lương tâm họ cắn rứt. Đứng ra nhận con thì không ai dám. Họ sợ miệng lưỡi của các bà vợ nông nổi, thủy chung. Họ sợ dư luận. Đáng sợ hơn cả còn là cuộc sống nghèo túng.
(2) Năm ấy, không hiểu sao rừng Hua Tát củ mài nhiều vô kể. Người ta đào được những củ mài to tướng dễ như bỡn. Những củ mài xốp, thơm hanh hanh và ngậy, ninh lên bở tơi, ăn hơi tê rát vòm miệng rất thú. Nàng Bua và lũ con cũng kéo nhau đi đào. Rừng hào phóng và bao dung với tất cả mọi người.
Một bữa, lần theo rễ củ, Bua và lũ con đào được một cái hũ sành sứt mẻ, nước da lươn đã xỉn vì năm tháng. Bua gạt lớp đất ở miệng hũ sành và nàng ngạc nhiên thấy hũ chứa đầy những thoi vàng, thoi bạc lấp lánh. Bua rụng rời, run rẩy cả người, đầu gối nàng quỵ xuống, những giọt nước mắt sung sướng giàn giụa. Lũ con xúm xít xung quanh, sợ hãi nhìn mẹ.
Thoắt một cái, người đàn bà nghèo khó và bị khinh rẻ trở thành giàu có nhất bản, nhất mường.
Bây giờ, cuộc họp của cánh đàn ông về Bua không còn cần nữa. Người ta lần lượt tìm đến nhà Bua để nhận con mình. Các bà vợ nông nổi và thủy chung giục giã chồng mình đi nhận con về. Hóa ra không phải là chín ông bố, cũng không phải là hai chục nữa. Bọn họ có đến cả năm chục người. Tuy nhiên, Bua không thừa nhận những người đàn ông ấy là bố của những đứa trẻ. Họ đến và ai cũng được một món quà tặng làm vui lòng các bà vợ nền nếp của mình.
(3) Cuối năm ấy, Bua lấy một người thợ săn hiền lành, góa vợ và không con cái. Có lẽ đây mới là tình yêu của nàng vì nàng đã rơi những giọt nước mắt hạnh phúc trong đêm hợp cẩn. Với những người đàn ông trước, ở nàng không có những giọt lệ ấy.
Đáng lẽ ra Bua sẽ sinh với người chồng được thừa nhận của mình một đứa con nữa, đứa con thứ mười, nhưng người đàn bà ấy không quen sinh nở trong sự đầy đủ và nền nếp cổ truyền. Nàng đã chết khi trở dạ đẻ giữa đống mền chăn ấm áp.
Đám ma nàng, cả cộng đồng Hua Tát đi đưa. Cả đàn ông, cả đàn bà, cả trẻ con nữa. Người ta tha thứ cho nàng, có lẽ nàng cũng tha thứ cho họ.
1971
(Theo Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp với minh hoạ của các hoạ sĩ, NXB Văn học, 2020)
Thực hiện các yêu cầu:
Câu 1 [706599]: Truyện gồm mấy phần? Tóm tắt nội dung của từng phần.
Truyện gồm mấy phần:
- Phần thứ nhất (từ đầu đến đến cuộc sống nghèo túng): Giới thiệu nhân vật nàng Bua và cuộc sống của nàng cùng đàn con).
- Phần thứ hai (tiếp đến các bà vợ nền nếp của mình): Cuộc đời nàng Bua với nhiều thay đổi từ khi nàng đào được hũ vàng.
- Phần thứ ba (còn lại): Nàng Bua và hạnh phúc không trọn vẹn.
Câu 2 [706600]: Chỉ ra và nêu tác dụng của ngôi kể, điểm nhìn trong câu chuyện.
- Ngôi kể: thứ ba (người kể chuyện giấu mặt nhưng “biết tuốt”); điểm nhìn: toàn tri.
- Tác dụng: Với ngôi kể và điểm nhìn này, người kể chuyện dù không trực tiếp tham gia nhưng có thể kể lại toàn bộ câu chuyện đang diễn ra ở mọi lúc, mọi nơi.
