I. ĐỌC HIỂU (4,0 điểm)
Đọc văn bản:
ÁO ẤM NGÀY MƯA
(Đỗ Phấn)
(1) Dĩ nhiên nói đến rét mướt chỉ là nói về câu chuyện của miền Bắc. Ngày mới thống nhất, người miền Bắc vào Sài Gòn chơi dịp Giáng Sinh thấy chị em ra phố trong trang phục của những ngày cực rét ngoài Bắc cứ thấy là lạ. Nhiều người mặc áo len, áo dạ. Đơn giản nhất cũng có chiếc áo mút cổ lọ. Vài cô gái môi đỏ chót còn khoác chiếc măng-tô dài chấm gót. Sài Gòn những hôm ấy nhiệt độ chỉ là 18 đến 20 độ mà thôi. Người miền Bắc chưa ai phải mặc đến áo ấm.
(2) Hóa ra lịch sử áo ấm của người xứ Bắc cũng hết sức đơn giản. Từ xa xưa áo ấm có nghĩa là mặc nhiều áo lên tùy theo nền nhiệt từng ngày. Chiếc áo dùng cho những ngày rét nhất là áo bông chần ra đời cũng chưa lâu lắm sau khi người làng Trát Cầu - Thường Tín biết nghề bật bông khoảng vài trăm năm nay mà thôi. Ban đầu cũng chỉ là bật bông để làm chăn đắp. Sau mới may thành áo. Giữa thế kỉ trước người Hà Nội lịch sự ai cũng có một chiếc áo bông chần khâu tay đặt may trên Hàng Ngang, Hàng Đào, Cầu Gỗ. Phần lớn là đàn bà cứng tuổi mặc. Đàn ông và thiếu nữ đã có những áo bông may theo kiểu tây. Bên ngoài là vỏ áo may bằng vải ka ki. Bên trong là lớp lót bông. Vỏ áo có thể thay đổi trong mùa. Ruột bông phải hết rét mới mang giặt.
(3) Những loại áo len, sợi đan tay và dệt kim hoá ra cũng mới chỉ có mặt khi người Pháp sang đô hộ xứ Đông Dương. Nó là của quý. Sợi len phải nhập khẩu hoàn toàn. Nghề đan len những năm sau tiếp quản Hà Nội 1954 rất phát triển. Nhưng chủ yếu đan gia công cho nhà nước mang xuất khẩu là chính. Các mẹ, các chị nhặt nhạnh đầu thừa đuôi thẹo đan lại cho con em mình những chiếc áo len sặc sỡ đủ màu có tên gọi chung là “áo len tiết kiệm”. Lúc ấy ai mặc chiếc áo len trơn tru một màu được coi là hết sức sang trọng. Thanh niên ở phố có chiếc áo len cổ quả tim màu tím than mặc ngoài áo sơ mi trắng có thể tự tin ra mắt gia đình bạn gái mà không hề lo sợ. Thiếu nữ có chiếc áo len cổ lọ mặc bên trong áo sơ mi chỉ lấp ló lộ ra màu đỏ rực rỡ trên chiếc cổ trắng muốt tưởng như chỉ có trong phim ảnh.
(4) Hà Nội lúc ấy có Nhà máy Dệt kim Đông Xuân sản xuất ra gần như toàn bộ nhu cầu áo dệt của cả nước. Từ cán bộ, công nhân, bộ đội, học sinh hầu hết mặc áo dệt kim này. Chữ “áo Dệt kim Đông Xuân” là một thương hiệu quen thuộc đến mức nói ra là ai cũng hiểu ngay hình dáng, màu sắc của nó. Vải dệt kim được dệt bằng sợi bông nhuộm màu. Cắt ra may áo phải có máy khâu chuyên dụng ở nhà máy. Nhà máy dệt kim ấy thực chất có đến một nửa công việc là của thợ may. Những chiếc áo dệt kim phổ biến đến mức hầu như ai cũng dùng. Từ lãnh đạo cao cấp cho đến những anh lính các lực lượng vũ trang. Từ học sinh cho đến cán bộ. Nhiều nông dân cũng dùng nó tuy họ không ưa chuộng lắm. Những công việc đồng áng nước nôi mặc áo dệt kim đi làm kể cũng bất tiện.
