I. ĐỌC HIỂU (4,0 điểm)
Đọc đoạn trích:
“(1) Thổ cẩm của người Ê Đê thể hiện sự sáng tạo, có nghệ thuật tạo hình tinh tế. Để làm nên tấm thổ cẩm, trước hết phải có nguyên liệu dệt là bông gòn (tiếng Ê Đê gọi là blang). Bông sau khi thu hoạch được đánh tơi, kéo sợi rồi được nhuộm mầu bằng bùn, lá, củ, rễ hoặc vỏ cây rừng. Khi đã có những sợi chỉ mầu như ý sẽ đưa lên khung, bện sợi và dệt, tạo hình hoa văn.
(2) Trước kia, thổ cẩm Ê Đê có hai tông mầu chủ đạo là đen và đỏ. Ngày nay, sắc màu thổ cẩm có năm mầu cơ bản gồm: hrah (đỏ), yadu (đen), cakni (vàng), apiek (xanh) và kỗ (trắng), đôi khi có cả mầu xanh lục nhưng rất hiếm. Để tạo nên sắc mầu chủ đạo trên thổ cẩm, phụ nữ Ê Đê tìm nguyên liệu tạo mầu từ các loại lá, rễ cây rừng. Vào tháng 7 hằng năm, người Ê Đê vào rừng hái lá krum già để làm thuốc nhuộm, sau đó phơi vỏ ốc suối, nung lên, ngâm thành vôi rồi trộn với nước lá krum. Sợi nhuộm hỗn hợp này có mầu xanh. Nếu thêm vào hỗn hợp này nước lá knung giã nhỏ, nấu trong nồi chàm sẽ cho ra chất sợi mầu đen bóng mịn, giặt không phai, phơi nắng không bay mầu. Mầu đỏ được tạo từ loại vỏ cây krung già giã ra, nấu lên; mầu đỏ trên thổ cẩm Ê Đê chỉ đậm hơn mầu đất nung một chút. Sản phẩm dệt mầu đỏ được coi trọng hơn hết, những tấm thổ cẩm đỏ thường dùng để trang trí trong các lễ hội, những buổi cúng Yàng chứ không được cắt may thành những món đồ gia dụng.
(3) Khung dệt của người Ê Đê là kiểu khung dệt Indonesien. Hình thức dệt vải của người Ê Đê được các nhà dân tộc học gọi là kĩ thuật đan luồn sợi. Để tạo hình hoa văn, người dệt sẽ thiết kế bố cục, kích cỡ họa tiết từ khi bắt đầu lên khung, nhặt sợi. Mỗi loại hoa văn có số sợi dọc, sợi ngang, cách nâng và hạ sợi khác nhau, khi dệt sẽ tạo thành các dải họa tiết nối tiếp nhau chạy dài theo chiều dọc khổ vải. Trong quá trình xếp sợi, người dệt sẽ phối mầu xen kẽ như đỏ - đen, đen - vàng, đỏ - chàm sẫm để khi dệt sẽ có những dải hoa văn nổi bật, tạo điểm nhấn cho trang phục.
(4) Thông thường, trên một khổ vải rộng khoảng 0,9m, người Ê Đê tạo những đường viền (diềm) nhỏ ở hai đầu biên vải. Phần hoa văn chính tập trung cách biên, khoảng 20 đến 30 cm và một số đường trang trí nhỏ chạy giữa thân vải. Dải hoa văn thường chiếm diện tích từ 1/4 đến 1/3 bề mặt tấm thổ cẩm, gồm những chuỗi họa tiết như cỏ, cây, hoa, lá, chim muông, cầm thú... được cách điệu dưới dạng hình học chạy dài liên tục suốt chiều dài.
(5) Ngoài ra, còn có các loại đường thẳng, đường dích dắc, cong, gãy song song theo dải hoa văn. Tùy vào mỗi loại trang phục, người Ê Đê sẽ có cách trang trí và sắp xếp hoa văn khác nhau. Hoa văn trang phục nam nữ, trang phục hằng ngày và dùng trong các dịp lễ đều khác nhau. Thậm chí, hoa văn trên trang phục còn thể hiện sự giàu có và quyền uy của người mặc.
