I. ĐỌC HIỂU (4,0 điểm)
Đọc đoạn trích:
“Chị bế con rón rén bước vào chỗ chồng nằm. Thằng bé vẫn sụt sịt. Anh đĩ Chuột giở mình, hơi nghiêng mặt quay ra. Một làn ánh sáng mờ lướt qua làm cho cái mặt hốc hác và màu da đã xanh lại càng xanh thêm. Mái tóc dài quá xoà xuống tai và cổ, hai con mắt ngơ ngác và lờ đờ, những chiếc răng dài và thưa ở cái mồm hé ra để cho dễ thở khiến anh có cái vẻ dễ sợ của con ma đói. Thấy vợ con, anh nhếch miệng cố gượng một cái cười méo xệch và vừa thở phều phào vừa hỏi bằng một thứ tiếng yếu ớt như từ thế giới bên kia đưa lại:
- Nó làm sao thế?
Chị đĩ Chuột xốc con lên một cái:
- Nó vòi đấy chứ có làm sao? Cơm gạo đỏ không chịu ăn, đòi ăn cơm trắng của thầy cơ.
- Thì lấy cho nó ăn, tôi ăn làm sao hết?
Chị đĩ Chuột lấy liễn cơm chực moi cho con một ít. Nhưng anh bảo:
- Mang cả ra cho nó ăn, tôi không ăn nữa đâu. Còn bao nhiêu vét cho cái Gái với bu em ăn hết đi, để nó thiu ra đấy.
Chị đĩ Chuột cười, bảo chồng:
- Thằng cu nó dở người, chứ mẹ con tôi ăn cơm đỏ đã no rồi, ăn vào đâu được nữa?
Anh biết vợ nói dối, chực nói, nhưng lại thôi, buồn rầu buông một tiếng thở dài. Vợ lo ngại hỏi:
- Bây giờ người thế nào, để tôi kể với ông thầy lang lấy thuốc.
- Tiền đâu mà thuốc thang mãi?
- Tôi vừa bán con chó mực với hai buồng chuối non được bốn hào.
Chồng nhìn vợ, ngẫm nghĩ một chút rồi bảo:
- Đừng lấy thuốc nữa, tôi sắp khoẻ rồi, chỉ ăn cho nó khoẻ lên chắc bệnh phải hết. Bu em đong cho tôi cả bốn hào gạo đỏ, đừng đong gạo trắng ăn nhạt lắm. Vợ gật đầu:
- Cũng được, nhưng đã thật khỏi chưa? Tôi trông thầy em còn mệt lắm.
- Ốm luôn sáu tháng trời làm mà không mệt sao được? Đi đi...
- Đi ngay giờ à?
- Ừ, đi xuống nhà bà phó Cửu ấy, xa một tí nhưng được rẻ.
Vợ gật đầu bảo thằng cu:
- Con ngồi đây với thầy cho bu đi đong gạo nhé?
Nó không chịu, sợ sệt nhìn cha. Chị mắng:
- Con nhà vô phúc, lại sợ bố!... Khốn nạn , tại đi về không có tiền mua bánh cho nó nên nó giận đấy mà, phải tội chết, con ạ.
Nhưng anh đĩ Chuột bảo:
- Cho cả nó đi, kẻo nó khóc. Bảo cái Gái về tôi bảo.
*
Người cha khốn nạn nhìn đứa con chòng chọc, thở dài. Một giọt lệ từ từ lăn xuống chiếu.
- Thầy bảo gì con ạ?
- Lúc nãy mẹ con mày ăn cám phải không?
Gái gượng cười cãi:
- Ăn chè đấy chứ.
Bố nó chép miệng:
- Khốn nạn, chè đâu mà ăn, cơm còn không có nữa là chè! Rõ mày khổ từ trong bụng mẹ...
Cái Gái cúi đầu xuống không nói. Anh đĩ Chuột thở dài:
- Con đi lấy cho thầy cái ghế buộc giậu, với sợi thừng ở gác bếp để thầy mắc lại cái võng, thế này cao quá.