(5) Cho đến tận sau ngày thống nhất đất nước người miền Bắc mới biết đến chiếc áo mút cổ lọ. Nó cũng chỉ là áo dệt kim mà thôi nhưng được dệt bằng loại sợi hoá học. Nó được may bó sát thân mình rất thời thượng và độ bền thì không gì sánh bằng. Nông dân rất thích mặc áo này đi làm đồng bởi tha hồ tầm tã mà không sợ vướng víu mòn rách. Thanh niên nông thôn có chiếc áo mút cổ lọ là có thể lên sân khấu làng biểu diễn những ca khúc rực lửa. Thanh niên ở phố dù bên ngoài chỉ là chiếc áo đại cán màu cỏ úa cũng cố kiếm cho bằng được chiếc áo mút cổ lọ “đẳng cấp” mặc bên trong. Lúc ấy hình như đã gần đạt được bình đẳng thẩm mĩ trang phục giữa nông thôn và thành thị ở chiếc áo dệt kim thời trang này. Lúc ấy cả nông thôn và thành thị vẫn còn vất vả lục lọi những quần áo thời trang thải loại của nước ngoài ở những hàng quần áo “Sida” trải chiếu bán trên vỉa hè.
(6) Thoắt chốc giờ đây gần như rất ít ai còn nhắc đến chuyện áo ấm. Những người phát tâm đi làm từ thiện trên vùng cao ngày trước thu gom quần áo cũ mang tặng đồng bào thì nay cũng rất ít nơi còn nhận những thứ ấy. Đã có lòng thì nên tặng quần áo mới hoặc đặt may mới mà làm từ thiện. Khắp những phiên chợ vùng cao từ Mộc Châu - Sơn La, Trùng Khánh - Cao Bằng sang tới Đồng Văn, Mèo Vạc - Hà Giang đều có những “sạp” áo rét trải ngay vải bạt xuống đất mà bày hàng ra bán. Giá rẻ chỉ bằng bát phở là có một chiếc áo rét hai lớp chần bông hoá học sắc màu sặc sỡ.
(Theo vanvn.vn)
Thực hiện các yêu cầu:
Câu 1 [706705]: Chỉ ra bố cục văn bản.
Bố cục văn bản:
- Phần thứ nhất (từ đầu đến chưa ai phải mặc đến áo ấm): Nêu vấn đề - giới thiệu áo ấm.
- Phần thứ hai (tiếp đến trải chiếu bán trên vỉa hè): Lịch sử áo ấm của người xứ Bắc/ Sự phát triển của áo ấm theo thời gian.
- Phần thứ ba (còn lại): Áo ấm và câu chuyện từ thiện trên vùng cao.
Câu 2 [706706]: Theo đoạn (1), điều gì khiến cho những người Bắc vào Sài Gòn thấy lạ?
Theo đoạn (1), điều khiến cho những người Bắc vào Sài Gòn thấy lạ là dịp Giáng Sinh thấy chị em ra phố trong trang phục của những ngày cực rét ngoài Bắc.; Nhiều người mặc áo len, áo dạ. Đơn giản nhất cũng có chiếc áo mút cổ lọ. Vài cô gái môi đỏ chót còn khoác chiếc măng-tô dài chấm gót. Sài Gòn những hôm ấy nhiệt độ chỉ là 18 đến 20 độ mà thôi. Người miền Bắc chưa ai phải mặc đến áo ấm.
Câu 3 [706707]: Phân tích kết cấu của văn bản.
- Kết cấu của văn bản:
+ Văn bản được kết cấu theo mạch lô gích: ba phần của văn bản tương ứng với lô gích giới thiệu đối tượng (chiếc áo ấm) - sự phát triển của áo ấm theo thời gian - áo ấm và câu chuyện từ thiện hôm nay.
