I. ĐỌC HIỂU (4,0 điểm)
Đọc đoạn trích:
“Mặc dù Quang rất chăm viết thư nhưng cũng giống như tôi đến mãi bấy giờ anh mới được hồi âm. Song lá thư cho anh hay một cái tin rất tệ. Vợ anh đã bỏ nhà theo trai. Cô ta tằng tịu với một gã thủy thủ đường sông, đến nỗi mang bầu nên phải bỏ làng bán xới theo gã vào Nam ngay sau ngày hòa bình. Bị phải cái tin điếng người ấy, Quang tỏ ra bình tĩnh. Anh thông cảm với vợ. “Lấy nhau mới được có bảy ngày là tớ lên đường đi Bê. Như vậy là cô ấy đã phải vò võ chịu đựng những mười năm giời có lẻ chứ nào ít ỏi gì đâu, thế mà sức người thì có hạn - Quang điềm đạm lí giải một cách phân minh - Thêm nữa nhà tớ lại kề ngay một bến sông nhộn nhịp, tứ xứ thuyền bè qua lại, sự thể như thế tất phải xảy ra. Trách ai được bây giờ. Thôi thì sự đã vậy thì đành vậy, tớ chẳng thiết!”. Miệng anh nói vậy nhưng bụng anh nói khác. Đêm đêm, giữa canh khuya, Quang chỉ toàn nằm mộng thấy kẻ bội bạc, anh nấc lên tên cô ta và vừa rên ư ử vừa nói lảm nhảm. Có đêm tôi nghe thấy trong màn anh vẳng ra tiếng khóc thút thít sụt sịt. Vợ chồng anh chưa có con, nhưng có tới một nửa những thứ trong ba lô của anh là đồ chơi. Còn lại là quà cho vợ. Thỉnh thoảng chúng tôi vẫn thấy anh loay hoay hết dỡ ra lại xếp vào, những xấp vải và những cuộn len, những mớ đồ lót mỏng manh lụa là có viền đăng ten, rồi những lọ nước hoa tí xíu, những vốc hạt trai, hạt cườm, những vòng đeo tay, đeo cổ lóng la lóng lánh. Anh chẳng trà, chẳng thuốc, chẳng uống rượu, để dành được cả một cục tiền. Và ngày ngày anh bỏ thật nhiều thì giờ cặm cụi ngồi viết cho vợ những bức thư thật dài, gần như là mỗi ngày một bức, nhưng không gửi, tồn lại thành một xấp dày. Cho mãi tới buổi chiều trước hôm từ giã chúng tôi để lên đường về quê, lẳng lặng Quang mang xấp thư ấy đi xuống bờ sông, lần lượt giở từng bức ra ngồi đọc lại, đọc đi đọc lại, rồi chậm rãi xé nhỏ, rắc xuống nước, như thể thả mồi nuôi cá.
[...]
Buổi tối hôm đó, trong cuộc nhậu chúng tôi tổ chức để tiễn anh, anh uống nhiều, và dường như bội phần hăng lên.
- Tớ đã ngẫm kĩ rồi. Mai mốt khi đã tìm được nhau, vợ chồng tớ sẽ ở lại luôn trong này chứ không trở ra Bắc, - Anh mơ mộng - Trong Nam này, đất đai đồng ruộng vô vàn, sông hồ cũng mênh mông bát ngát, lo gì không chốn nương thân. Với lại, người dân trong này hợp tính với lính mình. Họ không cổ hủ, đúng không. Và họ rất rộng lòng...”
(Trích Rửa tay gác kiếm - Bảo Ninh, theo Những truyện ngắn - Bảo Ninh, NXB Trẻ, 2021)
Thực hiện các yêu cầu:
Câu 1 [706620]: Đoạn trích được viết theo đề tài nào? Nhân vật chính trong đoạn trích là ai?
- Đề tài: người lính/ chiến tranh/ hậu chiến.
- Nhân vật chính: Quang.
Câu 2 [706621]: Xác định ngôi kể, điểm nhìn của đoạn trích.
- Ngôi kể thứ nhất.
