I. ĐỌC HIỂU (4,0 điểm)
Đọc đoạn trích:
“Hiểu theo nghĩa rộng, một trong những nhân vật - đồ vật xuất hiện xuyên suốt trong đời sống nhân loại năm 2020 chính là chiếc khẩu trang. Vốn chỉ thông dụng ở những xứ sở ô nhiễm môi trường hay trong những nơi làm việc độc hại, từ khi coronavirus khởi phát ở Vũ Hán (Trung Quốc) rồi trở thành đại dịch, chiếc khẩu trang đồng hành với đời sống con người, từ Đông sang Tây, từ thành phố hoa lệ đến thôn quê hẻo lánh, từ người trẻ trong học đường đến người già trong nhà dưỡng lão... Vượt qua những e ngại và thành kiến ban đầu, nay chiếc khẩu trang đã chinh phục tuyệt đại đa số nhân loại như là một “vị cứu tinh” trong đại dịch Covid-19 , ít nhất là cho đến khi vaccine chủng ngừa căn bệnh này được sử dụng phổ biến trên toàn cầu.
Chiếc khẩu trang trước hết là một sản phẩm y tế, nhằm bảo vệ sức khỏe con người. Đeo khẩu trang là để lập lá chắn bảo vệ bản thân, gia đình và xã hội. Đeo khẩu trang cũng là cách góp phẩn giảm gánh nặng của y, bác sĩ và nhân viên y tế trong tình trạng quá tải của các bệnh viện; cũng như đội nón bảo hiểm không phải vì sợ cảnh sát giao thông phạt tiền mà vì sự an toàn của chính mình và cộng đồng. Đeo khẩu trang cũng phải đúng cách như đội mũ bảo hiểm thì mới hiệu quả. Ở một số điểm du lịch nước ngoài, người ta còn đeo khẩu trang cho các pho tượng danh nhân để khuyến khích du khách làm theo.
Từ một sản phẩm y tế, chiếc khẩu trang trở thành một hiện tượng giao tiếp xã hội. Đeo khẩu trang là một cách thể hiện thái độ ứng xử với tha nhân, với không gian công cộng. Cũng là “mask” như cái mặt nạ trong hội hóa trang, nhưng khẩu trang chỉ che miệng và mũi, vẫn còn để hở đôi mắt, vầng trán, mái tóc để nhận ra một hình ảnh. Người ta vẫn có thể nhận ra nhau qua ánh mắt lấp lánh niềm vui để động viên nhau hay buồn rầu ứa lệ trước cảnh người thân bị cách li, thậm chí lìa đời mà không thể tiễn đưa. Giao tiếp qua trung gian chiếc khẩu trang đòi hỏi những thay đổi nhất định: giọng nói tăng âm, ánh mắt biểu cảm, khoảng cách cần thiết, cử chỉ linh hoạt để thu hút người đối thoại... Cách đeo khẩu trang nói lên tính kỉ luật và ý thức cộng đồng của con người. Người cẩn trọng đeo khẩu trang chỉ chạm vào sợi dây, không chạm vào mặt vải và thay mới hằng ngày; người cẩu thả đeo cho lấy có, dùng một khẩu trang vải nhiều ngày liền mà không giặt sạch. Năm qua nước ta thành công trong chống dịch, ngoài những biện pháp quyết liệt như giãn cách xã hội, cách li tập trung, có phần nhờ nâng cao ý thức cá nhân trong việc sử dụng khẩu trang.
Trong hoạn nạn, chiếc khẩu trang trở thành một hiện tượng văn hóa, thể hiện tình gia đình, tình đồng bào, tình nhân loại. Mỗi khi con bước chân ra khỏi nhà, mẹ luôn nhắc đeo khẩu trang dù con tỏ vẻ khó chịu. Nghe thành phố khan hiếm khẩu trang, một người cha từ quê đem vào cho con cháu một hộp khẩu trang mà vợ chồng ông mua để dành lâu nay. Bạn bè gặp nhau quanh bàn cà-phê, khi về tặng nhau một hộp khẩu trang, thật là thương mến. Công đoàn cơ quan tìm cách liên hệ công ty may mặc mua khẩu trang giá chính thức để phân phối cho đồng nghiệp. Bà con người Việt định cư ở nước ngoài dành thì giờ may khẩu trang tặng người dân sở tại như một cách chia sẻ khó khăn. Khi một địa phương trở thành tâm dịch, ngành y tế các địa phương khác sẵn lòng giúp đỡ bằng cách chi viện đội ngũ y bác sĩ, thuốc men, dụng cụ xét nghiệm và cả khẩu trang. Nước ta là nước đang phát triển, khó khăn đủ bề, nhưng trong đại dịch cũng cố gắng gửi sang các nước láng giềng, các đối tác - cường quốc những kiện khẩu trang như món quà thiết thực để bày tỏ tình liên đới.”