Câu 3 [706601]: Tìm các chi tiết khắc hoạ nhân vật nàng Bua; từ đó, nhận xét khái quát đặc điểm của nhân vật này.
- Các chi tiết khắc hoạ nhân vật nàng Bua:
+ Tên tuổi: Lò Thị Bua.
+ Gia cảnh:
• Nàng sống cùng chín đứa con nhưng chính nàng cũng không rõ cha của chúng là những ai. Bua cũng không có ý định tìm cha cho các con.
• Cuộc sống của mẹ con Bua tuy nghèo nhưng rất êm đềm, vui vẻ, hòa thuận và nghèo túng,
+ Vẻ đẹp bề ngoài: Người nàng cao lớn, đôi hông to khỏe, thân hình lẳn chắc, bộ ngực nở nang mềm mại. Nàng lúc nào cũng tươi cười, tràn trề thứ ánh sáng cuốn hút lòng người.
+ Mẹ con Bua đào được hũ vàng: hũ sành sứt mẻ, nước da lươn đã xỉn, chứa đầy những thoi vàng, thoi bạc lấp lánh. ⟶ ở hiền gặp lành.
+ Bua từ một người nghèo nhất bản bỗng chốc trở thành người giàu có nhất bản, nhất mường.
+ Nàng hào phóng san sẻ của cải, vận may cho tất cả mọi người (ai cũng được một món quà tặng làm vui lòng) và vẫn kiên định không nhận bố cho các con. ⟶ Sống trong sự giàu có tột bậc nhưng Bua không hề thay đổi tính cách, thậm chí, nàng còn hào phóng hơn; Bua không muốn dùng vật chất để mua chuộc tình cảm của mọi người.
+ Bua kết hôn với một bác thợ săn hiền lành, góa vợ và không con cái ⟶ Chi tiết khắc hoạ sự sắc sảo/ sâu sắc trong tính cách nhân vật: hiền lành là phẩm cách tốt đẹp cần có; goá vợ để Bua không trở thành kẻ thứ ba phá hoại hạnh phúc gia đình người khác; không con cái để dễ dàng đồng cảm, thương yêu với đàn con lâu nay thiếu sự chăm sóc của cha.
+ Bua có thai đứa con thứ mười (con của bác thợ săn). Bua và đứa con đã không qua khỏi giờ phút sinh tử. Bua đã chết giữa đống mền chăn ấm áp, sự giàu có, sung túc không thể giữ Bua và đứa con ở lại với cuộc đời ⟶ Vật chất đủ đầy không phải là tấm thẻ bảo hiểm trọn đời cho con người. Nó không thể mang lại hạnh phúc trọn vẹn.
- Nhận xét khái quát đặc điểm của nhân vật nàng Bua:
+ Xinh đẹp, quyến rũ/ hấp dẫn
+ Hào phóng, bao dung, tự trọng, sắc sảo/ sâu sắc
Câu 4 [706602]: Nhận xét đặc điểm ngôn ngữ kể chuyện của tác giả qua các trường hợp sau:
- Chuyện tình ái, giống đực thường khôn ngoan và vô trách nhiệm, giống cái thì nhẹ dạ và tận tụy quá.
- Bua nồng nàn với tất cả những người đàn ông đến với nàng và cũng lãnh đạm với tất cả những người đàn ông bỏ rơi nàng.
- Đàn ông trong bản cười cợt, thèm thuồng.
- Các bà vợ nông nổi và thủy chung giục giã chồng mình đi nhận con về.
Nhận xét đặc điểm ngôn ngữ kể chuyện của tác giả qua các trường hợp:
- Chuyện tình ái, giống đực thường khôn ngoan và vô trách nhiệm, giống cái thì nhẹ dạ và tận tụy quá.
⟶ Ngôn ngữ trong câu văn trên mang đậm màu sắc suy tư, chiêm nghiệm, triết lí pha chút hóm hỉnh, hài hước. (Đây là đặc điểm nổi bật trong ngôn ngữ kể chuyện của Nguyễn Huy Thiệp.)
