I. ĐỌC HIỂU (4,0 điểm)
Đọc đoạn trích:
“Một hôm, chiều tối, từ ngoài rẫy một mình trở về muộn, tôi sững ra, không tin vào mắt mình nữa. Căn nhà chúng tôi đầy sáng ánh đuốc. Tiếng đàn ghita, rồi một giọng con gái cất cao, hát lên bài hát của thanh niên xung phong: “Đời chiến đấu, đời gian nan... nhưng hỡi tuổi trẻ đẹp tươi, hạnh phúc trong đời là chiến đấu...”. Tôi dừng ở ngưỡng cửa. Cuộc vui kéo dài có lẽ đã khá lâu rồi. “Đồng chí Nga, giao liên T65, từ nay là hàng xóm của chúng mình”, Huy giới thiệu cô gái lạ với tôi. Một cô gái trẻ măng, người cao, cân đối, nước da bánh mật, tóc tết đuôi sam. Cô ngừng hát. Khuôn mặt thanh tú hết sức ưa nhìn thoáng vẻ bẽn lẽn. “Ôi, từ nay những gì rồi sẽ đến với cánh ta đây hả các bạn?”, tôi thầm nghĩ. “Năm tháng vinh quang, khổ đau bất tận...”, cô ta lại bật dây đàn và hát, người uốn éo, mặt tái đi, mắt vừa rực lên vừa tối lại, và giọng hát thì tuyệt hay, khi vút cao khi bất ngờ tắt lặng.
Cho đến tận bây giờ, những chiều từ rừng trở về muộn, tôi lại thỉnh thoảng thình lình trông thấy buổi tối ấy, nghe thấy tiếng hát ấy, và nhắm mắt lại tôi nhìn thấy các đồng chí, nhìn thấy Nga...
Cuối năm 67, trong một chuyến đưa khách về Ân Cốc, hai đồng chí nam ở T65 bị bọn thám báo Mỹ phục kích giết chết. Cũng thời gian đó ở đây xảy ra trận cháy rừng, chúng tôi mất Hinh. Lửa cũng hủy luôn toàn bộ nhà cửa lán trại của trạm T65. Tôi mời Nga chuyển vị trí trạm vào trong trại ở chung với chúng tôi. Nhưng Nga từ chối, và như là giận gì chúng tôi, cô di hẳn vị trí của cô sang bờ đông. Và thưa hẳn đi lại.
Giữa tôi và Huy, ai buồn hơn, khó mà biết được. Nhưng có lẽ tôi thì cứng rắn hơn một chút, còn Huy mềm yếu hơn. Huy vốn thổi tiêu rất hay, nhưng ít thổi và từ lâu đã không thấy nhìn ngó đến. Vậy mà bây giờ, tiếng tiêu của Huy ngày ngày nghe cất lên bên bờ sông trong bóng chiều chạng vạng, làm nhau ứa nước mắt. Tính đã lặng lẽ, Huy càng trở nên lặng lẽ hơn. Và tôi thì còn thỉnh thoảng sang sông thăm Nga, làm việc này việc nọ giúp cô, chứ Huy thì không một lần. Những khi họa hoằn có Nga sang chơi, y như rằng Huy bỏ đi cố tình tránh mặt.
Mùa mưa 68, Nga không rút qua Lào như mọi năm. Cô được lệnh chốt lại, nhưng trên chẳng còn người nữa để điều thêm về trạm. Một mình Nga một cung trạm giao liên.
Bữa Huy qua đời, tôi không thể kịp báo tin cho Nga. Nhưng, không hiểu bằng cách nào mà Nga vẫn hay tin. Chiều hôm sau, mặc dù đang lũ lớn, Nga qua sông. Trước tiên, Nga vào khu nghĩa trang của trại viếng mộ Huy và những người anh em đã khuất của tôi. Rồi cô vào trại tìm tôi. Cô nói: “Từ nay, em sang ở cùng anh”. Từ đấy, trại Bảy Chú Lùn và trạm T65 là một.
