I. ĐỌC HIỂU (4,0 điểm)
Đọc đoạn trích:
“Thời gian ngưng lại, không biết là trong bao nhiêu lâu. Tôi từ từ mở mắt. Tâm trí đậu xuống ở đâu đó bên rìa một vầng ánh sáng rất mờ. Vẫn còn bồng bềnh, vẫn còn u u minh minh, song tôi biết là lúc này mình đã ở trong một căn buồng, chứ không phải đang ở giữa chừng cơn mê sảng. Tường phòng hình như là quét vôi ve nhưng mà có lẽ do lâu ngày nên mầu vôi đã bợt. Trần nhà u tối. Không khí ấm sực mùi dầu long não. Tôi khẽ đụng cựa. Dưới lưng, nan giường ót ét. Người tôi ủ trong chăn, đầu kê lên gối. Yên tĩnh, khô ráo và ấm áp đến khó tin. Tôi trở mình. Từ trên chiếc bàn con kê ở góc buồng, ngọn lửa đèn dầu nhỏ liu điu im lìm toả ra một quầng sáng tù đọng mầu vàng đục. Tích tắc đều đều trong đêm vắng, tiếng đồng hồ để bàn một mình rả rích với thời gian. Chợt nhớ đến giờ giấc, tôi giật mình, rên lên.
- Ôi, anh... - Một bàn tay nào đó êm ái áp vào má tôi, một giọng nói se sẽ, nhỏ nhẹ, thì thầm: - Ôi, anh tỉnh rồi. Ôi, em lo quá...
Tim như thể đứng dừng lại, lại như thể đập loạn xạ, tôi ngây người. Chuyện gì thế này nhỉ, cô gái nào thế này?
- Tôi... - Mãi mới mở miệng nổi, tôi nói, nhưng ấp úng, lưỡi ríu vấp, chẳng nói gì được - Tôi ở đâu đây... đây là đâu?
- Đây là nhà em mà anh - Bàn tay cô gái nhẹ nhàng đưa lướt trên trán tôi. - Anh là khách của em mà.
Tôi cố định thần, cố lấy sức, thở dốc, và nặng nhọc xoay người sang phía chủ nhà. Cô ngồi ở mép giường, nhưng gương mặt lại lùi khỏi vùng chiếu sáng của ngọn đèn. Tôi chỉ thấy được hai bờ vai với phần một mái tóc của cô buông xoã.
- Anh vẫn còn hơi sốt đấy, nhưng vậy là đỡ nhiều rồi. May quá đi mất. Chứ cứ như lúc thoạt đầu thì sợ quá. Ôi lúc ấy anh làm em hết cả hồn.
- Nguy rồi... - Thều thào tôi nói - Quá phép mất rồi... Tôi, tôi phải đi đây...
- Ô kìa anh, anh đi đâu thế nào được. Ra ngoài rét bị lại còn nguy hơn. Với lại quần áo của anh phải hong bếp lúc nữa, chứ chưa mặc được đâu, còn ẩm lắm.
- Cái gì? Tôi hoảng hồn, sực tỉnh, đưa tay sờ nhanh lên đùi, lên ngực. Người tôi tái dại đi, nhưng muốn co rúm lại. Dưới tấm chăn bông, thằng tôi đã như trần trụi!
- Bây giờ để em xuống bếp đưa cháo lên anh ăn nhé. - Thản nhiên, cô gái nói, sẽ sàng đứng dậy, rời khỏi giường. - Bộ quần áo em để cạnh gối, anh mặc tạm. Cũng là đồ bộ đội đấy.
Nói đoạn, không cầm theo cây đèn, cô quay lưng đi ra phía cửa, bước mò trong bóng tối. Tôi tung chăn, ngồi nhỏm dậy. Từ trong chăn, hơi dầu gió nóng hực phả ra cay mắt. Tôi xỏ vội xỏ vàng vào quần áo. Bộ Tô Châu hăng mùi băng phiến, còn mới và khá vừa với tôi. Đàng hoàng trong quân phục, tôi như lấy lại được sinh khí, dẫu rằng toàn thân vẫn đau nhừ, đầu óc váng vất, và trong tai, phần còn lại của cơn sốt vẫn đang kêu o o.
Nhưng mặc dù nhọc mệt đến thế, tôi vẫn kịp ngửi thấy lập tức mùi cháo nóng, khi cô chủ nhà còn chưa vào hẳn trong buồng. Cô bước đi rất nhẹ, đôi guốc chạm rất khẽ trên sàn gỗ. Cô để mâm xuống bàn, vặn cao bấc đèn lên.
