I. ĐỌC HIỂU (4,0 điểm)
Đọc đoạn trích:
“Bài thơ có ba khổ được viết thể tự do, câu “Cành mận bung cánh muốt” được lặp lại ba lần và mỗi lần điệp là mở ra một không gian khác, có mẹ gói bánh, có cha làm nỏ, có già bản làm đu, có hương nếp và bếp lửa ấm áp trong nhà trình tường như giục người đi xa trở về.
"Mùa hoa mận" của Chu Thùy Liên cũng chính là mùa xuân rộn ràng của núi rừng Tây Bắc, ở đó tác giả đã gửi gắm những điều tốt lành như ước mơ ai cũng được thả lên trời cao và lời chúc cho những người con của quê hương dù đi đâu xa đều gặp may mắn, duyên lành để mà “nhớ lối trở về”.
Câu thơ “Cành mận bung cánh muốt” xuất hiện ba lần cũng là ẩn ý về sắc trắng hoa đã trở khắp núi đồi trùng điệp để đón những bước chân xa quê trở về. Tác giả bài thơ nói rằng hoa mận có ý nghĩa đặc biệt, không phải đối với riêng chị, mà với mọi bà con miền núi phía Bắc. Hầu như nhà nào cũng trồng cây mận bên nhà, vì với người bà con vùng cao, chúng mang lại sự bình an. Hoa mận luôn nở thành từng chùm, tượng trưng cho sự sung túc, vui vầy của gia đình và còn tượng trưng cho tinh thần sống mạnh mẽ trong những hoàn cảnh khắc nghiệt. Chị đã cùng với đồng bào mình đón những mùa hoa mận vô tư vui đùa dưới từng gốc mận.
Hoa mận nở báo hiệu mùa Tết của đồng bào - là mùa thư nhàn, vui chơi. Chu Thùy Liên tâm sự: “Tôi chưa bao giờ thôi yêu Tết của đồng bào mình. Nhìn ai tôi cũng thấy đẹp, từ ánh mắt trẻ thơ nhìn theo chiếc bóng bay cho đến bước chân của những người nông dân đi sắm Tết, từ cành đào, cành mận vừa nở cho đến bếp lửa, mâm cơm cúng và cả những khuôn mặt rạng rỡ vui chơi. Bạn phải ở đây chứng kiến những người đồng bào từ bản làng của mình vượt gần trăm cây số để mua sắm Tết sẽ thấy xúc động như thế nào”.
“Bài thơ có ba khổ được viết thể tự do, câu “Cành mận bung cánh muốt” được lặp lại ba lần và mỗi lần điệp là mở ra một không gian khác, có mẹ gói bánh, có cha làm nỏ, có già bản làm đu, có hương nếp và bếp lửa ấm áp trong nhà trình tường như giục người đi xa trở về.
"Mùa hoa mận" của Chu Thùy Liên cũng chính là mùa xuân rộn ràng của núi rừng Tây Bắc, ở đó tác giả đã gửi gắm những điều tốt lành như ước mơ ai cũng được thả lên trời cao và lời chúc cho những người con của quê hương dù đi đâu xa đều gặp may mắn, duyên lành để mà “nhớ lối trở về”.
Câu thơ “Cành mận bung cánh muốt” xuất hiện ba lần cũng là ẩn ý về sắc trắng hoa đã trở khắp núi đồi trùng điệp để đón những bước chân xa quê trở về. Tác giả bài thơ nói rằng hoa mận có ý nghĩa đặc biệt, không phải đối với riêng chị, mà với mọi bà con miền núi phía Bắc. Hầu như nhà nào cũng trồng cây mận bên nhà, vì với người bà con vùng cao, chúng mang lại sự bình an. Hoa mận luôn nở thành từng chùm, tượng trưng cho sự sung túc, vui vầy của gia đình và còn tượng trưng cho tinh thần sống mạnh mẽ trong những hoàn cảnh khắc nghiệt. Chị đã cùng với đồng bào mình đón những mùa hoa mận vô tư vui đùa dưới từng gốc mận.
Hoa mận nở báo hiệu mùa Tết của đồng bào - là mùa thư nhàn, vui chơi. Chu Thùy Liên tâm sự: “Tôi chưa bao giờ thôi yêu Tết của đồng bào mình. Nhìn ai tôi cũng thấy đẹp, từ ánh mắt trẻ thơ nhìn theo chiếc bóng bay cho đến bước chân của những người nông dân đi sắm Tết, từ cành đào, cành mận vừa nở cho đến bếp lửa, mâm cơm cúng và cả những khuôn mặt rạng rỡ vui chơi. Bạn phải ở đây chứng kiến những người đồng bào từ bản làng của mình vượt gần trăm cây số để mua sắm Tết sẽ thấy xúc động như thế nào”.