+ Riêng phần thứ hai (phần trọng tâm của văn bản) được kết cấu theo mạch thời gian:
• Vài trăm năm trước, chiếc áo bông chần ra đời cách nay vài trăm năm, đến giữa thế kỉ XX, những chiếc áo bông chần khâu tay đặt may trên Hàng Ngang, Hàng Đào, Cầu Gỗ là trang phục lịch sự của người Hà Nội.
• Khi người Pháp sang đô hộ nước ta rồi đến những năm sau tiếp quản Hà Nội 1954, áo len, sợi đan tay và dệt kim cũng xuất hiện và phát triển.
• Sự xuất hiện của Nhà máy Dệt kim Đông Xuân cùng sự ra đời của áo dệt kim
• Đất nước thống nhất và sự xuất hiện của chiếc áo mút cổ lọ.
- Tác dụng của các kiểu kết cấu:
+ Tạo nên một văn bản vừa mạch lạc, vừa chặt chẽ.
+ Thể hiện hiểu biết phong phú, sâu sắc của người viết về chiếc áo ấm xứ Bắc.
+ Cung cấp cho người đọc cái nhìn toàn diện, lí thú về chiếc áo ấm trong đời sống, qua thăng trầm lịch sử của con người xứ Bắc.
Câu 4 [706708]: Chỉ ra và nêu tác dụng của sự kết hợp giữa yếu tố thuyết minh với yếu tố miêu tả trong văn bản.
- Sự kết hợp giữa yếu tố thuyết minh với yếu tố miêu tả trong văn bản:
+ Thuyết minh: giới thiệu về các loại áo ấm (áo len, áo dạ, áo mút cổ lọ, áo măng-tô,...); về lịch sử áo ấm của người xứ Bắc và sự ra đời của các loại áo ấm; thông tin về đối tượng sử dụng (áo bông chần khâu tay phần lớn phụ nữ cứng tuổi mặc; thanh niên ở phố có chiếc áo len cổ tim màu tím than mặc ngoài áo sơ mi trắng có thể tự tin ra mắt gia đình bạn gái; áo dệt kim khá phổ biến, từ cán bộ, công nhân, bộ đội, học sinh hầu hết mặc áo dệt kim này;...); chất liệu, cấu tạo của mỗi loại áo ấm (chẳng hạn: những áo bông may theo kiểu tây. Bên ngoài là vỏ áo may bằng vải ka ki. Bên trong là lớp lót bông. Vỏ áo có thể thay đổi trong mùa. Ruột bông phải hết rét mới mang giặt.; áo mút cổ lọ được dệt bằng loại sợi hoá học;...).
+ Miêu tả: thể hiện qua cách tác giả tái hiện tính chất, đặc điểm của từng loại áo ấm và vẻ đẹp của mỗi loại áo ấm khi được con người diện lên; cách phối hợp, sử dụng các loại áo ấm với các trang phục khác (Chẳng hạn: Thiếu nữ có chiếc áo len cổ lọ mặc bên trong áo sơ mi chỉ lấp ló lộ ra màu đỏ rực rỡ trên chiếc cổ trắng muốt tưởng như chỉ có trong phim ảnh.; Thanh niên nông thôn có chiếc áo mút cổ lọ là có thể lên sân khấu làng biểu diễn những ca khúc rực lửa. Thanh niên ở phố dù bên ngoài chỉ là chiếc áo đại cán màu cỏ úa cũng cố kiếm cho bằng được chiếc áo mút cổ lọ “đẳng cấp” mặc bên trong.;...)
- Tác dụng:
+ Thuyết minh cung cấp các thông tin về áo ấm (sự phát triển của áo ấm qua thời gian lịch sử; đối tượng sử dụng, chất liệu;...). Điều thú vị nhất từ văn bản là người đọc có thêm những hiểu biết về các loại áo ấm và sự ra đời của mỗi loại áo này theo thời gian.
+ Yếu tố miêu tả giúp người đọc hình dung rõ hơn về đặc điểm, cách sử dụng mỗi loại áo ấm và thị hiếu thẩm mĩ của người Việt xứ Bắc khi mặc áo ấm...
+ Sự kết hợp giữa thuyết minh và miêu tả giúp người đọc có cái nhìn đầy đặn về áo ấm - một loại trang phục đặc thù của mùa đông, mùa xuân xứ Bắc.