- Tạnh mưa rồi anh ạ. - Cô nói, và không hiểu sao, lại thở dài.
Trong nhập nhoạng tranh tối tranh sáng của căn phòng, tôi lặng nhìn. Người con gái xa lạ tuyệt vời ấy như thể một ảo giác hiện thoáng lên trước mắt tôi, một ảo giác tuyệt trần, xinh đẹp và hiền dịu. Xinh đẹp và hiền dịu, gương mặt, cặp mắt, đôi môi, thực thế, mặc dù thật ra tôi đã không thể kịp nhìn rõ cô. Bởi vì, giờ của thành phố này đã điểm. Chỉ trong nửa phần của một tích tắc, trời đất không kịp trở tay, không kịp cả đến rùng mình.”
(Trích Khắc dấu mạn thuyền - Bảo Ninh, theo Những truyện ngắn - Bảo Ninh, NXB Trẻ, 2021)
Thực hiện các yêu cầu:
Câu 1 [706754]: Xác định đề tài của đoạn trích.
Đề tài của đoạn trích: chiến tranh.
Câu 2 [706755]: Bối cảnh của sự việc diễn ra trong đoạn trích là gì?
Bối cảnh của sự việc diễn ra trong đoạn trích:
- Thời gian: đêm vắng.
- Không gian: ngoài trời rét mướt; trong nhà cô gái.
Câu 3 [706756]: Nêu tác dụng của ngôi kể trong đoạn trích.
- Đoạn trích được kể theo ngôi thứ nhất (người kể chuyện xưng “tôi”, người kể chuyện tham gia trực tiếp vào câu chuyện được kể, là một nhân vật trong câu chuyện đang kể).
- Tác dụng của ngôi kể:
+ Kể lại một cách chân thực câu chuyện đang diễn ra với chính mình (“tôi” bị sốt rét, ngất đi, may được cô gái cứu giúp; “tôi” tỉnh lại, được cô gái hỏi han ân cần, đưa cho bộ quần áo Tô Châu để mặc và cô gái xuống bếp lấy cháo lên cho anh).
+ Tự do bộc lộ cảm xúc, suy nghĩ của bản thân về câu chuyện đang diễn ra và về nhân vật cô gái (“tôi” cảm nhận về căn buồng đang nằm: mầu vôi đã bợt, không khí sự mùi dầu long não, ngọn đèn dầu nhỏ liu điu; cảm nhận về bàn tay êm ái, nhẹ nhàng của cô gái, giọng nói se sẽ, nhỏ nhẹ, thì thầm của cô gái; hoảng hồn khi phát hiện ra mình ở trần trong chăn; ngửi thấy mùi cháo nóng; nghe tiếng bước chân rất nhẹ của cô gái trên sàn gỗ; hình dung về người con gái tuyệt trần, xinh đẹp và hiền dịu;...).
Câu 4 [706757]: Người con gái xa lạ tuyệt vời ấy như thể một ảo giác hiện thoáng lên trước mắt tôi, một ảo giác tuyệt trần, xinh đẹp và hiền dịu. Xinh đẹp và hiền dịu, gương mặt, cặp mắt, đôi môi, thực thế, mặc dù thật ra tôi đã không thể kịp nhìn rõ cô.
Việc khắc hoạ hình ảnh cô gái qua lăng kính của nhân vật “tôi” trong đoạn văn trên có ý nghĩa gì?
Việc khắc hoạ hình ảnh cô gái qua lăng kính của nhân vật “tôi” trong đoạn văn trên vừa khiến hình tượng cô gái hiện lên khách quan (qua lăng kính của “tôi”) vừa bộc lộ xúc cảm yêu mến, lòng cảm mến, ngưỡng mộ, biết ơn của nhân vật “tôi” đối với cô gái.
Câu 5 [706758]: Cảm nhận của anh/chị về hình tượng cô gái trong đoạn trích (trình bày khoảng 5 - 7 dòng).
- Hình tượng cô gái trong đoạn trích:
+ Tuy không hiện lên rõ nét, cụ thể bởi các chi tiết về ngoại hình nhưng qua lăng kính của “tôi”, hình ảnh cô gái gieo vào người đọc nhiều ấn tượng đẹp đẽ: xinh đẹp (tuyệt trần, xinh đẹp và hiền dịu. Xinh đẹp và hiền dịu); dịu dàng, nữ tính (bàn tay êm ái, nhẹ nhàng; giọng nói se sẽ, nhỏ nhẹ, thì thầm; mái tóc buông xoã; bước đi rất nhẹ, đôi guốc chạm rất khẽ trên sàn gỗ).