(Trích Nhà thơ Chu Thuỳ Liên: Ngẩn ngơ nhìn hoa mận trắng - Lâm Hạnh, theo thethaovanhoa.vn)
Thực hiện các yêu cầu:
Câu 1 [702288]: Đoạn trích gồm mấy phần? Nêu nội dung chính của từng phần.
Đoạn trích gồm hai phần:
- Phần thứ nhất (từ đầu đến vui đùa dưới từng gốc mận): giới thiệu những nét đặc sắc nổi bật về hình thức nghệ thuật và nội dung của bài thơ Mùa hoa mận.
- Phần thứ hai (còn lại): ý nghĩa của bài thơ Mùa hoa mận.
- Phần thứ nhất (từ đầu đến vui đùa dưới từng gốc mận): giới thiệu những nét đặc sắc nổi bật về hình thức nghệ thuật và nội dung của bài thơ Mùa hoa mận.
- Phần thứ hai (còn lại): ý nghĩa của bài thơ Mùa hoa mận.
Câu 2 [702289]: Theo đoạn trích, hình tượng hoa mận tượng trưng cho những điều gì?
Theo đoạn trích, hình tượng hoa mận tượng trưng cho sự sung túc, vui vầy của gia đình và cho tinh thần sống mạnh mẽ trong những hoàn cảnh khắc nghiệt.
Câu 3 [702290]: Bài thơ có ba khổ được viết thể tự do, câu “Cành mận bung cánh muốt” được lặp lại ba lần
Chi tiết trên nhằm giới thiệu phương diện nào của bài thơ Mùa hoa mận (Chu Thuỳ Liên)?
Chi tiết trên nhằm giới thiệu phương diện nào của bài thơ Mùa hoa mận (Chu Thuỳ Liên)?
Bài thơ có ba khổ được viết thể tự do, câu “Cành mận bung cánh muốt” được lặp lại ba lần
Chi tiết trên nhằm giới thiệu phương diện hình thức nghệ thuật (thể thơ, phép lặp cấu trúc cú pháp) của bài thơ Mùa hoa mận (Chu Thuỳ Liên).
Chi tiết trên nhằm giới thiệu phương diện hình thức nghệ thuật (thể thơ, phép lặp cấu trúc cú pháp) của bài thơ Mùa hoa mận (Chu Thuỳ Liên).
Câu 4 [702291]: Việc đưa vào đoạn trích những chia sẻ của nhà thơ Chu Thuỳ Liên có ý nghĩa gì?
Việc đưa vào đoạn trích những chia sẻ của nhà thơ Chu Thuỳ Liên có ý nghĩa:
- Thể hiện sự tìm tòi, hiểu biết của người viết về đối tượng thuyết minh.
- Tăng tính hấp dẫn, thuyết phục cho văn bản thuyết minh.
- Giúp người đọc hiểu rõ hơn về đối tượng thuyết minh - bài thơ Mùa hoa mận:
+ Ý nghĩa của hình tượng hoa mận trong đời sống người dân miền núi phía Bắc: tượng trưng cho sự sung túc, vui vầy của gia đình, tượng trưng cho tinh thần sống mạnh mẽ trong những hoàn cảnh khắc nghiệt.
+ Ý nghĩa của bài thơ: Bài thơ bộc lộ tình yêu quê hương, nghĩa đồng bào sâu nặng trong Chu Thuỳ Liên (“Tôi chưa bao giờ thôi yêu Tết của đồng bào mình”).
- Thể hiện sự tìm tòi, hiểu biết của người viết về đối tượng thuyết minh.
- Tăng tính hấp dẫn, thuyết phục cho văn bản thuyết minh.
- Giúp người đọc hiểu rõ hơn về đối tượng thuyết minh - bài thơ Mùa hoa mận:
+ Ý nghĩa của hình tượng hoa mận trong đời sống người dân miền núi phía Bắc: tượng trưng cho sự sung túc, vui vầy của gia đình, tượng trưng cho tinh thần sống mạnh mẽ trong những hoàn cảnh khắc nghiệt.
+ Ý nghĩa của bài thơ: Bài thơ bộc lộ tình yêu quê hương, nghĩa đồng bào sâu nặng trong Chu Thuỳ Liên (“Tôi chưa bao giờ thôi yêu Tết của đồng bào mình”).