- Điểm nhìn hạn tri/ điểm nhìn của người kể chuyện/ điểm nhìn qua nhân vật “tôi”/ điểm nhìn chủ quan.
Câu 3 [706622]: Đêm đêm, giữa canh khuya, Quang chỉ toàn nằm mộng thấy kẻ bội bạc, anh nấc lên tên cô ta và vừa rên ư ử vừa nói lảm nhảm. Có đêm tôi nghe thấy trong màn anh vẳng ra tiếng khóc thút thít sụt sịt.
Chi tiết trên cho anh/ chị hiểu gì về tâm trạng thực sự của nhân vật Quang trước tình cảnh anh đang lâm phải?
Đêm đêm, giữa canh khuya, Quang chỉ toàn nằm mộng thấy kẻ bội bạc, anh nấc lên tên cô ta và vừa rên ư ử vừa nói lảm nhảm. Có đêm tôi nghe thấy trong màn anh vẳng ra tiếng khóc thút thít sụt sịt.
Tâm trạng thực sự của Quang (trước tình cảnh bị vợ ở quê nhà phản bội): buồn đau, đau khổ; phẫn uất.
Câu 4 [706623]: Nêu chủ đề của đoạn trích.
Chủ đề của đoạn trích: nỗi đau/ bi kịch của người lính trong hoặc/và sau chiến tranh; khát vọng hạnh phúc của con người.
Câu 5 [706624]: Chia sẻ một bài học anh/ chị nhận được từ đoạn trích.
Thí sinh tự do chia sẻ một bài học nhận được từ đoạn trích, miễn là hợp lí, thuyết phục. Chẳng hạn: Chiến tranh có thể lấy đi của con người rất nhiều thứ quý giá như tình yêu, hạnh phúc, song không thể triệt tiêu khát vọng tình yêu, hạnh phúc ở con người.
II. VIẾT (6,0 điểm)
Câu 6 [706625]: (2,0 điểm)
Từ hình tượng nhân vật Quang trong đoạn trích ở phần Đọc hiểu, viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ), trình bày suy nghĩ của anh/ chị về ý nghĩa của khát vọng hạnh phúc trong cuộc sống.
Đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về ý nghĩa của khát vọng hạnh phúc trong cuộc sống có thể được triển khai theo hướng:
- “Hạnh phúc”: trạng thái sung sướng vì cảm thấy hoàn toàn đạt được ý nguyện (chẳng hạn: những người thân sung sướng khi gặp lại người thân sau bao năm xa cách; người dân nghèo sung sướng khi xây được ngôi nhà sau bao năm dành dụm; người mẹ sung sướng khi con chào đời;...).
“Khát vọng hạnh phúc”: khao khát có được hạnh phúc trong cuộc đời, khao khát đạt được ý nguyện.
- Ý nghĩa của khát vọng hạnh phúc trong cuộc sống:
+ Là động lực để con người vượt qua mọi trở lực, nghịch cảnh trong cuộc sống, tiếp tục kiếm tìm, xây đắp hạnh phúc mới trong tương lai. (Người có khát vọng hạnh phúc sẽ luôn biết vươn lên trong cuộc sống để hướng tới mục tiêu hạnh phúc họ mong đợi.); mang lại tinh thần lạc quan; giữ trọn niềm tin với cuộc đời. (Khi con người còn khao khát hạnh phúc, họ sẽ luôn tin vào những điều tốt đẹp trong cuộc sống.)
+ Góp phần mang lại vẻ đẹp cho cuộc đời rộng lớn. (Khát vọng hạnh phúc sẽ là ngọn gió đẩy con thuyền cuộc đời đi xa hơn, đến bến bờ hạnh phúc, từ đó, làm cho cuộc sống này luôn vận động và đến với những điều tốt đẹp.)
