I. ĐỌC HIỂU (4,0 điểm)
Đọc đoạn trích:
Hoàng Cầm sinh ra và lớn lên ở làng Cát Nội, xã Trực Đại , tỉnh Nam Định. Thời sau gia đình chuyển lên sinh sống tại làng Đồi Mây, nay là thị trấn Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc. Tháng 2 năm 1946, anh thanh niên Hoàng Cầm tình nguyện lên đường vào bộ đội chống Pháp. Trước khi vào quân ngũ, Hoàng Cầm có gần một năm đi làm thuê (làm đầu bếp) cho một gia đình ở Hà Nội. Có lẽ vì thế Hoàng Cầm được cử làm chiến sĩ nuôi quân thuộc đơn vị quân y tiền phương sư đoàn 308. Là anh nuôi, Hoàng Cầm luôn tận tâm, tận lực với công việc nấu ăn phục vụ bộ đội nhiều chiến dịch. Qua chiến dịch Hoàng Hoa Thám và chiến dịch Hoà Bình năm 1952, Hoàng Cầm nhận ra chiến tranh ngày càng khốc liệt. Bộ đội ta chiến đấu, hi sinh không chỉ ở mặt trận giáp mặt quân thù mà hi sinh, thương vong ngay cả khi về hậu cứ nghỉ ngơi, sinh hoạt. Nguyên nhân của việc mất mát ấy có một phần do việc nấu ăn. Khói lửa từ những cái bếp nuôi quân bốc lên, máy bay địch phát hiện đã trút bom đạn xuống. Tổ anh nuôi của Hoàng Cầm và nhiều đơn vị khác phòng tránh bằng cách chuyển sang nấu ăn ban đêm, khi máy bay địch tới thì dập lửa, dội nước, nhưng nhiều khi vẫn không tránh kịp tai hoạ. Đang đun, dập lửa, cơm thường bị khê, sống. Nấu ăn ban đêm, ban ngày cơm nguội lạnh. Bộ đội ăn cơm sống, khê, nguội lạnh, không đảm bảo sức khoẻ. Hoàng Cầm nhớ một lần đồng chí thủ trưởng đơn vị nhắc tổ nuôi quân:
- Các đồng chí cố gắng xem có cách nào khắc phục cái bếp. Để anh em thương vong chết chóc ở ngay nơi đóng quân và ăn uống khổ cực là mình có tội với dân, với bộ đội đấy.
Đúng! Để bộ đội chết vì nấu ăn là mình có tội. Hoàng Cầm trăn trở ngày đêm suy nghĩ. Có buổi anh ngồi hàng giờ đồng hồ dưới tán cây rừng quan sát anh em nhóm bếp và đăm đăm nhìn ngọn lửa, nhìn làn khói xanh cuồn cuộn bay lên.
Trong bản tự thuật quá trình mày mò, sáng chế kiểu bếp mới, Hoàng Cầm kể: “Một đêm nằm nghĩ miên man, tôi chợt nhớ đến cách nấu cám lợn ở vùng Nam Định quê tôi. Hồi đó bếp thường đắp bằng đất sét kín chung quanh chỉ để một lỗ thoát hơi phía sau, nên lửa cháy tập trung ít bốc ra ngoài. Nhưng làm thế nào để bếp đun không có khói? Suy nghĩ mãi đến hơn nửa tháng sau tôi mới nghĩ ra cảnh mình từng đi hun chuột ngoài đồng. Đào cửa hang sâu xuống, chất rạ đốt, hầu như khói hút cả vào trong hang. Tôi mừng quá, nếu áp dụng để cải tiến thành bếp nuôi quân kiểu mới sẽ hạn chế được khỏi và lửa bốc cao.”.