Câu 5 [702292]: Từ đoạn trích, anh/chị hãy rút ra bài học khi giới thiệu về một tác phẩm văn học.
Từ đoạn trích, thí sinh có thể rút ra một số bài học khi giới thiệu một tác phẩm văn học như:
- Bố cục mạch lạc, sáng rõ;
- Giới thiệu những nét đặc sắc nổi bật về hình thức nghệ thuật và nội dung của tác phẩm (thể loại, biện pháp tu từ, hình ảnh tiêu biểu,... cùng ý nghĩa biểu đạt của các yếu tố hình thức nghệ thuật; ý nghĩa của văn bản);
- Nêu những chia sẻ của tác giả về tác phẩm (nếu có);...
- Bố cục mạch lạc, sáng rõ;
- Giới thiệu những nét đặc sắc nổi bật về hình thức nghệ thuật và nội dung của tác phẩm (thể loại, biện pháp tu từ, hình ảnh tiêu biểu,... cùng ý nghĩa biểu đạt của các yếu tố hình thức nghệ thuật; ý nghĩa của văn bản);
- Nêu những chia sẻ của tác giả về tác phẩm (nếu có);...
II. VIẾT (6,0 điểm)
Câu 6 [702293]: (2,0 điểm)
Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về ý nghĩa của tình yêu quê hương đối với mỗi con người.
Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về ý nghĩa của tình yêu quê hương đối với mỗi con người.
Đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ về ý nghĩa của tình yêu quê hương đối với mỗi con người có thể được triển khai theo theo hướng:
- Là tình cảm đẹp, gắn kết mỗi con người với cội nguồn của chính mình (bất cứ ai trong chúng ta cũng đều có quê hương, đều thuộc về một quê hương, nơi gốc gác, tổ tiên ta ở đó); là động lực để mỗi người không ngừng phát triển bản thân, góp phần làm rạng danh, góp phần xây đắp quê hương (Thực tế có rất nhiều người xa quê, lập nghiệp ở nơi khác, khi thành đạt đã trở về dựng xây quê hương, hỗ trợ người dân quê mình phát triển kinh tế,...).
- Tình yêu quê hương là gốc rễ căn bản của nhiều tình cảm đẹp đẽ trong mỗi con người: tình yêu gia đình, tình yêu đất nước,...
(Thí sinh có thể kết lại đoạn văn nghị luận của mình bằng đoạn thơ của Đỗ Trung Quân:
Quê hương mỗi người chỉ một
Như là chỉ một mẹ thôi
Quê hương nếu ai không nhớ
Sẽ không lớn nổi thành người)
- Là tình cảm đẹp, gắn kết mỗi con người với cội nguồn của chính mình (bất cứ ai trong chúng ta cũng đều có quê hương, đều thuộc về một quê hương, nơi gốc gác, tổ tiên ta ở đó); là động lực để mỗi người không ngừng phát triển bản thân, góp phần làm rạng danh, góp phần xây đắp quê hương (Thực tế có rất nhiều người xa quê, lập nghiệp ở nơi khác, khi thành đạt đã trở về dựng xây quê hương, hỗ trợ người dân quê mình phát triển kinh tế,...).
- Tình yêu quê hương là gốc rễ căn bản của nhiều tình cảm đẹp đẽ trong mỗi con người: tình yêu gia đình, tình yêu đất nước,...
(Thí sinh có thể kết lại đoạn văn nghị luận của mình bằng đoạn thơ của Đỗ Trung Quân:
Quê hương mỗi người chỉ một
Như là chỉ một mẹ thôi
Quê hương nếu ai không nhớ
Sẽ không lớn nổi thành người)
Câu 7 [702294]: (4,0 điểm)
Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) so sánh hai bài thơ sau:
thanh âm như thể khép hờ
Lối cũ xạc xào lá cũ
một mình qua những ngẩn ngơ
Vẫn còn mùa thu của mưa
dùng dằng rất nhiều cơn cớ
Vẫn còn mùa thu của nhớ
bàng hoàng sức nóng trên môi
Còn đây mà hóa xa xôi
mùa thu ngập ngừng lỡ hẹn
Một mình đến mà không đến
người xa, ngõ cũng vời trông...
Chim mùa kêu những tiếng hanh khô,
Niềm yêu phơi phới tình thanh sáng,
Dải áo vàng bay dọc phố thu.
Thu đến
Chiều buông
Gió ngỡ ngàng.
Lá bay vời vợi dọc không gian.