Cũng căn nhà này đây, nhưng hồi ấy là nhà âm. Tôi gian bên phải, Nga gian trái. Gian giữa này dành cho khách. Khách vào, khách ra theo đường dây của Nga sống chủ yếu bằng nguồn lương thực của trại. Những ngày mưa lớn tôi chống đò đưa Nga và những người khách của cô vượt lũ Sa Thầy. Nhiều lần theo yêu cầu của Nga, tôi đi cả đò dọc. Nhưng càng ngày người nhập trạm vào khu Sáu càng thưa hơn, người từ đó ra lại càng ít nữa. Nga thường xuyên ở trại. Cô đảm nhận tất tật những việc ở nhà để tôi chuyên tâm hoàn toàn chuyện nương rẫy. Những việc ở nhà vừa không kém cực nhọc vừa lách nhách: sấy sắn, sấy măng, phơi cá, tưới rau, trừ mối mọt cho các sạp kho, trông nom gà lợn... Những khi tôi ốm đau, mà dạo đó sức kiệt quá rồi, tôi ốm đau luôn, Nga chăm bẵm, nâng giấc cho tôi và đôi khi lên rẫy thay tôi. Thương nhau, gần gũi nhau thế và trong cô đơn đè nặng, giữa hoang vắng đêm trường, vậy mà... Tôi rất hiểu. Không phải là không chịu đựng nổi nhưng Nga ngán vô cùng loại công việc của chúng tôi. Thêm nữa, tình hình chung trên chiến trường dằn ép nặng nề tâm trạng Nga. Thời kì sau Mậu Thân ở B3 ra sao có lẽ chẳng cần phải nói nữa, mà ở Khu Sáu thì thôi càng miễn phải luận bàn. Nói chung là tối tăm mù mịt. Tình hình ở đầu đường dây và ở cuối đường dây thế nào, tại đây chúng tôi chỉ có thể phỏng chừng. Và anh có thể tưởng tượng nổi là suốt cả một năm 1969, ba trăm sáu mươi lăm ngày đêm, chỉ có tôi với Nga, Nga với tôi. Lương thực tích trong kho, trong vựa không có đơn vị nào đến lĩnh. Bởi vì làm gì còn đơn vị nào nữa trên Cánh Bắc này. Tạt cả sang Miên, hoặc rút hết xuống Cánh Nam rồi.”
(Trích Trại “bảy chú lùn” , theo Những truyện ngắn - Bảo Ninh, NXB Trẻ, 2021)
Thực hiện các yêu cầu:
Câu 1 [706641]: Xác định đề tài của đoạn trích.
Đề tài của đoạn trích: chiến tranh/ hậu chiến.
Câu 2 [706642]: Tìm các chi tiết khắc hoạ vẻ đẹp của nhân vật Nga trong lần đầu xuất hiện ở lán trại của nhân vật “tôi”.
Các chi tiết khắc hoạ vẻ đẹp của nhân vật Nga trong lần đầu xuất hiện ở lán trại của nhân vật “tôi”:
- một giọng con gái cất cao
- cô gái trẻ măng, người cao, cân đối, nước da bánh mật, tóc tết đuôi sam
- khuôn mặt thanh tú hết sức ưa nhìn thoáng vẻ bẽn lẽn
- cô ta lại bật dây đàn và hát, người uốn éo, mặt tái đi, mắt vừa rực lên vừa tối lại, và giọng hát thì tuyệt hay, khi vút cao khi bất ngờ tắt lặng
Câu 3 [706643]: Và anh có thể tưởng tượng nổi là suốt cả một năm 1969, ba trăm sáu mươi lăm ngày đêm, chỉ có tôi với Nga, Nga với tôi. Lương thực tích trong kho, trong vựa không có đơn vị nào đến lĩnh.
Chi tiết trên cho anh/chị hiểu gì về cuộc sống của các nhân vật người lính tăng gia và cô giao liên?
Chi tiết phản ánh trạng thái cô độc trong đời sống của các nhân vật người lính tăng gia và cô giao liên.
Câu 4 [706644]: Nêu chủ đề của đoạn trích.
Chủ đề của đoạn trích: Đời sống lặng lẽ, gian khổ, buồn tẻ của những người lính tăng gia tại chiến trường B3 (Tây Nguyên) trong kháng chiến chống Mỹ.
Câu 5 [706645]: Cảm nhận của anh/chị về hình tượng những người lính tăng gia trong đoạn trích (trình bày khoảng 5 - 7 dòng).
Hình tượng những người lính tăng gia trong đoạn trích:
- Trong đoạn trích, những người lính tăng gia gồm nhân vật “tôi” và Huy, Hinh (Hinh hi sinh cuối năm 1967).
- Các nhân vật được khắc hoạ rõ nét qua các chi tiết:
+ Công việc: lao động sản xuất để cung cấp lương thực cho các đơn vị chiến đấu.
+ Không gian sống: nương rẫy heo hút, cuộc sống cô độc
+ Đặc điểm tính cách:
• Tài hoa (Huy thổi tiêu rất hay).