Từ cơ sở đó, Hoàng Cầm miệt mài nghiên cứu, vẽ sơ đồ một số kiểu bếp. Ngày ngày anh tranh thủ trưa, tối, có khi cả buổi vác xẻng, đeo xoong nồi, trốn vào rừng đào bếp thử nghiệm. Không biết có thành công hay thất bại, nhưng sợ anh em tốn sức, vất vả, anh giấu kín mọi người. Anh đào hàng chục cái bếp khác nhau, có nhiều nhánh dẫn khói như hang chuột. Làm xong anh đặt nồi lên từng cái bếp chất củi đun thử. Kết quả tạm được, nhưng lửa vẫn lộ, khói ra vẫn phảng phất bay lên. Lại hì hục đào hàng chục cái bếp khác nữa. Lần này Hoàng Cầm đào các đường dẫn khói chẽ ra nhiều nhánh và dài gấp đôi. Trên rãnh dẫn khói rải cành cây rồi đổ đất san phẳng. Phía trước cửa bếp đào một hố sâu, trên lợp ni-lông hoặc lá vừa để đồ, vừa che ánh lửa và có hầm chứa khói, hút lửa mạnh hơn.
Trong bản tự thuật, Hoàng Cầm viết: “Lần này bếp có nhiều ưu điểm, đã giấu kín được ánh lửa, nhưng khói trên ống dẫn vẫn lảng bảng bay lên ngọn cây. Nghĩ mãi, tôi chợt nhớ ngày ở quê, chiều chiều nấu cơm, gặp trời mưa, khói chui qua mái gianh ướt, bốc lên nhè nhẹ như sương mù. Tìm ra rồi, sướng quá, tôi lật hết cành cây khô lát trên đường ống dẫn rồi dùng cây chuối rừng chẻ ra lật lên trên, phủ đất san phẳng và dùng nước tưới đều lên rãnh dẫn khói. Quả nhiên khi đun khói cứ la là toả đều mặt đất, không bốc lên cao nữa...”.”
(Trích Chuyện ông Hoàng Cầm - Minh Chuyên, theo Văn bản đọc hiểu Ngữ văn 11, NXB Đại học Huế, 2023)
Thực hiện các yêu cầu:
Câu 1 [706726]: Đoạn trích được viết theo thể loại nào?
Đoạn trích được viết theo thể loại truyện kí.
Câu 2 [706727]: Chỉ ra yếu tố phi hư cấu trong đoạn trích.
Yếu tố phi hư cấu trong đoạn trích: thể hiện qua tính xác thực về con người và sự kiện
- Con người có thực: Hoàng Cầm.
+ Quê quán: làng Cát Nội, xã Trực Đại, tỉnh Nam Định.
+ Sau gia đình chuyển lên sinh sống tại làng Đồi Mây, nay là thị trấn Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc.
- Sự việc, sự kiện:
+ Trước khi vào quân ngũ, Hoàng Cầm có gần một năm làm đầu bếp ở Hà Nội.
+ Tháng 2 năm 1946, Hoàng Cầm tình nguyện đi bộ đội, được cử làm chiến sĩ nuôi quân sư đoàn 308.
+ Năm 1952, tham gia chiến dịch Hoàng Hoa Thám và chiến dịch Hoà Bình, ông nhận ra một trong những nguyên nhân khiến bộ đội ta mất mát, hi sinh là do việc nấu ăn...
+ Sự kiện Hoàng Cầm tự mày mò, sáng chế kiểu bếp mới, khi đun khói la là trên mặt đất, không bốc lên cao.
Câu 3 [706728]: Đúng! Để bộ đội chết vì nấu ăn là mình có tội. Hoàng Cầm trăn trở ngày đêm suy nghĩ.
Chi tiết khắc hoạ đặc điểm nào trong hình tượng chiến sĩ Hoàng Cầm?
Chi tiết cho thấy tình cảm yêu thương dành cho đồng chí, đồng đội và tinh thần trách nhiệm với nhiệm vụ được giao chiến sĩ Hoàng Cầm.
Câu 4 [706729]: Việc trích dẫn lời tự thuật của Hoàng Cầm trong đoạn trích có ý nghĩa gì?
(Lời tự thuật của Hoàng Cầm được trích dẫn trong đoạn trích:
- “Một đêm nằm nghĩ miên man, tôi chợt nhớ đến cách nấu cám lợn ở vùng Nam Định quê tôi. Hồi đó bếp thường đắp bằng đất sét kín chung quanh chỉ để một lỗ thoát hơi phía sau, nên lửa cháy tập trung ít bốc ra ngoài. Nhưng làm thế nào để bếp đun không có khói? Suy nghĩ mãi đến hơn nửa tháng sau tôi mới nghĩ ra cảnh mình từng đi hun chuột ngoài đồng. Đào cửa hang sâu xuống, chất rạ đốt, hầu như khói hút cả vào trong hang. Tôi mừng quá, nếu áp dụng để cải tiến thành bếp nuôi quân kiểu mới sẽ hạn chế được khỏi và lửa bốc cao.”