Cái Gái lấy ghế và thừng vào. Anh đã bảo:
- Để đấy cho thầy rồi ra vườn làm cỏ đi.
Nó ra vườn, anh gượng ngồi dậy, xuống khỏi giường, mon men ra đóng chặt cửa buồng lại. Anh lấy cái thừng, làm một cái tròng chắc chắn, dùng hết sức tàn còn lại, trèo lên ghế, hai chân khẳng khiu run lẩy bẩy. Anh buộc cẩn thận một đầu dây lên xà nhà, buộc xong, mệt quá, anh đu vào cái thừng, gục đầu xuống thở. Anh thấy lòng chua xót, nước mắt giàn ra hai má lõm. Rồi anh quả quyết, anh đứng thẳng người lên, chui đầu vào tròng, cái thừng cứng cáp cọ vào cổ làm anh rùng mình, khóc nấc lên một tiếng. Cả cái thân hình mảnh dẻ bắt đầu rung chuyển như một tàu lá run trước gió. Bỗng anh ngừng bặt, ngây người ra nghe ngóng. Tiếng ai vừa gọi ngoài ngõ, tiếp đến cái Gái thưa và chạy ra, tiếng người kia the thé:
- Bu mày đâu?
Tiếng cái Gái rụt rè đáp lại:
- Bẩm bà, bu con đi vắng.
- Đi vắng! Đi vắng mãi! Mày về bảo con mẹ mày nội ngày mai không trả tiền tao thì tao đào mả lên đấy. Cái giống chỉ biết ăn không.
Anh đĩ Chuột rít hai hàm răng lại. Hai chân giận dữ đạp phắt cái ghế đổ văng xuống đất. Cái tròng rút mạnh lại. Cái bộ xương bọc da giãy giụa như một con gà bị bẫy, sau cùng, nó chỉ còn gật từng cái chậm dưới sợi dây thừng lủng lẳng.”
(Trích Nghèo - Nam Cao, theo Nam Cao - Truyện ngắn chọn lọc, NXB Văn học, Hà Nội, 2000)
Thực hiện các yêu cầu:
Câu 1 [706662]: Đoạn trích viết theo đề tài nào? Chỉ ra các nhân vật chính trong đoạn trích.
- Đoạn trích viết theo đề tài: người nông dân nghèo.
- Các nhân vật chính trong đoạn trích: anh đĩ Chuột, chị đĩ Chuột.
Câu 2 [706663]: Các nhân vật trong đoạn trích đang lâm phải tình cảnh nào?
Tình cảnh vợ chồng anh đĩ Chuột đang lâm phải:
- Nhà nghèo, mẹ con chị phải ăn cám thay cơm.
- Anh đĩ Chuột ốm suốt sáu tháng, nằm bệt giường.
- Nợ nần, bị đòi nợ rất rát.
Câu 3 [706664]: Những lời nói dối của vợ con anh đĩ Chuột trước anh cho thấy đặc điểm nào ở các nhân vật này?
Những lời nói dối của vợ con anh đĩ Chuột trước anh cho thấy tình yêu thương, lòng vị tha ở các nhân vật này (vợ con anh đĩ Chuột): Anh đĩ Chuột đang ốm, phải nằm bệt suốt sáu tháng nay, vợ con anh muốn anh yên tâm nghỉ ngơi, không cần phải bận tân đến họ.
Câu 4 [706665]: Nêu ý nghĩa của chi tiết tiếng đòi nợ của bà Huyện cuối truyện.
- Tiếng đòi nợ (của bà Huyện) cuối truyện: “Mày về bảo con mẹ mày nội ngày mai không trả tiền tao thì tao đào mả lên đấy. Cái giống chỉ biết ăn không.”.
- Ý nghĩa của chi tiết tiếng đòi nợ:
+ Phản ánh đời sống nghèo khổ, bần cùng của nhà chị đĩ Chuột: tình cảnh nợ nần, chưa có khả năng trả nợ. Từ đó, phản chiếu nỗi thống khổ trong cuộc đời, số phận của những người nông dân nghèo ở nông thôn Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám.