(6) Theo các nhà nghiên cứu, người Ê Đê chọn tông mầu đen hoặc chàm sẫm làm mầu nền chủ đạo trên thổ cẩm, vì họ muốn hòa mình vào thiên nhiên với nương rẫy, núi rừng, nơi họ sinh sống. Nổi trên nền tối đó là những dải mầu tương phản như đỏ, vàng, nhưng do độ mảnh mai của các đường diềm, nên sự tương phản trở nên khá chìm lắng.”
Thực hiện các yêu cầu:
“(1) Thổ cẩm của người Ê Đê thể hiện sự sáng tạo, có nghệ thuật tạo hình tinh tế. Để làm nên tấm thổ cẩm, trước hết phải có nguyên liệu dệt là bông gòn (tiếng Ê Đê gọi là blang). Bông sau khi thu hoạch được đánh tơi, kéo sợi rồi được nhuộm mầu bằng bùn, lá, củ, rễ hoặc vỏ cây rừng. Khi đã có những sợi chỉ mầu như ý sẽ đưa lên khung, bện sợi và dệt, tạo hình hoa văn.
(2) Trước kia, thổ cẩm Ê Đê có hai tông mầu chủ đạo là đen và đỏ. Ngày nay, sắc màu thổ cẩm có năm mầu cơ bản gồm: hrah (đỏ), yadu (đen), cakni (vàng), apiek (xanh) và kỗ (trắng), đôi khi có cả mầu xanh lục nhưng rất hiếm. Để tạo nên sắc mầu chủ đạo trên thổ cẩm, phụ nữ Ê Đê tìm nguyên liệu tạo mầu từ các loại lá, rễ cây rừng. Vào tháng 7 hằng năm, người Ê Đê vào rừng hái lá krum già để làm thuốc nhuộm, sau đó phơi vỏ ốc suối, nung lên, ngâm thành vôi rồi trộn với nước lá krum. Sợi nhuộm hỗn hợp này có mầu xanh. Nếu thêm vào hỗn hợp này nước lá knung giã nhỏ, nấu trong nồi chàm sẽ cho ra chất sợi mầu đen bóng mịn, giặt không phai, phơi nắng không bay mầu. Mầu đỏ được tạo từ loại vỏ cây krung già giã ra, nấu lên; mầu đỏ trên thổ cẩm Ê Đê chỉ đậm hơn mầu đất nung một chút. Sản phẩm dệt mầu đỏ được coi trọng hơn hết, những tấm thổ cẩm đỏ thường dùng để trang trí trong các lễ hội, những buổi cúng Yàng chứ không được cắt may thành những món đồ gia dụng.
(3) Khung dệt của người Ê Đê là kiểu khung dệt Indonesien. Hình thức dệt vải của người Ê Đê được các nhà dân tộc học gọi là kĩ thuật đan luồn sợi. Để tạo hình hoa văn, người dệt sẽ thiết kế bố cục, kích cỡ họa tiết từ khi bắt đầu lên khung, nhặt sợi. Mỗi loại hoa văn có số sợi dọc, sợi ngang, cách nâng và hạ sợi khác nhau, khi dệt sẽ tạo thành các dải họa tiết nối tiếp nhau chạy dài theo chiều dọc khổ vải. Trong quá trình xếp sợi, người dệt sẽ phối mầu xen kẽ như đỏ - đen, đen - vàng, đỏ - chàm sẫm để khi dệt sẽ có những dải hoa văn nổi bật, tạo điểm nhấn cho trang phục.
(4) Thông thường, trên một khổ vải rộng khoảng 0,9m, người Ê Đê tạo những đường viền (diềm) nhỏ ở hai đầu biên vải. Phần hoa văn chính tập trung cách biên, khoảng 20 đến 30 cm và một số đường trang trí nhỏ chạy giữa thân vải. Dải hoa văn thường chiếm diện tích từ 1/4 đến 1/3 bề mặt tấm thổ cẩm, gồm những chuỗi họa tiết như cỏ, cây, hoa, lá, chim muông, cầm thú... được cách điệu dưới dạng hình học chạy dài liên tục suốt chiều dài.
(5) Ngoài ra, còn có các loại đường thẳng, đường dích dắc, cong, gãy song song theo dải hoa văn. Tùy vào mỗi loại trang phục, người Ê Đê sẽ có cách trang trí và sắp xếp hoa văn khác nhau. Hoa văn trang phục nam nữ, trang phục hằng ngày và dùng trong các dịp lễ đều khác nhau. Thậm chí, hoa văn trên trang phục còn thể hiện sự giàu có và quyền uy của người mặc.