Áo em gom hết mùa thu chín
Hồn phố dâng theo một dải vàng.
Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) so sánh hai bài thơ sau:
NGÕ THU
(Nguyễn Trọng Hoàn)
Chầm chậm thu sang thật lạ thanh âm như thể khép hờ
Lối cũ xạc xào lá cũ
một mình qua những ngẩn ngơ
Vẫn còn mùa thu của mưa
dùng dằng rất nhiều cơn cớ
Vẫn còn mùa thu của nhớ
bàng hoàng sức nóng trên môi
Còn đây mà hóa xa xôi
mùa thu ngập ngừng lỡ hẹn
Một mình đến mà không đến
người xa, ngõ cũng vời trông...
(Theo Tuyển tập Thơ Việt Nam 1975 - 2000, tập 2, NXB Hội Nhà văn, 2001)
THU VÀNG
(Ngô Văn Phú)
Trời xanh sâu thẳm đến mơ hồ,Chim mùa kêu những tiếng hanh khô,
Niềm yêu phơi phới tình thanh sáng,
Dải áo vàng bay dọc phố thu.
Thu đến
Chiều buông
Gió ngỡ ngàng.
Lá bay vời vợi dọc không gian.
Áo em gom hết mùa thu chín
Hồn phố dâng theo một dải vàng.
1993
(Theo Tuyển tập Thơ Việt Nam 1975 - 2000, tập 3, NXB Hội Nhà văn, 2001)
Bài văn nghị luận so sánh hai bài thơ Ngõ thu (Nguyễn Trọng Hoàn) và Thu vàng (Ngô Văn Phú) có thể triển khai theo nhiều cách, song cần bảo đảm các ý chính:
* Giới thiệu các tác giả, các tác phẩm
- Tác giả:
+ Ngô Văn Phú (1937 - 2022), là cây bút đa tài: thơ ca, truyện ngắn, tiểu thuyết, phê bình, khảo cứu, dịch thuật,... Thơ Ngô Văn Phú vốn hiền lành về bút pháp, thiên về vẻ đẹp truyền thống của quê ta (nhận xét của nhà thơ Vũ Quần Phương).
+ Nguyễn Trọng Hoàn (1963 - 2024) là một cây bút tài hoa, ngoài sáng tác thơ, ông còn văn xuôi, viết kịch bản phim, nghiên cứu phê bình văn học,... Thơ Nguyễn Trọng Hoàn trữ tình, tinh tế và duy mĩ (nhận xét của nhà thơ Hữu Việt).
- Thu vàng (Ngô Văn Phú) và Ngõ thu (Nguyễn Trọng Hoàn) là những áng thơ đẹp mang đến người đọc nhiều xúc cảm thẩm mĩ.
* So sánh, đánh giá hai bài thơ
- Cơ sở so sánh: Hai bài thơ cùng là những sáng tác thật hay, thật đẹp về mùa thu và tình yêu.
- Mục đích so sánh: làm rõ điểm tương đồng, khác biệt giữa hai thi phẩm.
- Nội dung so sánh:
+ So sánh hai bài thơ:
• Tương đồng:
o Về nội dung: Cả hai bài thơ đều gợi tả vẻ đẹp của khung cảnh mùa thu; qua đó bộc lộ cảm xúc của nhân vật trữ tình trong tình yêu.
◼️ Thu vàng:
Khung cảnh mùa thu được gợi tả bởi các chi tiết đặc trưng của thiên nhiên đất trời. Đó là bầu trời xanh sâu thẳm cao vút, không một gợn mây mang đến cảm nhận về vẻ đẹp thanh sơ, dịu nhẹ chứ không chói gắt, oi ả như bầu trời mùa hạ. Trên khung trời ấy, những đàn chim bắt đầu di trú về phương nam tránh rét kêu những tiếng hanh khô (âm thanh gợi nhớ đến một tiếng trên không ngỗng nước nào trong bài thơ thu của Nguyễn Khuyến) - tiếng kêu gợi hình dung về một không gian tĩnh lặng, yên ả. Khung cảnh chiều thu từ cao xa dần hạ xuống thấp gần để tiếp tục gợi tả bức tranh mùa thu bằng chi tiết lá bay vời vợi dọc không gian. Mùa thu lá bay là hình ảnh quen thuộc thường xuất hiện trong thơ ca nhạc hoạ (Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo - Nguyễn Khuyến, Ô hay buồn vương cây ngô đồng/ Vàng rơi, vàng rơi, thu mênh mông - Bích Khê,...), là chỉ báo báo hiệu thu đã thực thu. ⟶ Khung cảnh mùa thu đẹp vẻ bình yên, thơ mộng.