Câu 5 [706709]: Anh/Chị có đồng tình với ý kiến cho rằng Đã có lòng thì nên tặng quần áo mới hoặc đặt may mới mà làm từ thiện không? Vì sao?
Thí sinh có thể đồng tình/ không đồng tình/ đồng tình một phần với ý kiến cho rằng Đã có lòng thì nên tặng quần áo mới hoặc đặt may mới mà làm từ thiện.; song cần giải thích ngắn gọn, thuyết phục nguyên do. Chẳng hạn:
- Tôi đồng tình với ý kiến cho rằng Đã có lòng thì nên tặng quần áo mới hoặc đặt may mới mà làm từ thiện. Bởi lẽ ngày nay, các mặt hàng áo quần rất đa dạng về chủng loại, mẫu mã, giá thành. Với một mức giá phải chăng, chúng ta vẫn có thể mua những bộ quần áo mới để gửi đến người cần được hỗ trợ một cách đầy trân trọng. Việc chúng ta cho tặng những bộ quần áo cũ hay không còn lạnh lặn có thể làm chạnh lòng một số người nhận.
Hoặc:
- Tôi không đồng tình với ý kiến cho rằng Đã có lòng thì nên tặng quần áo mới hoặc đặt may mới mà làm từ thiện. Bởi lẽ việc cho đi những bộ quần áo tuy không mới nhưng còn lành lặn mà chúng ta không còn nhu cầu sử dụng cũng là một cách chia sẻ đáng trân trọng đối với những người khó khăn. Chỉ cần chúng ta chú ý “cách cho” (“Của cho không bằng cách cho”), tôi tin tấm lòng, tình cảm của chúng ta vẫn sẽ được đón nhận.
Hoặc:
- Tôi vừa đồng tình vừa không đồng tình với ý kiến cho rằng Đã có lòng thì nên tặng quần áo mới hoặc đặt may mới mà làm từ thiện.
Thí sinh kết hợp gợi ý ở các phương án trả lời trên để trình bày lí do.
II. VIẾT (6,0 điểm)
Câu 6 [706710]: (2,0 điểm)
Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) cảm nhận về hình tượng nhân vật trữ tình trong văn bản ở phần Đọc hiểu.
Đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) cảm nhận về cảm nhận về hình tượng nhân vật trữ tình trong văn bản Áo ấm ngày mưa (Đỗ Phấn) có thể được triển khai theo hướng:
- Đỗ Phấn là một trong những nghệ sĩ tài hoa (viết văn, vẽ tranh), một cây bút tiêu biểu của văn học đương đại. Nhiều tản văn của ông hấp dẫn người đọc bởi hình tượng nhân vật trữ tình - tác giả đặc sắc:
+ Trong Áo ấm ngày mưa, nhân vật trữ tình - tác giả - không hiện diện trực tiếp mà gián tiếp hiện lên qua cách dẫn dắt người đọc đi tìm hiểu về chiếc áo ấm của người xứ Bắc.
+ Qua trang viết, nhân vật trữ tình bộc lộ hình ảnh của một con người:
• Uyên bác: Đặc điểm này thể hiện qua những hiểu biết vô cùng đầy đặn, sâu sắc, kĩ lưỡng về lịch sử phát triển của chiếc áo ấm ở xứ Bắc nước ta. Tác giả đã tái hiện một “lược đồ” về chiếc áo ấm từ khởi thuỷ cách đây vài trăm năm là chiếc áo bông chần cho đến ngày đất nước thống nhất với chiếc áo mút cổ lọ và đến tận ngày nay, khi áo ấm giá rẻ được bày bán khắp các phiên chợ vùng cao. Cùng với đó là những tri thức thú vị về nguyên liệu, đối tượng sử dụng, cách mặc “thời thượng”,... của mỗi loại áo ấm (Giữa thế kỉ trước người Hà Nội lịch sự ai cũng có một chiếc áo bông chần khâu tay đặt may trên Hàng Ngang, Hàng Đào, Cầu Gỗ. Phần lớn là đàn bà cứng tuổi mặc. Đàn ông và thiếu nữ đã có những áo bông may theo kiểu tây.;...).