- Bua nồng nàn với tất cả những người đàn ông đến với nàng và cũng lãnh đạm với tất cả những người đàn ông bỏ rơi nàng.
- Đàn ông trong bản cười cợt, thèm thuồng.
- Các bà vợ nông nổi và thủy chung giục giã chồng mình đi nhận con về.

⟶ Các câu văn trên đều chứa đựng các từ ngữ mang nghĩa tương phản, đối lập nhau; sự tương phản ấy cùng gắn liền với một đối tượng (giống đực: khôn ngoan >< vô trách nhiệm; giống cái: nhẹ dạ >< tận tuỵ; Bua: nồng nàn >< lãnh đạm; đàn ông: cười cợt >< thèm thuồng; các bà vợ: nông nổi >< thuỷ chung). Ngôn ngữ trong các câu văn thể hiện ý niệm của Nguyễn Huy Thiệp về con người và cuộc đời: Cuộc đời, con người không hề đơn sắc, một màu, một chiều, thuần nhất mà rất đa diện, đa sắc, phức tạp.
Câu 5 [706603]: Nêu thông điệp của truyện.
Thí sinh có thể chỉ ra một/ một vài thông điệp của truyện:
- Cuộc đời không phải lúc nào cũng toàn những điều tốt đẹp, cuộc đời luôn nghiệt ngã hơn cổ tích rất nhiều.
- Không nên chỉ nhìn một chiều đối với bất kì đối tượng nào
- Vật chất không thể mang lại hạnh phúc trọn vẹn cho con người
...
II. VIẾT (6,0 điểm)
Câu 6 [706604]: (2,0 điểm)
Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ), phân tích màu sắc cổ tích trong truyện Nàng Bua.
Đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) màu sắc cổ tích trong truyện Nàng Bua (Nguyễn Huy Thiệp) có thể được triển khai theo hướng:
- Nguyễn Huy Thiệp là một trong những cây bút xuất sắc của văn học Việt Nam đương đại. Ông viết nhiều truyện có yếu tố kì ảo, hoang đường, cổ tích (các truyện trong tập Những ngọn gió ở Hua Tát,...).
- “Cổ tích”: tên một thể loại văn học dân gian sử dụng nhiều yếu tố kì ảo. “Màu sắc cổ tích”: thuật ngữ dùng để chỉ sự xuất hiện của màu sắc kì ảo, hoang đường trong tác phẩm văn học viết.
- Biểu hiện của màu sắc cổ tích trong truyện Nàng Bua:
+ Bối cảnh thường thấy trong truyện cổ:
• Thời gian: phiếm chỉ (Năm ấy..., Một bữa..., Cuối năm ấy...)
• Không gian: phiếm chỉ (rừng Hua Tát, bản Hua Tát)
+ Cốt truyện sử dụng mô-típ ở hiền gặp lành thường thấy trong truyện cổ tích kì ảo:
Ở hiền: Bua không làm điều ác, không xúi bẩy những người đàn ông đến với mình về ruồng rẫy vợ con hay phải cung phụng mình, không trách móc, oán hờn.
Gặp lành: mẹ con Bua đào được hũ vàng; sau cùng Bua gặp được người đàn ông phù hợp với mình - bác thợ săn goá bụa, không con.
+ Nhân vật nàng Bua thuộc tuyến thiện: khao khát tình yêu, hạnh phúc (Bua đón nhận bất cứ người đàn ông nào đến với mình); tự trọng (không đòi hỏi trách nhiệm từ bất kì người đàn ông nào; không phá vỡ gia đình họ), phóng khoáng (sẵn sàng chia sẻ vật chất với mọi người); nhân vật gặp may mắn: đào được hũ vàng; gặp được người đàn ông phù hợp với mình.
- Màu sắc cổ tích mang lại sức hấp dẫn cho câu chuyện; giúp nhà văn thể hiện tư tưởng nhân văn và nhiều thông điệp ý nghĩa trong câu chuyện.
Câu 7 [706605]: (4,0 điểm)
Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ), trình bày suy nghĩ của anh/ chị về tình yêu sự sống.
