I. ĐỌC HIỂU (4,0 điểm)
Đọc đoạn trích:
“(1) Đã lâu lắm, chúng mình không được tin tức của nhau Quỳ nhỉ. Chiến tranh cắt đứt ân tình của hai ta: thôi đành lấy câu vận mệnh để khuây dần thương nhớ vậy.
(2) Nhưng thương nhớ kì lạ lắm. Có những đêm không ngủ, nằm nghe tiếng mưa rơi, tôi cố nhớ lại nét mặt của người thương, mà không hiểu tại sao con mắt, miệng cười và mớ tóc xõa trên hai bờ vai tròn trĩnh lại lu mờ như thể chìm đắm trong khói sóng. Mà trái lại có những kỉ niệm rất bé nhỏ, rất tầm thường lại hiện ra rõ rệt, không suy suyển một li trong trí óc của người nặng nợ lưu li, nằm buồn trong gác nhỏ ngâm câu thơ nhớ vợ:
(4) Bây giờ, ngồi xem én nhạn bay, có lúc tôi cũng bổ một quả vú sữa ra ăn, nhưng ăn thì lại nhớ đến một đêm tháng Hai đã mất “để cho mùa xuân kia có trở lại cũng bằng thừa”.
[...]
(5) Cái đêm tháng Hai ở Hà Nội kì ảo lắm. Có khi còn mưa phùn, có khi có gió thổi se se trên lộc đào, nhánh mai, nhưng bao giờ cũng vẫn còn hơi rét. Thành phố im lặng, ngồi trong nhà mà nghe thấy từng cái lá rụng ngoài vườn. Anh em bè bạn lần lượt ra về thong thả. Trẻ ở nhà trong cũng ngủ yên. Hai vợ chồng nhìn nhau không nói, nhưng cảm thấy mình như là tiên sống cách biệt cõi trần, lấy cái ấm “cò bay” bằng đồng bạch ra đun nước rồi cầm cái khăn đỏ lau lại bộ đồ trà, pha một ấm trà ướp thủy tiên mời nhau uống, trịnh trọng như hai tân khách.
(6) Các cụ sành trà thường bảo muốn thưởng thức trà tuyệt kỹ thì phải là cái thứ trà mộc không ướp hoa gì, nhưng mình có phải là tay sành đâu mà phải theo khuôn sáo ấy! Chỉ biết là vợ con ở trong nhà, học đòi các cụ gọt thủy tiên, còn thừa thì đem trồng trong cát, chơi hoa đến hết ngày rằm, đem cắt những bông hoa hãy còn tươi ướp trà tàu rồi sấy cất đi để dành, lúc phởn phơ trong bụng thì lấy ra pha uống, thế thôi.
(7) Ôi chao, cần gì phải trà mộc, cần gì phải nước giếng thanh tân, cứ cầm cái chén quân đưa lên môi và nghĩ rằng hoa thủy tiên này là do vợ mình gọt, trà thủy tiên này là do vợ mình ướp, ấm trà này là do vợ mình pha thì cũng đã thấy ngào ngạt hương tình trong khắp cả cái đêm xuân tĩnh mịch này rồi!
(8) Trầm ở trong chiếc lư đồng vừa lúc đó lụi dần, tỏa ra một mùi thơm nhẹ hòa lẫn với hương trà làm cho cả hai vợ chồng cùng bâng khuâng... Gió lay động cánh màn nơi cửa sổ. Người vợ xõa tóc, đi lại nằm dài trên nệm trắng, mở mắt trong bóng tối nhìn mây bay và nghe thấy hình như ở xa xa có tiếng nhạc từ trên trời rơi xuống.
(9) Khẽ quay mình lại với vợ để cho ấm áp hơn, người chồng hỏi:
- Này mình, có phải mùa này là mùa đào bói quả không?
- Sao tự nhiên anh hỏi vậy?
(10) Người chồng lặng im một lát không nói gì. Ba phút sau, nghe hơi thở, biết là vợ đã ngủ rồi, y nằm yên nhắm mắt và tiếp tục nối lại giấc mộng vừa qua: giấc mộng hoa đào, nước suối.”
“(1) Đã lâu lắm, chúng mình không được tin tức của nhau Quỳ nhỉ. Chiến tranh cắt đứt ân tình của hai ta: thôi đành lấy câu vận mệnh để khuây dần thương nhớ vậy.