Câu 7 [706626]: (4,0 điểm)
Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) so sánh nhân vật Quang trong đoạn trích ở phần Đọc hiểu với nhân vật người chồng (tên Lãng) trong đoạn trích sau:
“[...] Chúng tôi được khám, làm hơn một chục xét nghiệm. Ông bác sĩ quân y kết luận: Sức khoẻ tốt. Sinh lí bình thường... Ông bảo tôi ra ngoài chờ, ông có chuyện nói riêng với chồng tôi. Hoá ra, ông dẫn chồng tôi đến một phòng trắng lạnh lưu giữ vài trăm cái bình thuỷ tinh đựng các quái thai và xác hài nhi dị dạng để nghiên cứu. Ông cho xem ảnh, giảng giải và chỉ vào một cái bình, bảo: Đây là trường hợp cha bị nhiễm chất độc màu da cam vẫn đẻ con lành lặn, bình thường; nhưng đến khi đứa con gái lấy chồng thì lại sinh ra một chùm cục thịt như chùm vải chín đỏ. Cái hậu quả này nặng nề lắm, chẳng biết bao giờ mới hết. Ông căn dặn, an ủi, động viên đến khi chồng tôi hoa mắt, ù tai và không chịu được mùi phoóc môn, hai người mới ra.
Về nhà, chồng tôi nằm lì ba ngày không dậy. Ngày thứ tư, anh gọi tôi vào. Anh già thêm đến chục tuổi. Thương vô cùng. Tôi nằm gối đầu tay chồng, anh nói.
- Bây giờ, anh không giấu em nữa. Bác sĩ bảo anh bị nhiễm chất độc màu da cam. Chửa đẻ trăm lần thì cũng trăm lần quái thai, dị dạng.
Anh tưởng tôi sẽ bàng hoàng đau đớn, vật vã. Nhưng mắt tôi ráo hoảnh. Còn nước mắt đâu nữa mà khóc. Dù anh bị nhiễm chất độc màu da cam hay tôi đẻ quái thai bẩm sinh thì nỗi đau nào cũng như nhau cả thôi.
- Nhiễm chất độc da cam lúc nào? Anh phải biết chứ!
- Lúc đó làm sao biết được. Nghe ông bác sĩ giải thích, rồi mấy ngày nằm nhớ lại. Có lẽ do hành quân qua những cánh rừng trụi lá. Bọn anh uống nước suối ở đó lúc khát, còn múc đầy bi đông mang theo. Lại có lần, đơn vị đóng quân trong rừng già, thấy những chiếc máy bay Mỹ bay rất chậm phun ra chất gì đó như sương mù trắng đục. Vài ngày, lá ngả màu đồng loạt, gió rất nhẹ lá cũng rụng lả tả. Cây trụi lá chỉ còn trơ thân cành. Cả cánh rừng một màu chết chóc. Đi đường thỉnh thoảng thấy những vỏ thùng sắt hoặc thùng nhựa, có đai xung quanh nằm lăn lóc trong rừng. Có đứa ở tiểu đội ước ao mang về quê làm thùng đựng nước ăn cho mẹ. Thì ra là thùng đựng chất diệt cỏ máy bay Mỹ ném xuống mà đến bây giờ có người còn không hề biết.”
(Trích Mười ba bến nước - Sương Nguyệt Minh, theo nhandan.vn)
Bài văn so sánh nhân vật Quang trong đoạn trích từ Rửa tay gác kiếm (Bảo Ninh) với nhân vật người chồng (tên Lãng) trong đoạn trích từ Mười ba bến nước (Sương Nguyệt Minh) có thể được triển khai nhiều cách. Song cần bảo đảm các ý:
1. Mở bài (gián tiếp)
- Dẫn dắt vấn đề
- Nêu vấn đề
2. Thân bài
* Bước 1. Giới thiệu các tác giả, các tác phẩm, các đoạn trích
- Bảo Ninh, Sương Nguyệt Minh: hai trong những cây bút xuất sắc của văn xuôi Việt Nam đương đại, thành công với nhiều sáng tác viết về đề tài chiến tranh - hậu chiến.
- Rửa tay gác kiếm: truyện ngắn kể lại cuộc đời, thân phận của những người lính những ngày đầu sau khi chiến tranh chống Mĩ kết thúc. Trong số đó có Quang.