Giữa thiên nhiên thơ mộng, nhân vật trữ tình - chàng trai - đắm đuối trông theo dải áo vàng của “em” (Dải áo vàng bay dọc phố thu). Màu vàng vốn là sắc màu đặc trưng của mùa thu. Trong thơ ca xưa nay, mùa thu vàng thường được dệt nên bởi lá vàng rơi rụng, song bức tranh thiên nhiên của Ngô Văn Phú không hề có một chi tiết lá vàng nào, mà chỉ có dải áo vàng, một dải vàng để rồi Hồn phố dâng theo một dải vàng của áo “em” bởi Áo em đã gom hết mùa thu chín. Hoá ra thu vàng không phải bởi lá vàng rụng mà bởi dải áo vàng của “em”. Hoá ra hồn thu không nằm ở thiên nhiên cố hữu mà cất trữ ở dải áo “em” và lấp lánh trong ánh nhìn đắm đuối cũng vời vợi dọc không gian bước chân em của “anh”!
◼️ Ngõ thu:
Bức tranh mùa thu được gợi tả qua âm thanh thật nhẹ, thật khẽ, gợi cái tĩnh lặng, bình yên trong khoảnh khắc mùa sang (thanh âm như thể khép hờ), qua hình ảnh lá rụng (xạc xào lá), qua cơn mưa thấm lạnh. ⟶ Thiên nhiên đẹp vẻ tĩnh lặng, yên bình.
Tương tự Thu vàng (Ngô Văn Phú), ngoại cảnh trong thi phẩm của Nguyễn Trọng Hoàn cũng chỉ là phông nền, là cái cớ để cảm xúc thức dậy, ngập tràn trong tâm hồn nhân vật trữ tình. Nhân vật trữ tình tìm về ngõ cũ, lối cũ trong khoảnh khắc thu sang. Khung cảnh còn nhiều điều quen thuộc (Lối cũ xạc xào lá cũ, Vẫn còn mùa thu của mưa) nhưng người xưa, tình xưa đã không còn. Trong nhân vật trữ tình, nỗi nhớ thương rưng rức dường như mỗi lúc một ắp đầy (Vẫn còn mùa thu của nhớ/ bàng hoàng sức nóng trên môi,...). Và mải ngoảnh ngóng, vời trông mùa thu cũ, sau cùng nhân vật trữ tình phải bàng hoàng, tiếc nuối bởi những điều ngọt ngào của mùa thu cũ nay đã không còn nữa (một mình qua những ngẩn ngơ, Một mình đến mà không đến/ người xa, ngõ cũng vời trông).
o Về hình thức nghệ thuật:
◼️ Cả hai bài thơ đều mượn cảnh (thu) để ngụ tình.
◼️ Bút pháp chấm phá, gợi tả được thực hiện khéo léo, tinh tế qua các chi tiết, hình ảnh, thanh âm đặc trưng của khung cảnh mùa thu.
◼️ Ngôn ngữ giàu sức gợi hình, gợi cảm (sâu thẳm, mơ hồ, hanh khô, phơi phới, thanh sáng, vời vợi; chầm chậm, khép hờ, xạc xào, ngẩn ngơ, bàng hoàng, xa xôi, ngập ngừng,...).
◼️ Vận dụng thành công các biện pháp tu từ (ẩn dụ: chim kêu những tiếng hanh khô, niềm yêu phơi phới, tình thanh sáng; nhân hoá: gió ngỡ ngàng; đảo ngữ: chầm chậm thu sang, phép điệp: một mình (qua - đến), vẫn còn mùa thu của...; đối lập (Còn đây mà hoá xa xôi, đến mà không đến),...).
o Lí giải sự tương đồng: sự gặp gỡ, đồng điệu của những tâm hồn giàu cảm xúc, những tài năng nghệ thuật, tài hoa.
• Khác biệt
o Thu vàng:
◼️ Về nghệ thuật: thể thơ tự do rất phù hợp để biểu đạt một cách phóng khoáng tình cảm tự nhiên, tình yêu say đắm trong nhân vật trữ tình; hình ảnh thơ trong trẻo, tươi sáng làm nền cho con người và tình yêu trong sáng; hình tượng nghệ thuật đặc sắc (dải áo vàng) nổi bật giữa bài thơ, hút ánh nhìn của nhân vật trữ tình, trở thành điểm nhấn, tâm điểm của khung cảnh mùa thu, thậm chí còn tạo nên hồn thu; giọng điệu tươi tắn thể hiện xúc cảm ngập tràn hạnh phúc trong nhân vật trữ tình - chủ thể của điểm nhìn, chủ thể bộc lộ tình cảm, cảm xúc;...