+ Phản ánh sự tàn độc, vô nhân tính của tầng lớp thống trị ở nông thôn Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám.
Câu 5 [706666]: Anh/Chị có đồng tình với cái chết của anh đĩ Chuột không? Vì sao?
Thí sinh có thể đồng tình/ không đồng tình/ đồng tình một phần với cái chết của anh đĩ Chuột; song cần lí giải ngắn gọn, thuyết phục nguyên do. Chẳng hạn:
- Tôi đồng tình với cái chết của anh đĩ Chuột vì nó là lựa chọn tốt nhất cho chính anh trong hoàn cảnh ngặt nghèo của bản thân và gia đình - là cách giải thoát cho anh và gia đình khỏi tình cảnh gieo neo.
Hoặc:
- Tôi không đồng tình với cái chết của anh đĩ Chuột vì nó cho thấy sự đầu hàng của anh với hoàn cảnh của bản thân. Thêm nữa, sự sống của anh dẫu sao vẫn là điểm tựa tinh thần cho vợ con anh. Việc anh chọn cái chết chỉ giải thoát cho bản thân anh còn nó sẽ để lại nỗi đau lòng cho vợ con anh rất lâu.
Hoặc:
- Tôi vừa đồng tình vừa không đồng tình với cái chết của anh đĩ Chuột. Bởi lẽ:
+ Với riêng anh đĩ Chuột, chết là cách giải thoát anh khỏi cảnh ngộ éo le của cá nhân và là cách giảm đi gánh nặng đang đè lên đôi vai vợ anh.
+ Nhưng dẫu sao, với vợ con anh, anh vẫn là điểm tựa tinh thần vững chắc bởi họ yêu thương anh thực sự. Họ sẽ rất đau lòng khi anh rời bỏ họ mà đi.
II. VIẾT (6,0 điểm)
Câu 6 [706667]: (2,0 điểm)
Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) ghi lại ấn tượng của anh/chị về một chi tiết đặc sắc trong văn bản ở phần Đọc hiểu.
Đoạn trích được rút từ truyện ngắn Nghèo có rất nhiều chi tiết đặc sắc, chẳng hạn: chi tiết chị đĩ Chuột nói dối chồng là mẹ con đã ăn cơm gạo đỏ no rồi; chi tiết anh đĩ Chuột nói dối vợ rằng mình đã khoẻ; chi tiết có tiếng đòi nợ the thé đúng lúc anh đĩ Chuột định tự vẫn; chi tiết anh đĩ Chuột tự vẫn;...
Đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) ghi lại ấn tượng về một chi tiết đặc sắc trong văn bản rút từ truyện ngắn Nghèo (Nam Cao) là một yêu cầu mở. Thí sinh có thể tự do lựa chọn chi tiết đặc sắc bất kì song cần xây dựng một hệ thống lập luận thuyết phục để làm rõ nguyên do vì sao lại ấn tượng với chi tiết đó. Chẳng hạn:
- M. Gorki từng khẳng định: Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn. Chi tiết đặc sắc là những tiểu tiết có sức chứa lớn về tư tưởng, tình cảm, khơi gợi nhiều cảm xúc, suy nghĩ trong người đọc.
- Một trong những chi tiết đặc sắc trong truyện ngắn Nghèo (Nam Cao) chính là chi tiết con bé Gái - con vợ chồng anh chị đĩ Chuột - nói dối bố là mấy mẹ con đã ăn chè.
+ Chi tiết được Nam Cao kể lại một cách khá kĩ lưỡng: Sau khi xua vợ và con út đi đong gạo ở nhà bà phó Cửu, anh đĩ Chuột gọi con cái Gái lên hỏi han: “Lúc nãy mẹ con mày ăn cám phải không?”. Anh hỏi con nhưng thực chất đã rõ ràng, tỏ tường lời đáp. Tuy nhiên, con bé Gái con anh đã gượng cười cãi lại bố nó: “Ăn chè đấy chứ”.