(2) Nhưng thương nhớ kì lạ lắm. Có những đêm không ngủ, nằm nghe tiếng mưa rơi, tôi cố nhớ lại nét mặt của người thương, mà không hiểu tại sao con mắt, miệng cười và mớ tóc xõa trên hai bờ vai tròn trĩnh lại lu mờ như thể chìm đắm trong khói sóng. Mà trái lại có những kỉ niệm rất bé nhỏ, rất tầm thường lại hiện ra rõ rệt, không suy suyển một li trong trí óc của người nặng nợ lưu li, nằm buồn trong gác nhỏ ngâm câu thơ nhớ vợ:
Ủ ê nét liễu sầu tuôn gió,
Thổn thức tình tơ lệ ướt bào.
Hoa tủi còn đâu duyên tác hợp,
Mây bay rồi nữa giấc chiêm bao!
(3) Tôi nhớ những buổi tối đi trên con đường Tòa Án ngan ngát mùi hoa sữa, nhớ những đêm trăng hai đứa dắt nhau trên đường Giảng Võ xem chèo, những đêm mưa ngâu, thức dậy thổi một nồi cơm gạo vàng ăn với thịt con gà mái ấp. Bao trùm tất cả những niềm thương nỗi nhớ ấy, tôi nhớ nhất một đêm cuối tháng Giêng, đầu hai năm ấy, hai đứa mới quen nhau, cùng ăn chung một quả vú sữa của một người bạn phương Nam gửi ra cho, rồi đánh tam cúc cho tới nửa đêm về sáng.(4) Bây giờ, ngồi xem én nhạn bay, có lúc tôi cũng bổ một quả vú sữa ra ăn, nhưng ăn thì lại nhớ đến một đêm tháng Hai đã mất “để cho mùa xuân kia có trở lại cũng bằng thừa”.
[...]
(5) Cái đêm tháng Hai ở Hà Nội kì ảo lắm. Có khi còn mưa phùn, có khi có gió thổi se se trên lộc đào, nhánh mai, nhưng bao giờ cũng vẫn còn hơi rét. Thành phố im lặng, ngồi trong nhà mà nghe thấy từng cái lá rụng ngoài vườn. Anh em bè bạn lần lượt ra về thong thả. Trẻ ở nhà trong cũng ngủ yên. Hai vợ chồng nhìn nhau không nói, nhưng cảm thấy mình như là tiên sống cách biệt cõi trần, lấy cái ấm “cò bay” bằng đồng bạch ra đun nước rồi cầm cái khăn đỏ lau lại bộ đồ trà, pha một ấm trà ướp thủy tiên mời nhau uống, trịnh trọng như hai tân khách.
(6) Các cụ sành trà thường bảo muốn thưởng thức trà tuyệt kỹ thì phải là cái thứ trà mộc không ướp hoa gì, nhưng mình có phải là tay sành đâu mà phải theo khuôn sáo ấy! Chỉ biết là vợ con ở trong nhà, học đòi các cụ gọt thủy tiên, còn thừa thì đem trồng trong cát, chơi hoa đến hết ngày rằm, đem cắt những bông hoa hãy còn tươi ướp trà tàu rồi sấy cất đi để dành, lúc phởn phơ trong bụng thì lấy ra pha uống, thế thôi.
(7) Ôi chao, cần gì phải trà mộc, cần gì phải nước giếng thanh tân, cứ cầm cái chén quân đưa lên môi và nghĩ rằng hoa thủy tiên này là do vợ mình gọt, trà thủy tiên này là do vợ mình ướp, ấm trà này là do vợ mình pha thì cũng đã thấy ngào ngạt hương tình trong khắp cả cái đêm xuân tĩnh mịch này rồi!
(8) Trầm ở trong chiếc lư đồng vừa lúc đó lụi dần, tỏa ra một mùi thơm nhẹ hòa lẫn với hương trà làm cho cả hai vợ chồng cùng bâng khuâng... Gió lay động cánh màn nơi cửa sổ. Người vợ xõa tóc, đi lại nằm dài trên nệm trắng, mở mắt trong bóng tối nhìn mây bay và nghe thấy hình như ở xa xa có tiếng nhạc từ trên trời rơi xuống.