• Tài hoa: thể hiện qua một số chi tiết nhà văn miêu tả “cách diện” những chiếc áo ấm của người xứ Bắc (Lúc ấy ai mặc chiếc áo len trơn tru một màu được coi là hết sức sang trọng. Thanh niên ở phố có chiếc áo len cổ quả tim màu tím than mặc ngoài áo sơ mi trắng có thể tự tin ra mắt gia đình bạn gái mà không hề lo sợ. Thiếu nữ có chiếc áo len cổ lọ mặc bên trong áo sơ mi chỉ lấp ló lộ ra màu đỏ rực rỡ trên chiếc cổ trắng muốt tưởng như chỉ có trong phim ảnh.; Thanh niên nông thôn có chiếc áo mút cổ lọ là có thể lên sân khấu làng biểu diễn những ca khúc rực lửa. Thanh niên ở phố dù bên ngoài chỉ là chiếc áo đại cán màu cỏ úa cũng cố kiếm cho bằng được chiếc áo mút cổ lọ “đẳng cấp” mặc bên trong.). Các chi tiết khiến người đọc không chỉ hình dung rõ nét về “gu” thời trang áo ấm trước đây mà còn cho thấy một tâm lí phổ biến của con người: thích mặc đẹp, mặc “mốt”, thời trang.
• Nhân văn: thể hiện qua quan điểm, tư tưởng riêng trong việc tặng áo ấm cho đồng bào vùng cao. Theo đó, nhân vật trữ tình cho rằng Đã có lòng thì nên tặng quần áo mới hoặc đặt may mới mà làm từ thiện, đó là cách thể hiện sự trân trọng, tình cảm yêu mến dành cho đồng bào miền núi còn khó khăn.
- Hình tượng nhân vật trữ tình trong văn bản tuy không xuất hiện trực tiếp nhưng luôn trong tâm thế trò chuyện, đối thoại với bạn đọc. Bởi lẽ đó, nhân vật trữ tình trong Áo ấm ngày mưa hiện lên thật gần gũi, đáng mến.
Câu 7 [706711]: (4,0 điểm)
Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ), bàn về hiện tượng ăn mặc lố lăng, phản cảm ở một bộ phận không nhỏ người trẻ ngày nay.
Bài văn trình bày suy nghĩ về hiện tượng ăn mặc lố lăng, phản cảm ở một bộ phận không nhỏ người trẻ ngày nay có thể được triển khai nhiều cách. Song cần bảo đảm các ý:
1. Mở bài (gián tiếp)
- Dẫn dắt vấn đề
- Nêu vấn đề
Ví dụ: Có lẽ chúng ta đã từng khen chê, bình phẩm chuyện ăn mặc của ai đó. Có lẽ chính bản thân chúng ta cũng từng trở thành đối tượng của những lời khen chê, bình phẩm ấy. Đó là chuyện thường. Song sẽ thật đáng sợ nếu chúng ta bị gắn mác “ăn mặc lố lăng, phản cảm”...
2. Thân bài
- “Ăn mặc lố lăng, phản cảm”: cách mặc không phù hợp với bối cảnh xuất hiện, thậm chí thiếu văn hoá, lịch sự, gây ra cảm giác bất bình, khó chịu, cảm thấy không được tôn trọng.
- Bình luận về hiện tượng ăn mặc lố lăng, phản cảm ở một bộ phận không nhỏ người trẻ ngày nay
+ Thực trạng:
• Mặc trang phục không phù hợp với bối cảnh xuất hiện (nhiều người trẻ đến nơi chùa chiền tôn nghiêm hay các di tích lịch sử hoặc có mặt tại những hội nghị trang trọng, có khi là bệnh viện, nhà tang lễ,... với những bộ trang phục như váy ngắn, thậm chí quá ngắn, hoặc rách thủng - mà các bạn cho là phong cách, hoặc quá sặc sỡ, loè loẹt,...; nhiều bạn lại đến nơi công sở trong trang phục là những bộ đồ ngủ ở nhà cùng dép lê trông hết sức nhếch nhác, thiểu não,...).