◼️ Về nội dung: Bài thơ gợi hình dung về ánh nhìn say đắm của nhân vật trữ tình - chàng trai - theo “em” - người con gái với dải áo vàng như gom hết mùa thu chín. Khung cảnh bình yên, thơ mộng xuất hiện như làm nền cho tình yêu trong sáng mà đắm say của nhân vật trữ tình.
o Ngõ thu:
◼️ Về nghệ thuật: thể thơ sáu chữ, nhịp chẵn gợi hình dung về bước đi chậm buồn của nhân vật trữ tình trên con đường quen thuộc nhưng thiếu vắng người cũ, tình xưa; hình ảnh thơ đượm buồn, gợi nhắc kỉ niệm đẹp nay không còn hiện diện (lối cũ, lá cũ, mùa thu của mưa, mùa thu của nhớ, người xa, ngõ cũ,...); nhiều từ ngữ (từ láy) mô tả cảm xúc mất mát, tiếc nuối, cảm giác khôn nguôi, không đặng dứt dời kỉ niệm (ngẩn ngơ, bàng hoàng, dùng dằng, ngập ngừng); giọng thơ thấm đượm nỗi buồn nhớ, cảm xúc ngóng trông chờ đợi đan xen nỗi tiếc nuối, cô đơn, trống trải khôn khuây;...
o Lí giải sự khác biệt:
◼️ Đầu mối của thơ là cảm xúc. Sự khác biệt trong tình cảm, cảm xúc chắc chắn chi phối sự khác biệt giữa các áng thơ.
◼️ Cá tính sáng tạo: Thực tế đã có rất nhiều thi sĩ viết về mùa thu, về tình yêu, về tình yêu và mùa thu (như Thơ tình cuối mùa thu - Xuân Quỳnh, Khúc mùa thu - Hồng Thanh Quang,...) song cá tính sáng tạo đòi hỏi mỗi người viết phải viết khác người khác, thậm chí khác chính mình.
+ Đánh giá
• Nét tương đồng giữa hai bài thơ thể hiện sự gặp gỡ, đồng điệu giữa hai nhà thơ.
• Sự khác biệt giữa hai bài thơ góp phần làm nên vẻ đa dạng trong các thi phẩm viết về tình yêu.
* Đánh giá chung
- Thu vàng (Ngô Văn Phú) và Ngõ thu (Nguyễn Trọng Hoàn) là hai thi phẩm đặc sắc về đề tài tình yêu gắn liền với mùa thu.
- Dẫu vui, dẫu buồn, mỗi thi phẩm đã khơi gợi trong bạn đọc những xúc cảm thật đẹp trước khung cảnh thiên nhiên mùa thu và đặc biệt là trước một tình cảm thiêng liêng, kì diệu trong cuộc đời mỗi con người: tình yêu.
* Giới thiệu các tác giả, các tác phẩm
- Tác giả:
+ Ngô Văn Phú (1937 - 2022), là cây bút đa tài: thơ ca, truyện ngắn, tiểu thuyết, phê bình, khảo cứu, dịch thuật,... Thơ Ngô Văn Phú vốn hiền lành về bút pháp, thiên về vẻ đẹp truyền thống của quê ta (nhận xét của nhà thơ Vũ Quần Phương).
+ Nguyễn Trọng Hoàn (1963 - 2024) là một cây bút tài hoa, ngoài sáng tác thơ, ông còn văn xuôi, viết kịch bản phim, nghiên cứu phê bình văn học,... Thơ Nguyễn Trọng Hoàn trữ tình, tinh tế và duy mĩ (nhận xét của nhà thơ Hữu Việt).
- Thu vàng (Ngô Văn Phú) và Ngõ thu (Nguyễn Trọng Hoàn) là những áng thơ đẹp mang đến người đọc nhiều xúc cảm thẩm mĩ.
* So sánh, đánh giá hai bài thơ
- Cơ sở so sánh: Hai bài thơ cùng là những sáng tác thật hay, thật đẹp về mùa thu và tình yêu.
- Mục đích so sánh: làm rõ điểm tương đồng, khác biệt giữa hai thi phẩm.