+ Ân cần, chu đáo; nhân ái, vị tha (những lời hỏi han ân cần đối với “tôi”; việc chuẩn bị sẵn bộ đồ Tô Châu cho “tôi”; nấu cháo cho “tôi” ăn).
+ Giàu tình cảm, nhạy cảm (chi tiết - Tạnh mưa rồi anh ạ. - Cô nói, và không hiểu sao, lại thở dài, có lẽ cô nghĩ đến việc trời tạnh, “tôi” sẽ đi ngay).
- Cô gái không được đặt tên nhưng hình tượng cô gái đáng yêu đáng mến có thể đại diện cho rất nhiều những người con gái đẹp đẽ như thế trong chiến tranh.
II. VIẾT (6,0 điểm)
Câu 6 [706759]: (2,0 điểm)
Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) phân tích chủ đề của đoạn trích ở phần Đọc hiểu.
Đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) phân tích chủ đề của đoạn trích rút từ truyện ngắn Khắc dấu mạn thuyền (Bảo Ninh) có thể được triển khai theo hướng:
- Bảo Ninh là một trong những gương mặt xuất sắc của văn xuôi Việt Nam hiện đại. Khắc dấu mạn thuyền là một truyện ngắn đặc sắc của nhà văn. Đoạn trích tái hiện cảnh gặp gỡ giữa một người lính vừa bị cơn sốt rét hành hạ với một cô gái xinh đẹp, dịu dàng, nhân hậu, vị tha giữa chiến tranh.
- Đoạn trích không khắc hoạ khung cảnh mưa bom bão đạn mà tô đậm tình người trong chiến tranh, từ đó ngợi ca vẻ đẹp nhân ái của con người. Đó chính là chủ đề nổi bật của đoạn truyện:
+ Chủ đề được tái hiện qua diễn biến cốt truyện (“tôi” bị sốt rét, ngất đi, được cô gái đưa về nhà chăm sóc; “tôi” tỉnh lại, cô gái hỏi han ân cần, đưa quần áo cho mặc nấu cháo cho ăn).
+ Chủ đề được khắc hoạ qua hình tượng nhân vật cô gái (hình tượng cô gái được khắc hoạ qua lời nói, cử chỉ, hành động ân cần, chu đáo với “tôi”; qua lăng kính của “tôi”, cô gái hiện lên không chỉ xinh đẹp, dịu dàng, nữ tính mà còn rất ấm áp, giàu tình yêu thương).
+ Chủ đề được thể hiện qua cảm xúc, suy nghĩ của hình tượng nhân vật “tôi” - người kể chuyện và cũng là nhân vật trong truyện - về cô gái đã cứu giúp anh khi anh ngất đi vì sốt rét (trong cái nhìn của “tôi”, cô gái hiện lên tuyệt trần, xinh đẹp và hiền dịu. Xinh đẹp và hiền dịu).
- Với chủ đề ngợi ca tình người trong chiến tranh, ngợi ca vẻ đẹp nhân ái của con người, đoạn trích một góc nhìn khác (Bảo Ninh không ngợi chiến công của những người lính) về chiến tranh đậm chất nhân văn.
Câu 7 [706760]: (4,0 điểm)
Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ), trình bày suy nghĩ của anh/chị về lời ăn tiếng nói của người trẻ hiện nay.
Bài văn trình bày suy nghĩ về lời ăn tiếng nói của người trẻ hiện nay có thể được triển khai nhiều cách. Song cần bảo đảm các ý:
1. Mở bài (gián tiếp)
- Dẫn dắt vấn đề
- Nêu vấn đề
Ví dụ: Chỉ cần lướt mạng xã hội khoảng vài phút, vào các trang cá nhân của một vài người trẻ, chúng ta sẽ “hoa mắt ù tai” vì trước nhiều diễn đạt chúng ta không hiểu họ nói gì, viết gì. Phải chăng người trẻ ngày nay đang có một lớp ngôn ngữ riêng?
2. Thân bài
- “Lời ăn tiếng nói”: cách nói năng, cách phát ngôn của người trẻ trong cuộc sống (trong giao tiếp thực tế thường ngày, trên không gian mạng).
- Thực trạng lời ăn tiếng nói của giới trẻ hôm nay: Bên cạnh rất nhiều người trẻ vẫn rất cẩn trọng, chỉn chu trong phát ngôn, một số người trẻ hiện đại lại khá buông tuồng trong lời ăn tiếng nói.