(9) Khẽ quay mình lại với vợ để cho ấm áp hơn, người chồng hỏi:
- Này mình, có phải mùa này là mùa đào bói quả không?
- Sao tự nhiên anh hỏi vậy?
(10) Người chồng lặng im một lát không nói gì. Ba phút sau, nghe hơi thở, biết là vợ đã ngủ rồi, y nằm yên nhắm mắt và tiếp tục nối lại giấc mộng vừa qua: giấc mộng hoa đào, nước suối.”
(Trích Tháng hai, tương tư hoa đào - Vũ Bằng, theo Thương nhớ mười hai, NXB Hội Nhà văn, 2014)
Thực hiện các yêu cầu:
Câu 1 [706719]: Nhân vật trữ tình trong đoạn trích là ai?
Nhân vật trữ tình trong đoạn trích là “tôi”/ người chồng.
Câu 2 [706720]: Theo đoạn (2), tại sao nhân vật “tôi” lại có cảm nhận thương nhớ kì lạ lắm?
Nhân vật “tôi” cảm thấy thương nhớ kì lạ lắm vì càng cố nhớ lại nét mặt của người thương lại càng cảm thấy lu mờ như thể chìm đắm trong khói sóng; trái lại có những kỉ niệm rất bé nhỏ, rất tầm thường lại hiện ra rõ rệt, không suy suyển một li”.
Câu 3 [706721]: Chỉ ra và nêu tác dụng của sự kết hợp giữa yếu tố tự sự và trữ tình trong đoạn (3).
- Biểu hiện của sự kết hợp giữa yếu tố tự sự và trữ tình trong đoạn (3):
+ Tự sự: kể lại những kỉ niệm với người vợ trước đây.
+ Trữ tình:
• Trực tiếp thể hiện qua các từ ngữ: tôi nhớ..., nhớ..., niềm thương nỗi nhớ, tôi nhớ nhất,...
• Gián tiếp thể hiện qua: những câu văn dài bộc bạch nỗi lòng; giọng điệu tha thiết
- Tác dụng:
• Vừa khơi nhắc lại những kỉ niệm đáng nhớ với người vợ vừa giúp nhân vật trữ tình bộc lộ tình cảm nhớ thương da diết;
• Khiến lời văn sinh động, hấp dẫn.
+ Tự sự: kể lại những kỉ niệm với người vợ trước đây.
+ Trữ tình:
• Trực tiếp thể hiện qua các từ ngữ: tôi nhớ..., nhớ..., niềm thương nỗi nhớ, tôi nhớ nhất,...
• Gián tiếp thể hiện qua: những câu văn dài bộc bạch nỗi lòng; giọng điệu tha thiết
- Tác dụng:
• Vừa khơi nhắc lại những kỉ niệm đáng nhớ với người vợ vừa giúp nhân vật trữ tình bộc lộ tình cảm nhớ thương da diết;
• Khiến lời văn sinh động, hấp dẫn.
Câu 4 [706722]: Nêu tác dụng của phép lặp cấu trúc trong đoạn (7).
- Phép lặp cấu trúc: cần gì phải..., ... là do vợ mình...
- Tác dụng:
+ Góp phần làm cho lời văn trở nên sinh động, hấp dẫn, giàu sức gợi; tạo nên sự hài hoà, đăng đối cho lời văn
+ Điệp khúc:
• cần gì phải...
o phủ nhận sự cần thiết của trà mộc, nước giếng thanh tân - những thành tố cốt yếu cần có trong một cuộc trà;
o từ đó góp phần tô đậm hương vị của thứ trà thuỷ tiên do người vợ tự tay làm ra, thứ trà “ngào ngạt hương tình” bất chấp mọi sự cầu kì, kiểu cách của thú uống trà thông thường.
• ... là do vợ mình...
o tái hiện hình ảnh người vợ đảm đang tháo vát, khéo léo, tinh tế
o khắc sâu nỗi nhớ, tình cảm yêu thương, gắn bó trong nhân vật trữ tình về vợ.