(6) Theo các nhà nghiên cứu, người Ê Đê chọn tông mầu đen hoặc chàm sẫm làm mầu nền chủ đạo trên thổ cẩm, vì họ muốn hòa mình vào thiên nhiên với nương rẫy, núi rừng, nơi họ sinh sống. Nổi trên nền tối đó là những dải mầu tương phản như đỏ, vàng, nhưng do độ mảnh mai của các đường diềm, nên sự tương phản trở nên khá chìm lắng.”
(Trích Nghệ thuật tạo hình trên thổ cẩm Ê Đê - Nguyễn Công Lý, theo nhandan.vn)
Thực hiện các yêu cầu:
Câu 1 [701514]: Đoạn trích viết về đề tài nào? Chỉ ra bố cục của đoạn trích.
- Đoạn trích viết về đề tài: Nghề dệt thổ cẩm của người Ê Đê.
- Bố cục của đoạn trích:
+ Nguyên liệu của nghề dệt thổ cẩm (đoạn 1)
+ Cách tạo màu trên thổ cẩm của người Ê Đê (đoạn 2)
+ Khung dệt và tạo hình hoa văn trên thổ cẩm Ê Đê (đoạn 3 - 4 - 5)
+ Ý nghĩa tông màu trên thổ cẩm của người Ê Đê (đoạn 6)
- Bố cục của đoạn trích:
+ Nguyên liệu của nghề dệt thổ cẩm (đoạn 1)
+ Cách tạo màu trên thổ cẩm của người Ê Đê (đoạn 2)
+ Khung dệt và tạo hình hoa văn trên thổ cẩm Ê Đê (đoạn 3 - 4 - 5)
+ Ý nghĩa tông màu trên thổ cẩm của người Ê Đê (đoạn 6)
Câu 2 [701515]: Theo đoạn trích, vì sao người Ê Đê chọn tông mầu đen hoặc chàm sẫm làm mầu nền chủ đạo trên thổ cẩm?
Theo đoạn trích, người Ê Đê chọn tông mầu đen hoặc chàm sẫm làm mầu nền chủ đạo trên thổ cẩm vì họ muốn hòa mình vào thiên nhiên với nương rẫy, núi rừng, nơi họ sinh sống.
Câu 3 [701516]: Nêu tác dụng của phương thức biểu đạt thuyết minh được sử dụng trong đoạn (3).
- Phương thức biểu đạt thuyết minh trong đoạn (3):
+ Giới thiệu kiểu khung dệt của người Ê Đê
+ Giới thiệu cách tạo hình hoa văn trên thổ cẩm của người Ê Đê
- Tác dụng của phương thức biểu đạt thuyết minh được sử dụng trong đoạn (3):
+ Cung cấp tri thức về kiểu khung dệt và cách tạo hình hoa văn trên thổ cẩm của người Ê Đê
+ Thể hiện vốn hiểu biết, sự tìm hiểu kĩ lưỡng của người viết về nghề dệt thổ cẩm của người Ê Đê nói chung và về kiểu khung dệt, cách tạo hình hoa văn trên thổ cẩm Ê Đê
+ Giới thiệu kiểu khung dệt của người Ê Đê
+ Giới thiệu cách tạo hình hoa văn trên thổ cẩm của người Ê Đê
- Tác dụng của phương thức biểu đạt thuyết minh được sử dụng trong đoạn (3):
+ Cung cấp tri thức về kiểu khung dệt và cách tạo hình hoa văn trên thổ cẩm của người Ê Đê
+ Thể hiện vốn hiểu biết, sự tìm hiểu kĩ lưỡng của người viết về nghề dệt thổ cẩm của người Ê Đê nói chung và về kiểu khung dệt, cách tạo hình hoa văn trên thổ cẩm Ê Đê
Câu 4 [701517]: - Trong quá trình xếp sợi, người dệt sẽ phối mầu xen kẽ như đỏ - đen, đen - vàng, đỏ - chàm sẫm để khi dệt sẽ có những dải hoa văn nổi bật, tạo điểm nhấn cho trang phục.