+ Nói năng:
• Người trẻ hiện nay sử dụng nhiều ngôn ngữ nước ngoài, pha tạp tiếng nước ngoài, kiểu “nửa nạc nửa mỡ” với quan niệm thỉnh thoảng nói một vài từ tiếng Anh để chứng tỏ mình là người trẻ trung, hiện đại, hiểu biết. Nhiều bạn trẻ có quan niệm coi việc nói chêm tiếng nước ngoài để câu chuyện thêm “sang”, thể hiện “đẳng cấp”, tỏ ra “nguy hiểm” hơn. (Chẳng hạn: “Cậu ra đây, tớ với cậu selfie!”, “Cô MC này “chất” quá!”, “Cậu có online không đấy?”, “Họ ship đến rồi nha.”, “Chúng mình sẽ thuê homestay nhé!”,...).
• Người trẻ ngày nay cũng sử dụng nhiều tiếng lóng, những câu nói hóm hỉnh, các từ ngữ theo xu hướng (ví dụ: “8386” - chúc phát tài phát lộc; “thợ săn Hồng Hài Nhi” - chỉ người phụ nữ có bạn trai kém tuổi hơn ; “dịu kha” - từ với hàm ý nhấn mạnh đến sự nhẹ nhàng, đằm thắm nhưng vẫn ẩn chứa sức hút riêng biệt;...).
• Không ít bạn trẻ rất hay chửi thề, chửi tục, nói bậy và coi đó là chuyện bình thường.
• Nhiều bạn trẻ rất hay nói trống không với người lớn tuổi và cũng coi đó là chuyện bình thường.
• Không ít người trẻ vẫn nói ngọng (theo thổ ngữ địa phương, như ngọng l/n, s/x,... phát âm không chuẩn các thanh dấu,...).
• ...
+ Viết:
• Với môn Tiếng Việt từ thuở Tiểu học, chúng ta được học chính tả từ bé nhưng nhiều người trẻ vẫn viết sai chính tả (treo leo, thiếu xót,...).
• Một số bạn viết tắt một cách khó hiểu trên mạng xã hội (khá phổ biến là một số cụm từ như: cmnr (con mẹ nó rồi), 19 (one night - một đêm), 29 (tonight - tối nay), ib (inbox - nhắn tin riêng), OMC (Oh my chuối),...).
• Lỗi viết sai ngữ pháp cũng khá phổ biến (Không ít người thường viết những kiểu câu thiếu chủ ngữ như thế này: Với tác phẩm này, đã cho người cho người đọc thấy được tấm lòng nhân đạo của nhà văn.).
• ...
- Hệ luỵ của việc nói và viết không đúng chuẩn mực ở người trẻ:
+ Làm mất đi sự trong sáng của tiếng Việt.
+ Hạn chế hiệu quả sự giao tiếp giữa giới trẻ với các thế hệ khác, đặc biệt là người trung tuổi, người già, khiến người nghe khó hiểu, gây tâm lý khó chịu, thậm chí còn phản cảm...
+ Gây ra những hiểu lầm, xích mích, ẩu đả không đáng có (những lời chửi thề đôi khi trở thành nguồn cơn của những cuộc đánh nhau, loạn đả).
- Làm thế nào để hạn chế việc sử dụng từ ngữ thiếu chuẩn mực của một bộ phận giới trẻ hiện nay?
+ Nhận thức:
• Người trẻ cần nhận thức được sự quý giá của tiếng nói dân tộc, cần hiểu tiếng nói là bản sắc dân tộc, là một kênh thể hiện văn hoá của con người (Trong giao tiếp, người Việt vốn dĩ tế nhị và ý tứ nên có thói quen luôn cân đo đong đếm trước khi nói năng: Ăn có nhai, nói có nghĩ; Lời nói không mất tiền mua/ Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau; Uốn lưỡi bảy lần trước khi nói... Cho nên, bài học về nói năng được người Việt cho là quan trọng và học từ nhỏ cho đến suốt cuộc đời: Học ăn, học nói, học gói, học mở.) và cần thấy trách nhiệm giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt.
• Người trẻ cũng cần nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của lời ăn tiếng nói trong giao tiếp thường ngày: Chim khôn kêu tiếng rảnh rang/ Người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe, ai cũng muốn được lắng nghe những lời nói dịu dàng, êm ái, tôn trọng mình, càng không ai thích bị đối phương cư xử khiếm nhã, nói những điều khó nghe, thô tục nhất là ở những nơi công cộng.
+ Hành động: Người trẻ cần có ý thức giữ gìn lời ăn tiếng nói; cẩn trọng, chỉn chu trong lời ăn tiếng nói sao cho phù hợp với văn hoá truyền thống tốt đẹp của dân tộc, cũng như xây dựng môi trường giao tiếp tích cực, văn minh, lịch sự và xu thế phát triển của xã hội.
3. Kết bài
Rút ra bài học nhận thức và hành động