- Tác dụng:
+ Góp phần làm cho lời văn trở nên sinh động, hấp dẫn, giàu sức gợi; tạo nên sự hài hoà, đăng đối cho lời văn
+ Điệp khúc:
• cần gì phải...
o phủ nhận sự cần thiết của trà mộc, nước giếng thanh tân - những thành tố cốt yếu cần có trong một cuộc trà;
o từ đó góp phần tô đậm hương vị của thứ trà thuỷ tiên do người vợ tự tay làm ra, thứ trà “ngào ngạt hương tình” bất chấp mọi sự cầu kì, kiểu cách của thú uống trà thông thường.
• ... là do vợ mình...
o tái hiện hình ảnh người vợ đảm đang tháo vát, khéo léo, tinh tế
o khắc sâu nỗi nhớ, tình cảm yêu thương, gắn bó trong nhân vật trữ tình về vợ.
Câu 5 [706723]: Từ đoạn (1), anh/chị suy nghĩ gì về tác động của chiến tranh đối với cuộc sống đời thường của con người?
Chiến tranh đưa đến những ảnh hưởng, tác động ghê gớm đến cuộc sống đời thường của con người. Nó chia cắt tình thân (mẹ phải lìa con, vợ phải lìa chồng, con phải rời cha); đẩy con người vào trạng thái nhớ thương không dứt;...
II. VIẾT (6,0 điểm)
Câu 6 [706724]: (2,0 điểm)
Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) cảm nhận về cái “tôi” trữ tình trong đoạn trích ở phần Đọc hiểu.
Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) cảm nhận về cái “tôi” trữ tình trong đoạn trích ở phần Đọc hiểu.
Đoạn văn nghị luận cảm nhận về cái “tôi” trữ tình trong đoạn trích từ tuỳ bút Tháng hai, tương tư hoa đào (Vũ Bằng) ở phần Đọc hiểu có thể triển khai theo hướng:
- Vũ Bằng: nhà văn, nhà báo, nhà hoạt động tình báo nổi tiếng. Ông là một trong những cây bút văn xuôi xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại, có sở trường ở thể tuỳ bút với nhiều trang viết giàu cảm xúc, tinh tế, tài hoa.
- Đoạn trích từ Tháng hai, tương tư hoa đào (Vũ Bằng) đã khắc hoạ thành công hình tượng cái “tôi” trữ tình:
+ Bối cảnh nảy sinh tâm trạng nhân vật “tôi”: Do chiến tranh, “tôi” phải xa cách gia đình, xa cách người vợ tào khang ngoài Bắc (Chiến tranh cắt đứt ân tình của hai ta).
+ “Tôi” được khắc hoạ với nhiều đặc điểm:
• Nhạy cảm (Có những đêm không ngủ, nằm nghe tiếng mưa rơi; có lúc tôi cũng bổ một quả vú sữa ra ăn, nhưng ăn thì lại nhớ đến một đêm tháng Hai đã mất;...)
• Giàu tình cảm: nặng lòng với người vợ xa cách, với những kỉ niệm xa xưa (nhớ những buổi tối đi trên con đường Tòa Án ngan ngát mùi hoa sữa, nhớ những đêm trăng hai đứa dắt nhau trên đường Giảng Võ xem chèo, những đêm mưa ngâu, thức dậy thổi một nồi cơm gạo vàng ăn với thịt con gà mái ấp; nhớ nhất một đêm cuối tháng Giêng, đầu hai năm ấy, hai đứa mới quen nhau, cùng ăn chung một quả vú sữa của một người bạn phương Nam gửi ra cho, rồi đánh tam cúc cho tới nửa đêm về sáng...)
+ Tài hoa: thể hiện qua
• Cách lựa chọn những từ ngữ giàu sức gợi hình, gợi cảm (hình ảnh người vợ với hai bờ vai tròn trĩnh; con đường Tòa Án ngan ngát mùi hoa sữa; một mùi thơm nhẹ hòa lẫn với hương trà;...).
• Những câu văn giàu hình ảnh, giàu cảm xúc (Ôi chao, cần gì phải trà mộc, cần gì phải nước giếng thanh tân, cứ cầm cái chén quân đưa lên môi và nghĩ rằng hoa thủy tiên này là do vợ mình gọt, trà thủy tiên này là do vợ mình ướp, ấm trà này là do vợ mình pha thì cũng đã thấy ngào ngạt hương tình trong khắp cả cái đêm xuân tĩnh mịch này rồi!).