- Nội dung so sánh:
+ So sánh hai bài thơ:
• Tương đồng:
o Về nội dung: Cả hai bài thơ đều gợi tả vẻ đẹp của khung cảnh mùa thu; qua đó bộc lộ cảm xúc của nhân vật trữ tình trong tình yêu.
◼️ Thu vàng:
Khung cảnh mùa thu được gợi tả bởi các chi tiết đặc trưng của thiên nhiên đất trời. Đó là bầu trời xanh sâu thẳm cao vút, không một gợn mây mang đến cảm nhận về vẻ đẹp thanh sơ, dịu nhẹ chứ không chói gắt, oi ả như bầu trời mùa hạ. Trên khung trời ấy, những đàn chim bắt đầu di trú về phương nam tránh rét kêu những tiếng hanh khô (âm thanh gợi nhớ đến một tiếng trên không ngỗng nước nào trong bài thơ thu của Nguyễn Khuyến) - tiếng kêu gợi hình dung về một không gian tĩnh lặng, yên ả. Khung cảnh chiều thu từ cao xa dần hạ xuống thấp gần để tiếp tục gợi tả bức tranh mùa thu bằng chi tiết lá bay vời vợi dọc không gian. Mùa thu lá bay là hình ảnh quen thuộc thường xuất hiện trong thơ ca nhạc hoạ (Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo - Nguyễn Khuyến, Ô hay buồn vương cây ngô đồng/ Vàng rơi, vàng rơi, thu mênh mông - Bích Khê,...), là chỉ báo báo hiệu thu đã thực thu. ⟶ Khung cảnh mùa thu đẹp vẻ bình yên, thơ mộng.
Giữa thiên nhiên thơ mộng, nhân vật trữ tình - chàng trai - đắm đuối trông theo dải áo vàng của “em” (Dải áo vàng bay dọc phố thu). Màu vàng vốn là sắc màu đặc trưng của mùa thu. Trong thơ ca xưa nay, mùa thu vàng thường được dệt nên bởi lá vàng rơi rụng, song bức tranh thiên nhiên của Ngô Văn Phú không hề có một chi tiết lá vàng nào, mà chỉ có dải áo vàng, một dải vàng để rồi Hồn phố dâng theo một dải vàng của áo “em” bởi Áo em đã gom hết mùa thu chín. Hoá ra thu vàng không phải bởi lá vàng rụng mà bởi dải áo vàng của “em”. Hoá ra hồn thu không nằm ở thiên nhiên cố hữu mà cất trữ ở dải áo “em” và lấp lánh trong ánh nhìn đắm đuối cũng vời vợi dọc không gian bước chân em của “anh”!
◼️ Ngõ thu:
Bức tranh mùa thu được gợi tả qua âm thanh thật nhẹ, thật khẽ, gợi cái tĩnh lặng, bình yên trong khoảnh khắc mùa sang (thanh âm như thể khép hờ), qua hình ảnh lá rụng (xạc xào lá), qua cơn mưa thấm lạnh. ⟶ Thiên nhiên đẹp vẻ tĩnh lặng, yên bình.
Tương tự Thu vàng (Ngô Văn Phú), ngoại cảnh trong thi phẩm của Nguyễn Trọng Hoàn cũng chỉ là phông nền, là cái cớ để cảm xúc thức dậy, ngập tràn trong tâm hồn nhân vật trữ tình. Nhân vật trữ tình tìm về ngõ cũ, lối cũ trong khoảnh khắc thu sang. Khung cảnh còn nhiều điều quen thuộc (Lối cũ xạc xào lá cũ, Vẫn còn mùa thu của mưa) nhưng người xưa, tình xưa đã không còn. Trong nhân vật trữ tình, nỗi nhớ thương rưng rức dường như mỗi lúc một ắp đầy (Vẫn còn mùa thu của nhớ/ bàng hoàng sức nóng trên môi,...). Và mải ngoảnh ngóng, vời trông mùa thu cũ, sau cùng nhân vật trữ tình phải bàng hoàng, tiếc nuối bởi những điều ngọt ngào của mùa thu cũ nay đã không còn nữa (một mình qua những ngẩn ngơ, Một mình đến mà không đến/ người xa, ngõ cũng vời trông).
o Về hình thức nghệ thuật:
◼️ Cả hai bài thơ đều mượn cảnh (thu) để ngụ tình.
◼️ Bút pháp chấm phá, gợi tả được thực hiện khéo léo, tinh tế qua các chi tiết, hình ảnh, thanh âm đặc trưng của khung cảnh mùa thu.