- “Lần này bếp có nhiều ưu điểm, đã giấu kín được ánh lửa, nhưng khói trên ống dẫn vẫn lảng bảng bay lên ngọn cây. Nghĩ mãi, tôi chợt nhớ ngày ở quê, chiều chiều nấu cơm, gặp trời mưa, khói chui qua mái gianh ướt, bốc lên nhè nhẹ như sương mù. Tìm ra rồi, sướng quá, tôi lật hết cành cây khô lát trên đường ống dẫn rồi dùng cây chuối rừng chẻ ra lật lên trên, phủ đất san phẳng và dùng nước tưới đều lên rãnh dẫn khói. Quả nhiên khi đun khói cứ la là toả đều mặt đất, không bốc lên cao nữa...”.)
Ý nghĩa của việc trích dẫn lời tự thuật của Hoàng Cầm:
- Tái hiện chân thực những suy nghĩ, trăn trở của Hoàng Cầm trong quá trình nghiên cứu, sáng chế ra loại bếp giấu khói: dựa vào những trải nghiệm, kinh nghiệm nấu bếp ở quê ngày xưa, ông đã liên tục cải tiến các chi tiết chưa đạt để sau cùng tạo nên một loại bếp khi đun khói cứ la là toả đều mặt đất, không bốc lên cao nữa; từ đó, cho thấy tinh thần trách nhiệm của chiến sĩ anh nuôi.
- Góp phần gia tăng tính chân thực cho đoạn trích.
Câu 5 [706730]: Cảm nhận của anh/chị về chủ đề của đoạn trích (trình bày khoảng 5 - 7 dòng).
- Chủ đề của đoạn trích: ngợi ca tinh thần trách nhiệm và trí tuệ của người chiến sĩ anh nuôi Hoàng Cầm.
- Chủ đề của đoạn trích cũng chính là chủ đề cốt lõi của văn học kháng chiến Việt Nam (giai đoạn 1945 - 1975); góp phần thể hiện tính chất anh hùng của cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại.
II. VIẾT (6,0 điểm)
Câu 6 [706731]: (2,0 điểm)
Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) cảm nhận về hình tượng anh nuôi Hoàng Cầm trong đoạn trích ở phần Đọc hiểu.
Đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) cảm nhận hình tượng anh nuôi Hoàng Cầm trong đoạn trích từ Chuyện ông Hoàng Cầm (Minh Chuyên) có thể được triển khai theo hướng:
- Minh Chuyên là người có nhiều đóng góp giá trị cho văn học và điện ảnh Việt Nam với nhiều tác phẩm viết về hậu quả, nỗi đau mà chiến tranh đã để lại trên đất nước ta. Ông có sở trường ở thể loại truyện kí.
- Chuyện ông Hoàng Cầm là một trong những truyện kí đặc sắc của Minh Chuyên. Đoạn trích đã khắc hoạ thành công hình tượng anh nuôi Hoàng Cầm và để lại trong người đọc nhiều cảm mến:
+ Trước hết, đoạn trích cung cấp lai lịch rõ ràng về nhân vật, trong đó thông tin được nhấn mạnh đó là Trước khi vào quân ngũ, Hoàng Cầm có gần một năm đi làm thuê (làm đầu bếp) cho một gia đình ở Hà Nội. Có lẽ vì thế Hoàng Cầm được cử làm chiến sĩ nuôi quân thuộc đơn vị quân y tiền phương sư đoàn 308. Những thông tin này không chỉ tạo nên độ tin cậy cho người đọc mà ít nhiều còn gieo vào trong chúng ta những hình dung vừa bao quát, vừa cụ thể về một người thực việc thực.