- Hình tượng cái “tôi” trữ tình trong đoạn trích ít nhiều phản chiếu hình tượng con người Vũ Bằng trong đời thực, một con người đa tài, giàu tình cảm, đáng yêu, đáng mến và có đời riêng trải qua nhiều thăng trầm, biến động trong thời cuộc.
- Vũ Bằng: nhà văn, nhà báo, nhà hoạt động tình báo nổi tiếng. Ông là một trong những cây bút văn xuôi xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại, có sở trường ở thể tuỳ bút với nhiều trang viết giàu cảm xúc, tinh tế, tài hoa.
- Đoạn trích từ Tháng hai, tương tư hoa đào (Vũ Bằng) đã khắc hoạ thành công hình tượng cái “tôi” trữ tình:
+ Bối cảnh nảy sinh tâm trạng nhân vật “tôi”: Do chiến tranh, “tôi” phải xa cách gia đình, xa cách người vợ tào khang ngoài Bắc (Chiến tranh cắt đứt ân tình của hai ta).
+ “Tôi” được khắc hoạ với nhiều đặc điểm:
• Nhạy cảm (Có những đêm không ngủ, nằm nghe tiếng mưa rơi; có lúc tôi cũng bổ một quả vú sữa ra ăn, nhưng ăn thì lại nhớ đến một đêm tháng Hai đã mất;...)
• Giàu tình cảm: nặng lòng với người vợ xa cách, với những kỉ niệm xa xưa (nhớ những buổi tối đi trên con đường Tòa Án ngan ngát mùi hoa sữa, nhớ những đêm trăng hai đứa dắt nhau trên đường Giảng Võ xem chèo, những đêm mưa ngâu, thức dậy thổi một nồi cơm gạo vàng ăn với thịt con gà mái ấp; nhớ nhất một đêm cuối tháng Giêng, đầu hai năm ấy, hai đứa mới quen nhau, cùng ăn chung một quả vú sữa của một người bạn phương Nam gửi ra cho, rồi đánh tam cúc cho tới nửa đêm về sáng...)
+ Tài hoa: thể hiện qua
• Cách lựa chọn những từ ngữ giàu sức gợi hình, gợi cảm (hình ảnh người vợ với hai bờ vai tròn trĩnh; con đường Tòa Án ngan ngát mùi hoa sữa; một mùi thơm nhẹ hòa lẫn với hương trà;...).
• Những câu văn giàu hình ảnh, giàu cảm xúc (Ôi chao, cần gì phải trà mộc, cần gì phải nước giếng thanh tân, cứ cầm cái chén quân đưa lên môi và nghĩ rằng hoa thủy tiên này là do vợ mình gọt, trà thủy tiên này là do vợ mình ướp, ấm trà này là do vợ mình pha thì cũng đã thấy ngào ngạt hương tình trong khắp cả cái đêm xuân tĩnh mịch này rồi!).
- Hình tượng cái “tôi” trữ tình trong đoạn trích ít nhiều phản chiếu hình tượng con người Vũ Bằng trong đời thực, một con người đa tài, giàu tình cảm, đáng yêu, đáng mến và có đời riêng trải qua nhiều thăng trầm, biến động trong thời cuộc.
Câu 7 [706725]: (4,0 điểm)
Từ đoạn trích ở phần Đọc hiểu, anh/chị hãy viết bài văn (khoảng 600 chữ), trình bày suy nghĩ về ý nghĩa của tình cảm nhớ thương trong xa cách.
Từ đoạn trích ở phần Đọc hiểu, anh/chị hãy viết bài văn (khoảng 600 chữ), trình bày suy nghĩ về ý nghĩa của tình cảm nhớ thương trong xa cách.
Bài văn trình bày suy nghĩ về ý nghĩa của tình cảm nhớ thương trong xa cách có thể triển khai theo nhiều cách, song cần bảo đảm các ý chính:
* Sơ lược về tình cảm nhớ thương trong xa cách được thể hiện qua đoạn trích ở phần Đọc hiểu
- Theo đoạn trích, do chiến tranh, người chồng phải xa người vợ, chồng Nam vợ Bắc.
- Trong xa cách, người chồng khôn nguôi nỗi nhớ vợ, nhớ quê hương Bắc Việt thân thương. Nỗi nhớ được thể hiện qua sự tái hiện thật nhiều kỉ niệm đẹp đẽ của hai vợ chồng.