- Ngoài ra, còn có các loại đường thẳng, đường dích dắc, cong, gãy song song theo dải hoa văn.
- Nổi trên nền tối đó là những dải mầu tương phản như đỏ, vàng, nhưng do độ mảnh mai của các đường diềm, nên sự tương phản trở nên khá chìm lắng.
Các chi tiết trên cho anh/chị hiểu gì về những người dệt thổ cẩm?
- Ngoài ra, còn có các loại đường thẳng, đường dích dắc, cong, gãy song song theo dải hoa văn.
- Nổi trên nền tối đó là những dải mầu tương phản như đỏ, vàng, nhưng do độ mảnh mai của các đường diềm, nên sự tương phản trở nên khá chìm lắng.
Các chi tiết trên cho anh/chị hiểu gì về những người dệt thổ cẩm?
- Trong quá trình xếp sợi, người dệt sẽ phối mầu xen kẽ như đỏ - đen, đen - vàng, đỏ - chàm sẫm để khi dệt sẽ có những dải hoa văn nổi bật, tạo điểm nhấn cho trang phục.
- Ngoài ra, còn có các loại đường thẳng, đường dích dắc, cong, gãy song song theo dải hoa văn.
- Nổi trên nền tối đó là những dải mầu tương phản như đỏ, vàng, nhưng do độ mảnh mai của các đường diềm, nên sự tương phản trở nên khá chìm lắng.
Các chi tiết trên cho thấy sự khéo léo, tài hoa, tinh tế, kĩ lưỡng, chỉn chu,... của những người dệt thổ cẩm trong quá trình dệt vải.
- Ngoài ra, còn có các loại đường thẳng, đường dích dắc, cong, gãy song song theo dải hoa văn.
- Nổi trên nền tối đó là những dải mầu tương phản như đỏ, vàng, nhưng do độ mảnh mai của các đường diềm, nên sự tương phản trở nên khá chìm lắng.
Các chi tiết trên cho thấy sự khéo léo, tài hoa, tinh tế, kĩ lưỡng, chỉn chu,... của những người dệt thổ cẩm trong quá trình dệt vải.
Câu 5 [701518]: Từ chi tiết hoa văn trên trang phục còn thể hiện sự giàu có và quyền uy của người mặc anh/chị có đồng tình với ý kiến cho rằng: Trang phục làm nên giá trị của con người không? Vì sao?
Thí sinh tự do bày tỏ quan điểm về ý kiến cho rằng “Trang phục làm nên giá trị của con người”, tuy nhiên, cần có lí giải hợp lí, thuyết phục. Chẳng hạn:
- Đồng tình với ý kiến.
- Bởi lẽ trang phục nói riêng và hình thức bề ngoài nói chung là một trong những phương diện góp phần phản ánh con người (xuất thân, hoàn cảnh, học thức, văn hoá,...). Trong đó, văn hoá là yếu tố cốt lõi làm nên giá trị của một con người. Người có văn hoá sẽ biết lựa chọn trang phục phù hợp với bản thân và bối cảnh.
- Đồng tình với ý kiến.
- Bởi lẽ trang phục nói riêng và hình thức bề ngoài nói chung là một trong những phương diện góp phần phản ánh con người (xuất thân, hoàn cảnh, học thức, văn hoá,...). Trong đó, văn hoá là yếu tố cốt lõi làm nên giá trị của một con người. Người có văn hoá sẽ biết lựa chọn trang phục phù hợp với bản thân và bối cảnh.
II. VIẾT (6,0 điểm)
Câu 6 [701519]: (2,0 điểm)
Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/ chị về sự cần thiết phải gìn giữ các giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc.
Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/ chị về sự cần thiết phải gìn giữ các giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc.
Đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ về sự cần thiết phải gìn giữ các giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc có thể được triển khai theo theo hướng:
- Phải gìn giữ các giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc vì đó là thành tố tạo nên bản sắc của dân tộc; là cách bộc lộ lòng yêu nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc. (Dẫn chứng: áo dài - một nét đẹp truyền thống và biểu tượng tinh hoa trong văn hóa của dân tộc Việt; phong tục gói bánh chưng, đi chùa đầu năm trong dịp Tết Nguyên Đán; dân ca quan họ Bắc Ninh...)