• Nhạy cảm, giàu tình cảm (Cho đến tận bây giờ, những chiều từ rừng trở về muộn, tôi lại thỉnh thoảng thình lình trông thấy buổi tối ấy, nghe thấy tiếng hát ấy, và nhắm mắt lại tôi nhìn thấy các đồng chí, nhìn thấy Nga...; mời Nga chuyển vị trí trạm vào trong trại ở chung); hướng nội (Tính đã lặng lẽ, Huy càng trở nên lặng lẽ hơn; tiếng tiêu của Huy ngày ngày nghe cất lên bên bờ sông trong bóng chiều chạng vạng, làm nhau ứa nước mắt).
• Chăm chỉ, cần mẫn lao động sản xuất (tôi chuyên tâm hoàn toàn chuyện nương rẫy).
• Cống hiến, hi sinh thầm lặng (công việc của các chiến sĩ tăng gia tuy không phải xông pha nơi trận địa nhưng cũng không kém phần khó khăn, gian khổ; họ không hi sinh trước hòn tên mũi đạn nhưng cũng chết trong chính công việc mình đang đảm đương).
- Hình tượng người lính tăng gia hiện lên thật đáng mến, đáng trọng.
II. VIẾT (6,0 điểm)
Câu 6 [706646]: (2,0 điểm)
Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ), phân tích sự đan xen giữa tự sự và miêu tả, biểu cảm được thể hiện trong đoạn trích ở phần Đọc hiểu.
Đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) phân tích sự đan xen giữa tự sự và miêu tả, biểu cảm được thể hiện trong đoạn trích được rút từ truyện ngắn Trại “bảy chú lùn” (Bảo Ninh) có thể được triển khai theo hướng:
- Bảo Ninh là một trong những gương mặt xuất sắc của văn xuôi Việt Nam hiện đại, có nhiều trang viết đặc sắc về đề tài chiến tranh. Trại “bảy chú lùn” là một trong những truyện ngắn tiêu biểu của Bảo Ninh. Đoạn trích khắc hoạ đậm nét đời sống gian khổ, buồn tẻ của những người lính tăng gia nơi chiến trường Tây Nguyên. Một trong những yếu tố nghệ thuật nổi bật của đoạn trích là sự đan xen giữa tự sự và miêu tả, biểu cảm:
+ Biểu hiện của tự sự và miêu tả, biểu cảm trong đoạn trích:
• Tự sự (phương thức biểu đạt chính): Đoạn trích kể lại câu chuyện về cuộc sống của những người lính tăng gia của trại Bảy Chú Lùn và Nga - cô giao liên trạm T65 với chuỗi sự việc: sự xuất hiện của Nga và hai đồng chí nam ở T65; T65 bị tiêu huỷ, Hinh mất trong trận cháy rừng năm 1967, Nga sang bờ đông ở; Huy mất, Nga sang ở cùng “tôi” tại trại Bảy Chú Lùn - hai người sống cuộc sống âm thầm, lặng lẽ, dần bị cắt liên lạc với các đơn vị chiến đấu;...
• Miêu tả: thể hiện qua những câu văn miêu tả vẻ đẹp của Nga; nỗi buồn của Huy; tâm trạng nặng nề của “tôi” và Nga khi phải sống những ngày lặng lẽ, cô độc tại trại Bảy Chú Lùn;...
• Biểu cảm: sự thấu hiểu, đồng cảm, yêu thương, sẻ chia với cuộc sống buồn lặng, cô độc nơi rừng sâu của những người lính tăng gia.
+ Ý nghĩa của sự kết hợp giữa tự sự và miêu tả, biểu cảm trong đoạn trích:
• Tự sự mang đến người đọc tiếp nhận chuỗi sự việc, sự kiện gắn liền với các nhân vật; miêu tả giúp người đọc hình dung rõ hơn về tính cách, tâm trạng các nhân vật; biểu cảm giúp người kể chuyện bộc lộ tình cảm, thái độ dành cho các nhân vật trong đoạn trích.
• Sự kết hợp giữa các phương thức biểu đạt giúp câu chuyện được kể hiện lên sinh động, hấp dẫn, thu hút người đọc, người nghe.
Câu 7 [706647]: (4,0 điểm)
Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ), trình bày suy nghĩ của anh/chị về vẻ đẹp của sự giản dị trong xã hội hiện đại.