* Bàn về ý nghĩa của tình cảm nhớ thương trong xa cách
- Nhớ thương là nhớ đến, nghĩ đến (thường trong hoàn cảnh xa cách) với tình cảm yêu thương, tha thiết, man mác đượm buồn. Nhớ thương là một tình cảm đẹp giữa những người có tình cảm yêu thương sâu nặng với nhau (giữa những người yêu nhau, những cặp vợ chồng, giữa bà và cháu, mẹ và con,...) trong tình cảnh chia li/ li biệt.
- Ý nghĩa của tình cảm nhớ thương trong xa cách:
+ Là bằng chứng cho thấy sự khắc ghi/ ghi nhớ của một người với một người; là bằng chứng cho tình cảm đong đầy trong lòng người nhớ; là bằng chứng của tình cảm thuỷ chung, lớn lao của người này dành cho người kia.
+ Nhớ thương là động lực tinh thần đối với cả người nhớ và người được nhớ; nâng đỡ cả hai phía vượt qua trở lực của khoảng cách xa xôi, cách trở; kết nối người với người trong xa cách (nhớ thương gắn kết vợ với chồng, gắn kết những đôi lứa yêu nhau, nâng đỡ họ vượt qua những khó khăn, gian khổ, những trở lực, bất trắc trong cuộc sống, tạo dựng niềm tin đoàn tụ nơi họ).
* Mở rộng
Nhớ thương là một tình cảm đẹp, trong trẻo, thiêng liêng. Trong hoàn cảnh xa xôi, cách trở, thậm chí vĩnh viễn không thể gặp lại, chúng ta cũng không nên đẩy tình cảm này sa vào sầu thương, bi luỵ.
* Rút ra bài học nhận thức và hành động
- Trân trọng một tình cảm đẹp đẽ trong cảm xúc.
- Biết biến nhớ thương thành hành động có ý nghĩa.
* Sơ lược về tình cảm nhớ thương trong xa cách được thể hiện qua đoạn trích ở phần Đọc hiểu
- Theo đoạn trích, do chiến tranh, người chồng phải xa người vợ, chồng Nam vợ Bắc.
- Trong xa cách, người chồng khôn nguôi nỗi nhớ vợ, nhớ quê hương Bắc Việt thân thương. Nỗi nhớ được thể hiện qua sự tái hiện thật nhiều kỉ niệm đẹp đẽ của hai vợ chồng.
* Bàn về ý nghĩa của tình cảm nhớ thương trong xa cách
- Nhớ thương là nhớ đến, nghĩ đến (thường trong hoàn cảnh xa cách) với tình cảm yêu thương, tha thiết, man mác đượm buồn. Nhớ thương là một tình cảm đẹp giữa những người có tình cảm yêu thương sâu nặng với nhau (giữa những người yêu nhau, những cặp vợ chồng, giữa bà và cháu, mẹ và con,...) trong tình cảnh chia li/ li biệt.
- Ý nghĩa của tình cảm nhớ thương trong xa cách:
+ Là bằng chứng cho thấy sự khắc ghi/ ghi nhớ của một người với một người; là bằng chứng cho tình cảm đong đầy trong lòng người nhớ; là bằng chứng của tình cảm thuỷ chung, lớn lao của người này dành cho người kia.
+ Nhớ thương là động lực tinh thần đối với cả người nhớ và người được nhớ; nâng đỡ cả hai phía vượt qua trở lực của khoảng cách xa xôi, cách trở; kết nối người với người trong xa cách (nhớ thương gắn kết vợ với chồng, gắn kết những đôi lứa yêu nhau, nâng đỡ họ vượt qua những khó khăn, gian khổ, những trở lực, bất trắc trong cuộc sống, tạo dựng niềm tin đoàn tụ nơi họ).
* Mở rộng
Nhớ thương là một tình cảm đẹp, trong trẻo, thiêng liêng. Trong hoàn cảnh xa xôi, cách trở, thậm chí vĩnh viễn không thể gặp lại, chúng ta cũng không nên đẩy tình cảm này sa vào sầu thương, bi luỵ.
* Rút ra bài học nhận thức và hành động
- Trân trọng một tình cảm đẹp đẽ trong cảm xúc.
- Biết biến nhớ thương thành hành động có ý nghĩa.