+ Trong đoạn trích, nhân vật được đặt trong bối cảnh đặc biệt: Qua chiến dịch Hoàng Hoa Thám và chiến dịch Hoà Bình năm 1952, Hoàng Cầm nhận ra chiến tranh ngày càng khốc liệt. Bộ đội ta chiến đấu, hi sinh không chỉ ở mặt trận giáp mặt quân thù mà hi sinh, thương vong ngay cả khi về hậu cứ nghỉ ngơi, sinh hoạt. Nguyên nhân của việc mất mát ấy có một phần do việc nấu ăn. Thêm nữa, một đồng chí thủ trường đơn vị đã nhắc tổ nuôi quân: “Các đồng chí cố gắng xem có cách nào khắc phục cái bếp. Để anh em thương vong chết chóc ở ngay nơi đóng quân và ăn uống khổ cực là mình có tội với dân, với bộ đội đấy.”. Và những gì mắt thấy tai nghe đã tác động mạnh mẽ đến nhận thức của chiến sĩ nuôi quân: Đúng! Để bộ đội chết vì nấu ăn là mình có tội nên liền sau đó, anh trăn trở ngày đêm để nghĩ về cái bếp có thể giấu lửa, giấu khói.
+ Tiếp đó, hình tượng Hoàng Cầm được tập trung tô đậm qua các chi tiết về lời nói, hành động trong sự kiện sáng chế ra cái bếp giấu khói:
• Những lời tự thuật đã tái hiện một cách chân thực quá trình người lính mày mò, trăn trở, ngẫm ngợi để thiết kế nên cái bếp hạn chế được lửa, khói bốc cao. Những kinh nghiệm tiếp thu được từ việc nấu cám hay hun chuột ngoài đồng ở quê hoặc kinh nghiệm từ việc quan sát khó bếp ngày mưa trước kia được ông vận dụng một cách sáng tạo trong việc sáng chế, cải tiến bếp nuôi quân.
• Cũng qua lời tự thuật của nhân vật, có thể thấy bếp Hoàng Cầm không phải là thành quả một sớm một chiều của chiến sĩ nuôi quân. Nó được nung nấu, thử nghiệm, cải tiến qua nhiều ngày tháng. Bản thân Hoàng Cầm đã hì hục đào hàng chục cái bếp khác nhau để đun thử và kiên nhẫn ngẫm ngợi, cải tiến để dần dần khắc phục những hạn chế của mỗi chiếc bếp thử nghiệm. Theo đó, bên cạnh việc tái hiện nỗi vất vả, chi tiết còn pảhn chiếu đức tính kiên trì, nhẫn nại, không chịu đầu hàng thất bại của người lính.
• Để sáng chế ra thành quả tuyệt vời là cái bếp giấu lửa, giấu khói, Hoàng Cầm đã tranh thủ trưa, tối, có khi cả buổi vác xẻng, đeo xoong nồi, trốn vào rừng đào bếp thử nghiệm. Ông tự mình làm những việc này vì sợ anh em tốn sức, vất vả. Chi tiết nhỏ song đã tô đậm đức tính vị tha, hi sinh cao cả ở nhân vật.
- Trở lên, có thể thấy, những ghi chép về quá trình sáng chế ra chiếc bếp thần kì có thể giấu lửa, giấu khói của chiến sĩ nuôi quân Hoàng Cầm đã khắc hoạ bức chân dung tuyệt đẹp về người lính cụ Hồ: giàu lòng nhân ái, vị tha; giàu tinh thần trách nhiệm khi thực thi nhiệm vụ; sáng tạo trong lao động, chiến đấu; kiên trì, bền bỉ;... Hình tượng anh nuôi Hoàng Cầm trong đoạn trích của Minh Chuyên chính là hình tượng tiêu biểu cho người chiến sĩ trong các cuộc chiến tranh vệ quốc của nhân dân ta.
Câu 7 [706732]: (4,0 điểm)
Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ), trình bày suy nghĩ của anh/chị về vai trò của sự sáng tạo trong cuộc sống.
Bài văn nghị luận trình bày suy nghĩ về vai trò của sự sáng tạo trong cuộc sống có thể triển khai theo nhiều cách, song cần bảo đảm các ý chính:
1. Mở bài (gián tiếp)
- Dẫn dắt vấn đề
- Nêu vấn đề
Ví dụ: Thuở bé thơ, khi đọc những câu chuyện cổ tích hay những câu chuyện trong tập truyện Doreamon, được đắm chìm vào thế giới kì ảo, huyền nhiệm trong đó, tôi luôn ao ước phép màu ấy sẽ hiện hữu trong cuộc đời thực của chúng ta. Lớn lên, tôi được chứng kiến, được trải nghiệm nhiều “phép màu” thú vị: được nói chuyện, nhìn ngắm người thân ngay cả khi cách xa hàng ngàn cây số, được bay trên trời khi đi máy bay,... Và tôi đã nhận ra không phải phép màu huyền diệu mà chính sự sáng tạo của con người đã mang đến những điều tuyệt vời như thế.