- Mười ba bến nước: truyện ngắn của Sương Nguyệt Minh, kể chuyện nhân vật “tôi” (tên Sao) có chồng là bộ đội (tên Lãng). Lãng may mắn trở về sau khi chiến tranh kết thúc nhưng năm lần hai vợ chồng sinh con là năm lần họ sinh ra những đứa trẻ dị dạng và chết yểu.
* Bước 2. Giải quyết vấn đề nghị luận
** Cơ sở và mục đích so sánh

- Cơ sở so sánh: cùng là tác phẩm tiêu biểu của Bảo Ninh và Sương Nguyệt Minh; hai tác phẩm xuất sắc về đề tài chiến tranh - hậu chiến.
- Mục đích so sánh: chỉ ra sự tương đồng, khác biệt ở hai nhân vật.
** So sánh, đánh giá các nhân vật
- So sánh:
+ Giống nhau:
• Cùng kiểu nhân vật người lính trong kháng chiến chống Mĩ.
• Cùng hoàn cảnh: chiến tranh kết thúc, trở lại với cuộc sống đời thường nhưng cả hai đều gặp phải bi kịch/ nỗi đau trong đời sống gia đình: Quang - một người từng dành hết tình yêu thương cho người vợ qua những lá thư, những món đồ anh dành dụm mua làm quà cho vợ, cuối cùng sát kề ngày trở về, anh cay đắng nhận tin vợ anh bỏ anh để theo người đàn ông khác; Lãm trở về từ chiến tranh mang theo nỗi đau bị nhiễm chất độc màu da cam. Anh và vợ không thể sinh những đứa con lành lặn, bình thường.
(Liên hệ nỗi đau của rất nhiều người lính, những cô gái thanh niên xung phong trong chiến tranh: cô Quỳ trong Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành của Nguyễn Minh Châu, Thảo trong Người sót lại của Rừng Cười, dì Mây trong Người về bến sông Châu của Sương Nguyệt Minh, ông Miêng trong Lời hứa của thời gian của Nguyễn Quang Thiều, Mộc và Nga trong Trại Bảy chú lùn của Bảo Ninh...)
• Cùng có khao khát hạnh phúc, khao khát xây dựng cuộc sống mới khi trở về từ chiến tranh:
o Khao khát hạnh phúc của Quang trong Rửa tay gác kiếm được thể hiện qua lời nói của nhân vật cuối đoạn trích: “Tớ đã ngẫm kĩ rồi. Mai mốt khi đã tìm được nhau, vợ chồng tớ sẽ ở lại luôn trong này chứ không trở ra Bắc. Trong Nam này, đất đai đồng ruộng vô vàn, sông hồ cũng mênh mông bát ngát, lo gì không chốn nương thân. Với lại, người dân trong này hợp tính với lính mình. Họ không cổ hủ, đúng không. Và họ rất rộng lòng...”. Cùng với lòng bao dung, rộng lượng, khao khát hạnh phúc đời thường đã đưa Quang vượt lên trên bi kịch cá nhân.
o Lãm trong Mười ba bến nước cùng người vợ của mình đã kiên trì làm hàng chục xét nghiệm để tìm kiếm nguyên nhân vì sao hai vợ chồng anh không thể sinh những đứa con bình thường. Nỗi đau khổ của Lãm khi biết rõ nguyên nhân phần nào ánh chiếu khao khát có con, khao khát cuộc sống đời thường của anh và vợ.
+ Khác nhau:
• Ở bi kịch riêng:
o Quang trong Rửa tay gác kiếm: bị vợ phản bội dù anh hết lòng yêu vợ. Những năm tháng ở chiến trường, anh đã liên tục viết thư cho vợ. Có bao nhiêu tiền, anh đều dành dụm mua những món đồ xinh xắn cho cô vợ trẻ và đồ chơi cho con (dù vợ chồng Quang chưa có con). Ban ngày tỉnh táo, anh điềm đạm lí giải một cách phân minh nguyên do vợ anh phản bội. Có thể hiểu những lí giải tường tận, thấu đáo của anh chính là tiếng nói lí trí của một nhân cách, một lương tri. Hơn ai hết, Quang thấu hiểu nỗi khổ của người phụ nữ có chồng đi chiến đấu: Xa cách, khát khao tình yêu, khát khao hạnh phúc ở người đàn bà trẻ đằng đẵng suốt mười năm trời có thể đẩy họ đến sự phản bội. Nhưng đêm đến, tiếng nói của xúc cảm yếu đuối, của nỗi đau thẳm sâu trong anh lại oà lên nức nở anh nấc lên tên cô ta và vừa rên ư ử vừa nói lảm nhảm. Có đêm (...) trong màn anh vẳng ra tiếng khóc thút thít sụt sịt. Bi kịch ấy, chắc có lẽ Quang muốn giữ cho riêng mình?