- Phải gìn giữ các giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc để có thể hoà nhập nhưng không hoà tan trong bối cảnh các quốc gia không ngừng mở rộng giao lưu văn hoá quốc tế. (Dẫn chứng: đàn bầu, đàn tranh và sáo trúc được sử dụng trong các buổi hòa nhạc quốc tế; cộng đồng người Việt ở nước ngoài thường tổ chức Tết Nguyên Đán, Tết trung thu hay lễ Vu Lan để giữ gìn văn hóa cội nguồn...)
- Phải gìn giữ các giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc vì đó là thành tố tạo nên bản sắc của dân tộc; là cách bộc lộ lòng yêu nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc. (Dẫn chứng: áo dài - một nét đẹp truyền thống và biểu tượng tinh hoa trong văn hóa của dân tộc Việt; phong tục gói bánh chưng, đi chùa đầu năm trong dịp Tết Nguyên Đán; dân ca quan họ Bắc Ninh...)
- Phải gìn giữ các giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc để có thể hoà nhập nhưng không hoà tan trong bối cảnh các quốc gia không ngừng mở rộng giao lưu văn hoá quốc tế. (Dẫn chứng: đàn bầu, đàn tranh và sáo trúc được sử dụng trong các buổi hòa nhạc quốc tế; cộng đồng người Việt ở nước ngoài thường tổ chức Tết Nguyên Đán, Tết trung thu hay lễ Vu Lan để giữ gìn văn hóa cội nguồn...)
Câu 7 [701520]: (4,0 điểm)
Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ), phân tích hình tượng người lính đảo trong bài thơ sau:
Bóng đen sẫm như gốc cây khô cháy
Mắt đăm đăm nhìn về nơi ấy
Nơi cơn mưa thăm thẳm xa khơi
Ánh chớp xanh lấp loáng phía chân trời...
Ôi ước gì được thấy mưa rơi
Mặt chúng tôi ngửa lên như đất
Những màu mây sẽ thôi không héo quắt
Đá san hô sẽ nảy cỏ xanh lên
Đảo xa khơi sẽ hóa đất liền
Chúng tôi không cạo đầu, để tóc lên như cỏ
Rồi kháo nhau
Bữa tiệc linh đình bày toàn nước ngọt
Ôi, ước gì được thấy mưa rơi
Cơn mưa lớn vẫn rập rình ngoài biển
Ánh chớp xanh vẫn lấp loáng phía chân trời...
Ôi, ước gì được thấy mưa rơi
Chúng tôi sẽ trụi trần nhảy choi choi trên mặt cát
Giãy giụa tơi bời trên mặt cát
Như con cá rô rạch nước đón mưa rào
Úp miệng vào tay, chúng tôi sẽ cùng gào
Như ếch nhái uôm uôm khắp đảo
Mưa đi! Mưa đi! Mưa cho táo bạo
Mưa như chưa bao giờ mưa, sấm sét đùng đùng
Nhưng làm sao mưa cứ ngại ngùng
Chập chờn bay phía xa khơi...
[...]
Một hạt nhỏ thôi cát cũng dịu đi nhiều...
Ôi hòn đảo Sinh Tồn, hòn đảo thân yêu
Dẫu chẳng có mưa, chúng tôi vẫn sinh tồn trên mặt đảo
Đảo vẫn sinh tồn trên đại dương đầy gió bãoChúng tôi như hòn đá ngàn năm trong nhịp đập trái tim người
Như đá vững bền, như đá tốt tươi...
[...]
Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ), phân tích hình tượng người lính đảo trong bài thơ sau:
ĐỢI MƯA TRÊN ĐẢO SINH TỒN
(Trần Đăng Khoa)
Chúng tôi ngồi trên đảo Sinh TồnBóng đen sẫm như gốc cây khô cháy
Mắt đăm đăm nhìn về nơi ấy
Nơi cơn mưa thăm thẳm xa khơi
Ánh chớp xanh lấp loáng phía chân trời...
Ôi ước gì được thấy mưa rơi
Mặt chúng tôi ngửa lên như đất
Những màu mây sẽ thôi không héo quắt
Đá san hô sẽ nảy cỏ xanh lên
Đảo xa khơi sẽ hóa đất liền
Chúng tôi không cạo đầu, để tóc lên như cỏ
Rồi kháo nhau
Bữa tiệc linh đình bày toàn nước ngọt
Ôi, ước gì được thấy mưa rơi
Cơn mưa lớn vẫn rập rình ngoài biển
Ánh chớp xanh vẫn lấp loáng phía chân trời...