2. Thân bài
- Giải thích ngắn gọn “sáng tạo”: tạo ra những giá trị mới về vật chất hoặc tinh thần; tìm ra cái mới, cách giải quyết mới, không bị gò bó, phụ thuộc vào cái đã có.
Một vài biểu hiện của sự sáng tạo: trí tưởng tượng phong phú; có suy nghĩ độc đáo; có cách giải quyết vấn đề mang tính đột phá, tạo nên giá trị;...
- Bàn luận về vai trò của sự sáng tạo trong cuộc sống:
+ Đối với bản thân mỗi người: sự sáng tạo giúp cho mỗi người khám phá, thể hiện được năng lực của bản thân, từ đó khẳng định giá trị sự tồn tại của mỗi người trong cuộc sống; giúp mỗi người giải quyết được các vấn đề đặt ra trong cuộc sống của chính mình, thậm chí có thể nâng đỡ con người vượt qua nhiều trở lực trong hành trình sống; thể hiện khả năng thích nghi của con người trước hoàn cảnh;...
+ Đối với xã hội: các sản phẩm (vật chất hoặc/và tinh thần) có giá trị được tạo ra từ năng lực sáng tạo của con người góp phần phát triển xã hội; những điều mới lạ được mang đến từ sự sáng tạo góp phần mang lại cảm xúc, hứng thú cho con người, cho sự sống, góp phần làm cho cuộc sống trở nên tốt đẹp hơn;... (Thành quả sáng tạo của Edison mang đến cho con người những chiếc bóng điện sáng choang và truyền cho con người cảm hứng về sự kiên trì, không chịu đầu hàng trước thất bại; thành quả sáng tạo của Beethoven mang đến nhân loại bản Sonata Ánh trăng bất hủ cùng những xúc cảm kì diệu đầy lãng mạn; khi Levitan xuất hiện với Mùa thu vàng, vẻ đẹp của mùa thu nước Nga đọng lại mãi trong tâm trí con người; những trang viết không thể trộn lẫn của V.Hugo hay H. Balzac đã khiến nhân loại được sống thêm bao cảnh huống khác trong đời;...); sự sáng tạo mang đến cho nhân loại nhiều trải nghiệm tốt đẹp (từ chiếc điện thoại máy bàn đến chiếc điện thoại di động, từ chiếc điện thoại di động đời đầu mà giờ đây chúng ta gọi là “cục gạch” đến chiếc điện thoại thông minh tích hợp không biết bao nhiêu tiện ích,... thế giới thực sự đang ngày càng có nhiều trải nghiệm hơn nhờ sức sáng tạo vô biên của con người);...
- Để rèn luyện sự sáng tạo, mỗi người nên nuôi dưỡng ước mơ, khao khát bởi mơ ước chính là động lực để mỗi chúng ta “tìm đường”, sáng tạo; chúng ta cũng hãy hình thành cho mình thói quen nghĩ ngược lại, làm khác đi; hãy dám thử sai, dám chấp nhận thất bại để có được những kinh nghiệm và tìm tòi điều mới lạ;...
- Mở rộng:
+ Sản phẩm của sáng tạo không dung nạp những thứ độc lạ kệch cỡm, kì dị, phi văn hóa, phi đạo đức.
+ Sáng tạo cần gắn với việc tạo ra các giá trị hữu ích, góp phần làm cho nhân loại phát triển chứ không đi liền với những sản phẩm gây họa cho con người (chẳng hạn: sự phát triển của trí tuệ nhân tạo (AI) nếu gắn với mục đích không trong sáng chắc chắn sẽ đẩy con người đến những hệ lụy khôn lường).
3. Kết bài
Rút ra bài học nhận thức và hành động

Năng lực sáng tạo có thể được hình thành, phát triển nhờ nỗ lực rèn luyện của mỗi người. Hãy không ngừng sáng tạo để cuộc sống ngày càng trở nên tốt đẹp, thú vị hơn.