+ Trẻ con vốn ngây thơ nên thường trả lời thật những điều được hỏi. Theo đó, trước câu hỏi của bố, nếu trả lời đúng, cái Gái sẽ nói “Vâng!”. Song con bé lại chọn cách nói dối và hẳn nhiên cái Gái có lí do để nói dối. Nó, cũng như mẹ nó, không muốn người bố đã nằm bệt nửa năm trời nay, phải khổ tâm lo nghĩ thêm về sự khốn khổ của mẹ con nó. Lời nói của Gái cho thấy tình yêu thương sâu sắc con bé dành cho bố.
- Chi tiết giản dị, mộc mạc, thể hiện sâu sắc tình cảm yêu thương trong gia đình của những con người nghèo khổ, khiến người đọc nhớ đến thi phẩm Lời nói dối nhân ái của nhà thơ Trang Thế Hy, để rồi đôi khi sẽ mở lòng, rộng lòng với những lời nói dối đầy thương yêu.
Câu 7 [706668]: (4,0 điểm)
Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về câu tục ngữ: Ở bầu thì tròn ở, ống thì dài.
Bài văn trình bày suy nghĩ về trình bày suy nghĩ của anh/chị về câu tục ngữ: Ở bầu thì tròn ở, ống thì dài có thể được triển khai nhiều cách. Song cần bảo đảm các ý:
1. Mở bài (gián tiếp)
- Dẫn dắt vấn đề
- Nêu vấn đề
2. Thân bài
- Giải thích ngắn gọn ý nghĩa câu tục ngữ:
+ Các từ ngữ:
• “Bầu”, “ống”: là các hình dạng tồn tại thường là hình tròn (“bầu”) và thuôn dài, hẹp (“ống”).
• “Ở bầu”, “ở ống”: là cách nói ẩn dụ, gợi đến các hoàn cảnh, tình cảnh khác nhau.
+ Câu tục ngữ Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài gợi đến khả năng linh hoạt thích nghi, thích ứng, sống tuỳ thời, tuỳ theo hoàn cảnh; là lời khuyên mỗi người hãy biết ứng phó linh hoạt trước sự thay đổi của hoàn cảnh.
- Bình luận:
+ Lời khuyên hoàn toàn xác đáng. Bởi lẽ:
• Cuộc sống luôn vận động, biến đổi không ngừng. Có những đổi thay thuận lợi, tạo điều kiện cho sự phát triển nhưng cũng có những đổi thay có thể làm cho mọi thứ trở nên khó khăn hơn. Nếu trước những thay đổi theo chiều hướng tiêu cực, chúng ta không kịp thích ứng, chắc chắn, chúng ta sẽ thất bại. Ngược lại, nếu kịp thời thích nghi, chúng ta sẽ vượt qua những khó khăn, trở ngại đó và có cơ hội thành công.
• Việc thích nghi với hoàn cảnh không chỉ giúp chúng ta dễ dàng thích ứng với sự thay đổi của điều kiện, môi trường sống mà còn mang đến cho chúng ta một tâm lí thoải mái, vui vẻ, rèn luyện cho ta một tâm thế chủ động, an nhiên. Theo đó, trước những sự thay đổi của môi trường, chúng ta không cảm thấy mệt mỏi, chán chường, không có tâm lí buông xuôi, tuyệt vọng...
+ Để có thể linh hoạt thích nghi với hoàn cảnh sống:
• Nhận thức: Mỗi người cần nhận thức những biến đổi thăng trầm trong cuộc sống là một lẽ tự nhiên trong cuộc sống, thậm chí nó làm cho mỗi chúng ta trưởng thành hơn...
• Hành động: Để có thể thích nghi với sự đổi thay của hoàn cảnh sống, mỗi người cần có những chuẩn bị kĩ lưỡng về tâm lí, tinh thần, về kiến thức, kĩ năng của bản thân cùng các điều kiện khác,...
- Mở rộng: Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài không có nghĩa là sống xu thời, “phù thịnh không phù suy”, là chỉ “hùa” theo cái xấu, cái ác (cái xấu, cái ác thường mạnh).
3. Kết bài
Rút ra bài học nhận thức và hành động