Ôi, ước gì được thấy mưa rơi
Chúng tôi sẽ trụi trần nhảy choi choi trên mặt cát
Giãy giụa tơi bời trên mặt cát
Như con cá rô rạch nước đón mưa rào
Úp miệng vào tay, chúng tôi sẽ cùng gào
Như ếch nhái uôm uôm khắp đảo
Mưa đi! Mưa đi! Mưa cho táo bạo
Mưa như chưa bao giờ mưa, sấm sét đùng đùng
Nhưng làm sao mưa cứ ngại ngùng
Chập chờn bay phía xa khơi...
[...]
Một hạt nhỏ thôi cát cũng dịu đi nhiều...
Ôi hòn đảo Sinh Tồn, hòn đảo thân yêu
Dẫu chẳng có mưa, chúng tôi vẫn sinh tồn trên mặt đảo
Đảo vẫn sinh tồn trên đại dương đầy gió bãoChúng tôi như hòn đá ngàn năm trong nhịp đập trái tim người
Như đá vững bền, như đá tốt tươi...
[...]
1982
(Theo Tuyển thơ - Trần Đăng Khoa, NXB Văn học, Hà Nội, 2016)
Bài văn phân tích hình tượng người lính đảo trong bài thơ Đợi mưa trên đảo Sinh Tồn (Trần Đăng Khoa) có thể triển khai theo nhiều cách, song cần bảo đảm các ý chính:
* Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm
- Trần Đăng Khoa là một trong những cây bút lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại; có nhiều sáng tác đặc sắc viết về đề tài biển đảo quê hương, như: Lính đảo hát tình ca trên đảo, Đồng đội tôi trên đảo Thuyền Chài, Thơ tình người lính biển,...
- Bài thơ Đợi mưa trên đảo Sinh Tồn được viết năm 1982, là một trong những thi phẩm tiêu biểu cho đề tài biển đảo của Trần Đăng Khoa.
* Phân tích hình tượng người lính đảo trong bài thơ Đợi mưa trên đảo Sinh Tồn
- Người lính với điều kiện sống vô cùng khắc nghiệt, thiếu thốn: đảo Sinh Tồn những năm 1980 rất khan hiếm nước ngọt (Bóng đen sẫm như gốc cây khô cháy)
- Người lính được khắc hoạ với những chi tiết tuyệt đẹp:
+ Khao khát, kiên trì đón đợi mưa rơi (Ôi ước gì được thấy mưa rơi, Mưa đi! Mưa đi! Mưa cho táo bạo)
+ Trẻ trung, tinh nghịch, yêu đời (Chúng tôi sẽ trụi trần nhảy choi choi trên mặt cát, Giãy giụa tơi bời trên mặt cát)
+ Kiên cường, bất khuất (Chúng tôi như hòn đá ngàn năm trong nhịp đập trái tim người)
* Đánh giá chung
- Trong bài thơ, người lính hiện lên tuyệt đẹp với những phẩm chất sáng ngời: anh dũng, kiên cường; lạc quan, hóm hỉnh; thuỷ chung với lí tưởng chiến đấu;...
- Với thi phẩm, Trần Đăng Khoa đã bộc lộ tình yêu, lòng ngưỡng mộ và thái độ ngợi ca sâu sắc trước các chiến sĩ nơi hải đảo xa xôi.
- Bài thơ lan thấm vào người đọc tình yêu các chiến sĩ hải quân và thức dậy trong chúng ta tinh thần trách nhiệm với biển đảo quê hương.
Tham khảo bài viết:
“Ba mươi năm đối với một đời người không dài nhưng với sự tồn tại của một bài thơ là cả một vấn đề. “Đợi mưa trên đảo Sinh Tồn” (1982) của Trần Đăng Khoa được biết đến trong khoảng thời gian như thế, nhưng đến hôm nay thi phẩm vẫn còn nguyên nét mới mẻ, hiện đại:
Chúng tôi ngồi trên đảo Sinh Tồn
Bóng đen sẫm như khúc cây khô cháy
...