• Nhiều người trẻ, đặc biệt là các bạn nữ, quá cởi mở trong cách ăn mặc. Họ ra đường, đến những nơi công cộng như trung tâm thương mại, rạp chiếu phim, sân bay, lớp học,... với những bộ đồ quá hở hang. (Không khó để bắt gặp trên đường phố, trong siêu thị hay cả những nơi cần sự kín đáo, tế nhị nhất như lớp học, hình ảnh những cô gái trong kiểu váy áo “cũn cỡn” hay đang khoác lên mình chiếc áo xuyên thấu phô hết cả những nơi nhạy cảm trên cơ thể và cả những chiếc quần ngắn đến mức không thể ngắn hơn.)
• Điều đáng nói hơn nữa là những bạn trẻ này lại tỏ ra hết sức bình thản trước việc ăn mặc lố lăng, phản cảm và coi đó như là một cách để thể hiện sự sành điệu của bản thân.
+ Nguyên nhân dẫn đến cách ăn mặc lố lăng, phản cảm của những người trẻ này:
• Khách quan:
o Sự ảnh hưởng từ xu hướng ăn mặc của những người nổi tiếng ở các nước phương Tây. (Họ không hiểu rằng, ở mỗi nơi đều có những chuẩn mực văn hóa riêng. Hay như việc các nghệ sỹ ăn mặc sexy chỉ là do tính chất công việc của họ và những bộ trang phục như thế chỉ được sử dụng ở bối cảnh sân khấu...).
o Nhiều bạn trẻ được tự do trong việc lựa chọn trang phục mà không phải chịu sự kiểm soát nào từ người lớn trong gia đình.
o ...
• Chủ quan:
o Nhiều người trẻ cho rằng họ có quyền tự do ăn mặc và ăn mặc hở hang, độc dị,... là cách họ có thể bộc lộ cá tính. Thực tế họ không phân biệt được cá tính với lố lăng.
o Một số người trẻ, đặc biệt là các bạn nữ cho rằng tốt khoe xấu che, theo đó, họ muốn phô diễn, muốn khoe các đường cong trên cơ thể mình cho mọi người biết.
o Nhiều người quan niệm hở hang không có nghĩa là hư hỏng nên họ rất tự tin... để hở hang.
o ...
+ Hậu quả:
• Cách ăn mặc lố lăng, phản cảm của nhiều người trẻ khiến những người có nhận thức về việc ăn mặc cảm thấy xấu hổ và bất lực, nhiều người chỉ biết lắc đầu ngán ngẩm, không hiểu được tại sao các cô gái ấy lại có thể can đảm đến mức diện được cả những kiểu trang phục kệch cỡm hoặc “mặc như không”, hồn nhiên đi lại giữa chốn đông người.
• Thực tế cũng cho thấy, việc diện những bộ trang phục lố lăng, phản cảm cũng chính là nguyên nhân xảy ra nhiều vụ ẩu đả (khi một bên cảm thấy “ngứa mắt” với cách ăn mặc rất “ngông” của bên kia) hoặc tình trạng bị xâm hại tình dục đối với các bạn nữ (trong khi chính các bạn đã tiếp tay để cho những kẻ xấu có cơ hội thực hiện hành vi đồi bại với mình).
+ Giải pháp
Cái răng cái tóc là góc con người, việc ăn mặc cần được mỗi người nhận thức đúng đắn: mặc là một biểu hiện của văn hoá, ăn mặc phù hợp với bối cảnh xuất hiện cũng là một biểu hiện của văn hoá...
• Việc lựa chọn trang phục sao cho phù hợp với bối cảnh và với bản thân cần được chúng ta thực hiện một cách cẩn trọng, kĩ lưỡng thay vì buông tuồng hoặc chỉ để thoả mãn sở thích của bản thân...
- Mở rộng: Ăn mặc là nhu cầu riêng của bản thân mỗi người. Chúng ta có quyền tự do trong cách ăn mặc song bởi ăn cho mình mặc cho người nên mỗi chúng ta cần mặc sao cho phù hợp.
3. Kết bài
Rút ra bài học nhận thức và hành động