(Trích Chiếc khẩu trang - Huỳnh Như Phương, theo vanvn.vn)
Thực hiện các yêu cầu:
Câu 1 [705631]: Đoạn trích gồm mấy phần? Nêu nội dung chính của từng phần.
Đoạn trích gồm bốn phần:
- Phần thứ nhất (từ đầu đến sử dụng phổ biến trên toàn cầu): Khẩu trang - một vật dụng đồng hành với đời sống con người từ sau đại dịch Covid-19.
- Phần thứ hai (tiếp đến khuyến khích du khách làm theo): chiếc khẩu trang - một sản phẩm y tế.
- Phần thứ ba (tiếp đến trong việc sử dụng khẩu trang): chiếc khẩu trang - một hiện tượng giao tiếp xã hội.
- Phần thứ tư (còn lại): chiếc khẩu trang - một hiện tượng văn hóa.
Câu 2 [705632]: Trong đoạn trích, tác giả đã minh hoạ cho ý kiến cách đeo khẩu trang nói lên tính kỉ luật và ý thức cộng đồng của con người bằng các dẫn chứng nào?
Trong đoạn trích, tác giả đã minh hoạ cho ý kiến cách đeo khẩu trang nói lên tính kỉ luật và ý thức cộng đồng của con người bằng các dẫn chứng: Người cẩn trọng đeo khẩu trang chỉ chạm vào sợi dây, không chạm vào mặt vải và thay mới hằng ngày; người cẩu thả đeo cho lấy có, dùng một khẩu trang vải nhiều ngày liền mà không giặt sạch.
Câu 3 [705633]: Ở một số điểm du lịch nước ngoài, người ta còn đeo khẩu trang cho các pho tượng danh nhân để khuyến khích du khách làm theo.
Chi tiết trên có ý nghĩa gì?
Ý nghĩa của chi tiết trên:
- Cung cấp thông tin thú vị về một cách tuyên truyền, giáo dục ý thức đeo khẩu trang nơi công cộng ở một số điểm du lịch nước ngoài.
- Lan tỏa thông điệp về sự cần thiết của việc đeo khẩu trang để bảo vệ sức khỏe con người.
Câu 4 [705634]: Phân tích sự kết hợp giữa tự sự và trữ tình trong đoạn văn cuối của đoạn trích.
- Sự kết hợp giữa tự sự và trữ tình trong đoạn văn cuối của đoạn trích:
+ Tự sự: thể hiện qua các chi tiết, sự việc như bà mẹ nhắc con đeo khẩu trang mỗi khi con bước chân ra khỏi nhà, một người cha từ quê đem vào cho con cháu một hộp khẩu trang; bạn bè gặp nhau khi về tặng nhau một hộp khẩu trang; công đoàn cơ quan liên hệ công ty may mặc mua khẩu trang giá chính thức để phân phối cho đồng nghiệp; bà con người Việt định cư ở nước ngoài may khẩu trang tặng người dân sở tại; ngành y tế các địa phươngchi viện đội ngũ y bác sĩ, thuốc men, dụng cụ xét nghiệm và cả khẩu trang; nước ta gửi sang các nước láng giềng, các đối tác những kiện khẩu trang trong đại dịch.
+ Trữ tình: thể hiện qua câu văn khẳng định trong đó nhấn mạnh các tình cảm đẹp đẽ, lớn lao giữa người với người (Trong hoạn nạn, chiếc khẩu trang trở thành một hiện tượng văn hóa, thể hiện tình gia đình, tình đồng bào, tình nhân loại.); qua giọng điệu đầy thương mến, cảm động trước bao nghĩa cử của con người trong đại dịch. - Tác dụng:
+ Sự kết hợp giữa tự sự và trữ tình vừa nêu lên những minh chứng xác đáng, thuyết phục cho đoạn văn vừa bộc lộ nỗi xúc động của người viết trước bao tình cảm đẹp đẽ của con người (tình gia đình, tình dân tộc, tình nhân loại) trong đại dịch.
+ Mang lại sức hấp dẫn cho đoạn văn, thể hiện cái nhìn sâu sắc của người viết trước vấn đề đang được đề cập đến.
Câu 5 [705635]: Hiện tại, đại dịch Covid-19 đã được khống chế. Theo anh/ chị chúng ta có cần phải đeo khẩu trang nữa không? Vì sao?
Thí sinh tự do bày tỏ quan điểm của bản thân trước câu hỏi, song cần lí giải ngắn gọn, thuyết phục nguyên do. Chẳng hạn:
- Hiện tại, đại dịch Covid-19 đã được khống chế, song chúng ta vẫn cần đeo khẩu trang mỗi khi ra đường, đến nơi công cộng,... để bảo vệ bản thân khỏi khói bụi trong không khí hay trước các khả năng lây nhiễm các bệnh truyền nhiễm qua đường hô hấp khác (như bệnh cúm, cảm lạnh, viêm phế quản, viêm phổi,...).