◼️ Ngôn ngữ giàu sức gợi hình, gợi cảm (sâu thẳm, mơ hồ, hanh khô, phơi phới, thanh sáng, vời vợi; chầm chậm, khép hờ, xạc xào, ngẩn ngơ, bàng hoàng, xa xôi, ngập ngừng,...).
◼️ Vận dụng thành công các biện pháp tu từ (ẩn dụ: chim kêu những tiếng hanh khô, niềm yêu phơi phới, tình thanh sáng; nhân hoá: gió ngỡ ngàng; đảo ngữ: chầm chậm thu sang, phép điệp: một mình (qua - đến), vẫn còn mùa thu của...; đối lập (Còn đây mà hoá xa xôi, đến mà không đến),...).
o Lí giải sự tương đồng: sự gặp gỡ, đồng điệu của những tâm hồn giàu cảm xúc, những tài năng nghệ thuật, tài hoa.
• Khác biệt
o Thu vàng:
◼️ Về nghệ thuật: thể thơ tự do rất phù hợp để biểu đạt một cách phóng khoáng tình cảm tự nhiên, tình yêu say đắm trong nhân vật trữ tình; hình ảnh thơ trong trẻo, tươi sáng làm nền cho con người và tình yêu trong sáng; hình tượng nghệ thuật đặc sắc (dải áo vàng) nổi bật giữa bài thơ, hút ánh nhìn của nhân vật trữ tình, trở thành điểm nhấn, tâm điểm của khung cảnh mùa thu, thậm chí còn tạo nên hồn thu; giọng điệu tươi tắn thể hiện xúc cảm ngập tràn hạnh phúc trong nhân vật trữ tình - chủ thể của điểm nhìn, chủ thể bộc lộ tình cảm, cảm xúc;...
◼️ Về nội dung: Bài thơ gợi hình dung về ánh nhìn say đắm của nhân vật trữ tình - chàng trai - theo “em” - người con gái với dải áo vàng như gom hết mùa thu chín. Khung cảnh bình yên, thơ mộng xuất hiện như làm nền cho tình yêu trong sáng mà đắm say của nhân vật trữ tình.
o Ngõ thu:
◼️ Về nghệ thuật: thể thơ sáu chữ, nhịp chẵn gợi hình dung về bước đi chậm buồn của nhân vật trữ tình trên con đường quen thuộc nhưng thiếu vắng người cũ, tình xưa; hình ảnh thơ đượm buồn, gợi nhắc kỉ niệm đẹp nay không còn hiện diện (lối cũ, lá cũ, mùa thu của mưa, mùa thu của nhớ, người xa, ngõ cũ,...); nhiều từ ngữ (từ láy) mô tả cảm xúc mất mát, tiếc nuối, cảm giác khôn nguôi, không đặng dứt dời kỉ niệm (ngẩn ngơ, bàng hoàng, dùng dằng, ngập ngừng); giọng thơ thấm đượm nỗi buồn nhớ, cảm xúc ngóng trông chờ đợi đan xen nỗi tiếc nuối, cô đơn, trống trải khôn khuây;...
o Lí giải sự khác biệt:
◼️ Đầu mối của thơ là cảm xúc. Sự khác biệt trong tình cảm, cảm xúc chắc chắn chi phối sự khác biệt giữa các áng thơ.
◼️ Cá tính sáng tạo: Thực tế đã có rất nhiều thi sĩ viết về mùa thu, về tình yêu, về tình yêu và mùa thu (như Thơ tình cuối mùa thu - Xuân Quỳnh, Khúc mùa thu - Hồng Thanh Quang,...) song cá tính sáng tạo đòi hỏi mỗi người viết phải viết khác người khác, thậm chí khác chính mình.
+ Đánh giá
• Nét tương đồng giữa hai bài thơ thể hiện sự gặp gỡ, đồng điệu giữa hai nhà thơ.
• Sự khác biệt giữa hai bài thơ góp phần làm nên vẻ đa dạng trong các thi phẩm viết về tình yêu.
* Đánh giá chung
- Thu vàng (Ngô Văn Phú) và Ngõ thu (Nguyễn Trọng Hoàn) là hai thi phẩm đặc sắc về đề tài tình yêu gắn liền với mùa thu.
- Dẫu vui, dẫu buồn, mỗi thi phẩm đã khơi gợi trong bạn đọc những xúc cảm thật đẹp trước khung cảnh thiên nhiên mùa thu và đặc biệt là trước một tình cảm thiêng liêng, kì diệu trong cuộc đời mỗi con người: tình yêu.