Bài văn trình bày suy nghĩ về vẻ đẹp của sự giản dị trong xã hội hiện đại có thể được triển khai nhiều cách. Song cần bảo đảm các ý:
1. Mở bài (gián tiếp)
- Dẫn dắt vấn đề
- Nêu vấn đề
2. Thân bài
- Giải thích ngắn gọn “giản dị”: đơn giản một cách tự nhiên trong phong cách sống; dễ hiểu, không có gì rắc rối. Giản dị là một lối sống đẹp, không hướng tới sự xa hoa, cầu kì, kiểu cách mà hướng tới sự mộc mạc, chân phương.
- Bình luận về vẻ đẹp của sự giản dị trong xã hội hiện đại:
+ Cuộc sống hiện đại với rất nhiều tiện nghi, tiện ích mang đến con người một đời sống vật chất đủ đầy, đáp ứng mọi nhu cầu ăn ở, đi lại, vui chơi, giải trí,... của con người (cuộc sống thường ngày của con người đã được hỗ trợ bởi rất nhiều vật dụng: nấu cơm có nồi cơm điện; nấu thức ăn có bếp từ, nồi ủ, nồi chiên không dầu; rửa bát có máy rửa; giặt quần áo có máy giặt; hút bụi có robot tự động; liên lạc có điện thoại thông minh với kết nối mạng trực tuyến; di chuyển đường dài có đủ các phương tiện taxi, xe bus, ô tô, tàu hoả, máy bay; quần áo không chỉ bền mà còn đẹp với mọi mức giá phù hợp lựa chọn của khách hàng,...). Nếu chỉ nhìn vào tất cả những điều này, có lẽ nhiều người sẽ nghĩ xã hội hiện đại thật tiện nghi, sang trọng, và như thế, làm gì còn chỗ cho những vẻ đẹp giản dị, đời thường xuất hiện! Song thực tế không hẳn như vậy.
Chúng ta vẫn thấy vẻ đẹp giản dị có mặt ở hầu khắp mọi nơi, từ chốn làng quê lên thành phố, từ thế giới vật chất bên ngoài đến thế giới tâm hồn bên trong mỗi con người: một cánh đồng xanh mướt ngô khoai, một đàn cò trắng bay lả bay la trong trời chiều, một cánh diều vi vút trên triền đê lộng gió, dòng sông quê hương ngầu đỏ phù sa,...; một công viên xanh giữa phố thị đông đúc, một đàn bồ câu con đậu con bay giữa quảng trường trung tâm, một tiếng rao “Ai bánh khúc đê!” vang lên trong đêm lạnh, một xe cơm từ thiện trưa nào cũng đúng giờ ấy có mặt ở cổng bệnh viện để phát cho người nhà bệnh nhân,...; bạn học sinh xuất thân từ một gia đình khá giả nhưng khi nào cũng hoà đồng vui vẻ với bạn bè; cô con gái một gia đình trâm anh thế phiệt nhưng lúc nào cũng lễ phép trước các cô bác trong cơ quan; những đứa trẻ thành phố hè về quê với ông bà nhưng chẳng bao giờ than phiền quê nhà thiếu thốn; nhiều người có thu nhập rất cao trong xã hội nhưng cũng không coi việc sắm, xài hàng hiệu là điều cần thiết;...
+ Ý nghĩa, giá trị của vẻ đẹp giản dị:
• Giản dị là một vẻ đẹp, góp phần tô điểm cho sự sống của con người; góp phần giảm thiểu những phức tạp không cần thiết trong cuộc sống; góp phần hình thành lối sống tiết kiệm trong xã hội;...
• Vẻ đẹp giản dị mang lại cảm giác thanh thản, nhẹ nhõm trong tâm hồn con người; mang lại cảm giác gần gũi, thân thiện giữa các đối tượng giao tiếp; tạo đà cho sự đồng điệu, thấu hiểu, kết nối, hoà hợp giữa các đối tượng;...
+ Thực hành lối sống giản dị từ nhận thức, suy nghĩ đến lời ăn tiếng nói đến hành động, cung cách sinh hoạt, ứng xử...
- Mở rộng:
+ Giản dị khác với bần tiện, ki kiết, bủn xỉn.
+ Giản dị cũng khác với xuề xoà, buông tuồng, cẩu thả làm bản thân trở nên thấp kém.
3. Kết bài
Bài học nhận thức và hành động
- Giản dị là một đức tính, một lối sống đẹp cần được lan toả trong xã hội.
- Thực hành lối sống giản dị từ những điều, những việc nhỏ nhất.