Hoặc:
- Hiện tại, đại dịch Covid-19 đã được khống chế, chúng ta không cần phải đeo khẩu trang liên tục như thời gian dịch bệnh hoành hành bởi việc đeo khẩu trang liên tục cũng không tốt (chẳng hạn da mặt dễ bị nhiễm khuẩn khi đeo khẩu trang quá lâu hay chúng ta có thể bị bí thở, khó thơn hơn).
Hoặc:
Đại dịch Covid-19 đã được khống chế song chúng ta vẫn nên đeo khẩu trang khi ra đường hoặc đến những nơi công cộng,... Tuy nhiên, việc đeo khẩu trang cũng không cần thực hiện thường xuyên, liên tục.
Thí sinh kết hợp gợi ý trả lời ở các phương án trả lời trên để lí giải ngắn gọn, thuyết phục lựa chọn này.
II. VIẾT (6,0 điểm)
Câu 6 [705636]: (2,0 điểm)
Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) ghi lại cảm nhận sâu sắc nhất của anh/ chị về hình ảnh chiếc khẩu trang trong đoạn trích ở phần Đọc hiểu.
Đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) cảm nhận sâu sắc nhất của anh/chị về hình ảnh chiếc khẩu trang trong đoạn trích Chiếc khẩu trang (Huỳnh Như Phương) có thể được triển khai theo hướng:
- Trước đại dịch Covid-19, chiếc khẩu trang là một vật phẩm bình thường, không được mấy ai để ý. Song, bất cứ ai đi qua đại dịch Covid-19 đã ít nhiều hình được vai trò, giá trị của chiếc khẩu trang. Bởi thế, chiếc khẩu trang trong trích đoạn tản văn của Huỳnh Như Phương không còn là một vật phẩm bình thường nữa mà đã trở thành đồ vật xuất hiện xuyên suốt trong đời sống nhân loại năm 2020, “vị cứu tinh” trong đại dịch Covid-19.
- Trong đoạn trích, tác giả Huỳnh Như Phương đã đặt chiếc khẩu trang trong rất nhiều bình diện, để khám phá ra thật nhiều ý nghĩa, giá trị của nó. Từ một vật dụng thông dụng ở những xứ sở ô nhiễm môi trường hay những nơi làm việc độc hại, trong đại dịch, khẩu trang đã được nhìn nhận như một sản phẩm y tế, nhằm bảo vệ sức khỏe con người. Và khi đã tham gia vào đời sống với tần suất, mật độ dày đặc, chiếc khẩu trang đã trở thành một hiện tượng giao tiếp xã hội, một cách thể hiện thái độ ứng xử với người khác, với không gian công cộng. Cách đeo khẩu trang là một cách để nhận diện tính cách của con người (Người cẩn trọng đeo khẩu trang chỉ chạm vào sợi dây, không chạm vào mặt vải và thay mới hằng ngày; người cẩu thả đeo cho lấy có, dùng một khẩu trang vải nhiều ngày liền mà không giặt sạch.). Rồi chiếc khẩu trang trở thành hiện tượng văn hóa, thể hiện tình gia đình, tình đồng bào, tình nhân loại, thành vật chứng của những tình cảm đẹp đẽ trong đời sống. Theo đó, qua cái nhìn của người viết, chiếc khẩu trang đã được khám phá, nhìn nhận như một vật phẩm hàm chứa biết bao nhiêu giá trị.
- Chiếc khẩu trang trong đoạn trích tản văn của Huỳnh Như Phương đã mang đến chúng ta thông điệp về giá trị của những vật nhỏ bé, bình thường trong đời sống thường ngày của mỗi con người. Theo đó, mỗi chúng ta hãy trân trọng hết thảy những gì nhỏ bé, giản dị mà hữu ích trong cuộc sống, chẳng cứ bởi chúng có thể làm nên điều gì vĩ đại. Chỉ bởi vì sự tồn tại của chúng mang lại điều tốt đẹp, thiện lành cho sự sống này.