• Lãng trong Mười ba bến nước may mắn hơn Quang khi được trở về với hạnh phúc gia đình trọn vẹn. Sao - vợ Lãng - vẫn thuỷ chung chờ đợi chồng. Nhưng điều không may đã xảy đến với vợ chồng anh: Lãng bị nhiễm chất độc màu da cam và chỉ có thể sinh ra những đứa con dị dạng và chết yểu. Sau ngày đi khám ông bác sĩ quân y về, Lãng nằm lì ba ngày không dậy, Sao trông chồng già đi đến chục tuổi. Có lẽ suốt ba ngày đó, anh đã đau khổ và suy nghĩ lung lắm!
• Cách đối diện với bi kịch:
o Quang: Trước bi kịch của bản thân, ban đầu, Quang đau khổ, dằn vặt, tổn thương nhưng sau cùng, anh vẫn bao dung với người vợ dại và trong anh vẫn tràn trề hi vọng vào hạnh phúc. Chi tiết cuối đoạn trích, Quang quyết tâm đi tìm vợ, quyết tâm xây đắp hạnh phúc với vợ ở miền đất mới khiến người đọc thực sự cảm phục và xúc động.
o Lãng: Tình cảnh éo le của Lãng khiến anh chẳng thể nghĩ được điều gì khác tươi sáng hơn. Dầu đoạn trích không kể chi tiết nhưng có lẽ suốt ba ngày đóng cửa tự giam mình, Lãng đã đi đến tận cùng của nỗi đau khổ. Chắc có lẽ anh đã nghĩ mình có lỗi với Sao, với gia đình mình. Cũng có khi anh đã có ý định giải thoát cho mình, và cho cả Sao nữa,... Thực sự, quyết định nào của Lãng cũng sẽ khiến anh đau khổ tận cùng. Lãng đã may mắn hơn rất nhiều người lính khi anh có một người vợ thuỷ chung và rất mực thương anh. Nhưng phần kém may mắn khi không thể sinh những đứa con bình thường lại đẩy anh rơi vào bi kịch muộn hơn nhiều đồng đội của mình.
- Đánh giá, lí giải:
+ Lí giải sự tương đồng, khác biệt:
• Sự tương đồng được mang đến từ trải nghiệm thực tế của các nhà văn (hai nhà văn đều là những người lính); từ sự gặp gỡ trong cái nhìn của các tác giả về đề tài; từ bối cảnh sáng tác (sau chiến tranh);...
• Sự khác biệt được mang đến từ ý thức về cá tính sáng tạo của mỗi tác giả/ từ cách tiếp cận và phản ánh hiện thực riêng biệt của mỗi người viết.
+ Ý nghĩa của sự tương đồng, khác biệt:
• Sự tương đồng trong bi kịch của hai nhân vật tô đậm cho sự khốc liệt của chiến tranh và thân phận mong manh của con người trong chiến tranh; góp phần mang lại vẻ phong phú cho kiểu nhân vật người lính trong chiến tranh;...
• Sự khác biệt thể hiện nét độc đáo trong cách cảm nhận và thể hiện của mỗi nhà văn về đề tài chiến tranh/ hậu chiến, tạo nên cá tính sáng tạo cho mỗi ngòi bút; góp phần tạo nên tính chất đa dạng cho kiểu nhân vật người lính trong văn học;...
3. Kết bài
Bày tỏ cảm xúc, suy nghĩ về vấn đề nghị luận (hai đoạn trích).