Bài văn trình bày suy nghĩ về tình yêu sự sống có thể được triển khai nhiều cách. Song cần bảo đảm các ý:
1. Mở bài (gián tiếp)
- Dẫn dắt vấn đề
- Nêu vấn đề
Ví dụ: Bất cứ ai từng đọc truyện ngắn Số phận con người của nhà văn Nga M. Sô-lô-khốp hẳn không thể quên được sự vĩ đại của nhân vật Xô-cô-lốp, một con người bình thường nhưng đã quá đỗi phi thường khi đi qua những nỗi đau. Điều gì khiến anh có thể an nhiên đi qua cuộc đời với những mất mát, thương đau chồng chất? Lí do thì có nhiều nhưng chắc chắn một trong số đó có tình yêu sự sống. Thông điệp về tình yêu sự sống trong câu chuyện của Sô-lố-khốp buộc chúng ta phải nghĩ suy một cách thấu hơn hơn về nó.
2. Thân bài
- Giải thích ngắn gọn:
+ “Sự sống”: sự tồn tại có ý nghĩa của con người và muôn loài trong cuộc đời.
+ “Tình yêu sự sống”: tình cảm yêu thương dành cho sự sống với nhiều sắc thái, cung bậc tình cảm: trân quý sự sống; khao khát gắn bó với sự sống, với muôn loài muôn vật; khao khát kiến tạo, xây đắp cuộc đời tươi đẹp; mơ ước về tương lai tươi đẹp;...
- Bàn luận về tình yêu sự sống:
+ Ý nghĩa của tình yêu sự sống:
• Với mỗi người: tình yêu sự sống giúp mỗi chúng ta cảm nhận rõ nét vẻ đẹp của sự sống; mang đến chúng ta động lực mạnh mẽ để vượt qua mọi khó khăn trong cuộc sống; tạo động lực để chúng ta phấn đấu hết mình, góp phần làm cho cuộc sống trở nên tươi đẹp; kết nối con người với con người và với vạn vật trong cuộc đời; là cội nguồn của nhiều tình cảm đẹp đẽ khác của con người (yêu gia đình, yêu bạn bè, yêu thiên nhiên, tình yêu lứa đôi,...);...
• Với cộng đồng: tình yêu sự sống góp phần mang lại nhận thức về sự bình yên, tươi đẹp của cộng đồng; nâng cao trách nhiệm bảo vệ, xây dựng, phát triển cộng đồng;
+ Phê phán những người chán ghét sự sống, huỷ hoại sự sống của bản thân và của mọi người (ví dụ: những người trong giây phút bi phẫn tột cùng đã tìm đến cái chết để kết thúc sự sống của bản thân; những kẻ đang tâm triệt tiêu sự sống của sinh linh khác bằng những hành vi tàn độc, vô lương tâm như tạt a-xít, đâm dao, phóng hoả; các công ty xả thải trực tiếp ra môi trường không qua xử lí,...)
+ Bồi đắp tình yêu sự sống:
• Sống có trách nhiệm, lí tưởng, ước mơ,...; nỗ lực hiện thực hoá trách nhiệm, lí tưởng, ước mơ ấy bằng hành động cụ thể...
• Hãy bắt đầu từ những việc nhỏ nhất: yêu cây cỏ, hoa trái, loài vật cảnh sắc quanh ta; chan hoà, thân ái với mọi người xung quanh,...
- Mở rộng: Tình yêu sự sống không cho phép chúng ta mơ hồ về nó. Sự sống gồm niềm vui - nỗi buồn; những điều tốt đẹp - những nỗi khổ đau; hi vọng - thất vọng; bằng phẳng - gập ghềnh, khúc khuỷu,... Cần nhận diện đúng bản chất của sự sống để không thất vọng về nó.
3. Kết bài
Khi chào đời, tất cả chúng ta đều khóc. Hành trình cuộc đời sau này của chúng ta sẽ luôn đan xen tiếng khóc, tiếng khóc. Dẫu sao, hãy cứ ôm trọn sự sống này vào lòng bởi vì bất cứ lẽ gì, được sinh ra, được sống đã là điều tuyệt vời nhất mà chúng ta được trao cho.