Câu 7 [705637]: (4,0 điểm)
Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ), trình bày suy nghĩ của anh/ chị về câu nói sau đây:Ta sống bằng thứ ta thu được nhưng ta tạo ra cuộc đời bằng thứ ta cho đi. (Winston Churchill)
Bài văn nghị luận trình bày suy nghĩ về câu nói của Winston Churchill: Ta sống bằng thứ ta thu được nhưng ta tạo ra cuộc đời bằng thứ ta cho đi. có thể triển khai theo nhiều cách, song cần bảo đảm các ý chính:
1. Mở bài (gián tiếp)
- Dẫn dắt vấn đề
- Nêu vấn đề
Ví dụ: Sinh thời, nhà thơ Tố Hữu từng viết:
Nếu là con chim chiếc lá
Thì con chim phải hót, chiếc lá phải xanh
Lẽ nào vay mà không có trả
Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình
Những câu thơ luôn khiến tôi nghĩ đến câu nói xác lập một sự sống ý nghĩa của Winston Churchill: Ta sống bằng thứ ta thu được nhưng ta tạo ra cuộc đời bằng thứ ta cho đi.
2. Thân bài
- Giải thích ngắn gọn ý nghĩa câu nói:
+ sống bằng thứ ta thu được:
• Sống là trạng thái sinh tồn, tồn tại của con người và các sự vật.
• Thứ ta thu được: kết quả, thành quả, của cải vật chất có được sau quá trình lao động của con người.
+ Tạo ra cuộc đời bằng thứ ta cho đi: tạo ra cuộc đời trong câu nói này có thể hiểu là khả năng kiến tạo, dựng xây cuộc sống, làm cho cuộc sống trở nên tốt đẹp hơn. Và một trong những cách thức mỗi người có thể tạo ra cuộc đời chính là cho đi.
→ Trong tương quan đối sánh giữa việc ta sống cho bản thân mình và việc ta dựng xây cuộc sống, giữa cái ta thu được và cái ta cho đi, câu nói nhấn mạnh vào vế thứ hai, khẳng định giá trị của việc cho đi, của lối sống vị tha bởi đó là cách làm cho sự sống, sự tồn tại của chúng ta trở nên ý nghĩa.
- Bình luận:
+ Khẳng định ý kiến hoàn toàn xác đáng. Bởi lẽ:
• Bất cứ ai trong chúng ta được sinh ra cũng đều mong muốn một cuộc sống no ấm, đủ đầy, tươi đẹp, hạnh phúc. Để có được cuộc sống như thế, ai trong chúng ta cũng đều phải lao động, thậm chí lao động hăng say, tạo ra của cải vật chất và chính những của cải vật chất ấy sẽ nuôi sống bản thân mỗi chúng ta, nuôi sống gia đình ta. Những thứ ta làm ra làm cho cuộc sống của chính chúng ta trở nên đủ đầy, no ấm, tốt đẹp. Đây là cách mỗi người sống cho chính mình.
• Song, mỗi chúng ta không tồn tại đơn lẻ trong cuộc đời, chúng ta không thể tách rời cộng đồng xã hội. Hẳn nhiên, khi sống giữa cộng đồng xã hội, mỗi người không thể chỉ biết đến bản thân mình, quanh co lo lắng cho riêng mình. Chúng ta có trách nhiệm xây đắp cho cộng đồng ấy, làm cho cộng đồng ấy trở nên tốt đẹp; chúng ta có trách nhiệm chia sẻ với những người khác, đặc biệt là những người kém may mắn hơn ta. Việc cho đi, những thứ chúng ta cho đi sẽ góp phần kiến tạo, dựng xây nên một cuộc đời đẹp đẽ, giàu tình yêu thương hơn (Khi bạn trao tặng một cuốn sách, sẽ có thêm một người được tiếp cận những điều tuyệt vời cuốn sách mang đến.; Khi bạn cho đi một chiếc áo lành, sẽ có một người bớt phải co ro trong gió lạnh.; Khi bạn chia sẻ với đồng bào lũ lụt một thùng mì tôm, một túi lương khô, một món tiền nhỏ,... sẽ có thêm một vài người bớt đói lạnh, tủi thân,...). Theo đó, một xã hội văn minh cũng sẽ được hình thành và trường tồn.
Khi cho đi, ta không chỉ góp phần tạo dựng cuộc sống đẹp đẽ cho cộng đồng mà còn kiến tạo cuộc đời đẹp đẽ cho chính chúng ta: khi cho đi, ta sẽ luôn cảm thấy vui vẻ, hạnh phúc; ta sẽ được nhận lại tình cảm yêu mến của mọi người;...
- Mở rộng: Để có thể cho đi, ta phải có cái thu được. Ta không thể cho đi nếu ta chẳng có gì trong tay. Bởi lẽ đó, tiếp thu câu nói của Churchill, chúng ta cần biết “quân bình” cả hai vế: nỗ lực không ngừng để tạo ra của cải vật chất, làm cho mình có một cuộc sống tốt đẹp, sống một cuộc sống xứng đáng với cố gắng của bản thân nhưng cuộc sống ấy chỉ thực sự có ý nghĩa khi ta còn biết sống vì, sống cho người khác.
3. Kết bài
Rút ra bài học nhận thức và hành động