Để bao giờ cánh lính chúng tôi
Cũng có một niềm vui đón đợi
Trần Đăng Khoa là một nhà văn đồng thời cũng là người lính biển, người cầm súng có mặt rất sớm ở Trường Sa – “cái giọt máu thiêng liêng dưới ngầu ngầu bọt sóng” của Tổ quốc thân yêu. Những tháng năm trải nghiệm cùng đời lính đã hình thành một chiến sĩ - thi sĩ Trần Đăng Khoa dạn dày, bản lĩnh. Anh đã từng tâm sự: “Không có hình ảnh nào lãng mạn như hình ảnh người lính hải quân trước sóng gió. Nhưng cũng không có hình ảnh nào dữ dội như sự hi sinh của người lính trên biển”. Đọc những dòng thơ của anh viết về lính đảo và Trường Sa, ta thật thấm thía sự hi sinh cao cả đó.
Đảo Sinh Tồn những ngày nắng nóng, những cơn khát cháy khô cổ họng, những giờ người chiến sĩ ôm súng đợi chờ khắc khoải một cơn mưa... đến với thơ Trần Đăng Khoa thật tự nhiên và thân thương đến lạ. Thế mà, “thơ là thơ. Thực tế còn lãng mạn và dữ dội hơn mà người chưa ra biển, không ở đảo thì không thể hình dung được.” (Trần Đăng Khoa).
Chúng tôi ngồi trên đảo Sinh Tồn
Bóng đen sẫm như gốc cây khô cháy
Câu thơ mở đầu có tính chất giới thiệu về thời gian, không gian, hoàn cảnh sống của người lính đảo. Ta chú ý trước tiên địa danh Sinh Tồn - một hòn đảo trong quần đảo Trường Sa, cách đất liền 320 hải lí. Hòn đảo chạy dài theo hướng Đông Tây, chiều dài chỉ khoảng 400m, chiều rộng 140m. Cũng như các đảo khác trên quần đảo Trường Sa, đảo Sinh Tồn nắng nóng và có hai mùa gió chính: đông bắc và tây nam. Vì đất ở đảo lại là cát và san hô nên việc đào giếng để lấy nước ngầm dù là nước lợ cũng hết sức khó khăn. Tuy chỉ là hòn đảo nhỏ song Sinh Tồn lại có ý nghĩa chiến lược đối với quần đảo Trường Sa.
Từ câu thơ thứ hai, nhà thơ tập trung làm nổi bật điều kiện sống thiếu nước và tâm trạng khát mưa cháy bỏng của người lính hải quân. Sống trên đảo, đối diện thường ngày với sóng, với nước mà lại thiếu nước. Một điều tưởng chừng như phi lí. Song, ai đã từng ra đảo dù chỉ một lần thì mới thật thấm thía nỗi khát khao đến cháy ruột những giọt mưa mùa hạ của con người sống trên hòn đảo khát nước ngọt đó. Người lính hải quân hiện lên trong đoạn thơ đầu chỉ bằng hai nét vẽ: “bóng đen sẫm” và “mắt đăm đăm”, cùng một hình ảnh so sánh: “như gốc cây khô cháy” nhưng cái hiện thực khốc liệt của đời lính được tái hiện sinh động, gần gũi biết bao. Trần Đăng Khoa sáng tác nhiều bài thơ viết về Trường Sa: “Cây phong ba đảo Nam Yết”, “Cô tổng đài hải đảo”, “Lính đảo hát tình ca trên đảo”, “Thơ tình người lính biển”,… Nhà thơ đã từng đề cập nhiều đến sóng gió Trường Sa, về những gian lao mà người lính biển đã trải qua. Nhưng những gian lao ấy không làm con người chìm lấp mà đây chỉ là yếu tố làm nền để Trần Đăng Khoa khắc tạc chân dung lồng lộng, ngang tàng như gió biển của các anh.
Dù người lính đảo có khát khao mong chờ nhưng những cơn mưa vẫn không hề đến, dù rằng dấu hiệu của nó là có thật: “ánh chớp xanh lấp loáng phía chân trời”.
Khổ tiếp theo của bài thơ tập trung thể hiện tâm trạng của người lính đợi chờ cơn mưa qua những hành động cụ thể:
Ôi, ước gì được thấy mưa rơi
Mặt chúng tôi ngửa lên như đất
Những màu mây sẽ thôi không héo quắt
Đá san hô sẽ nảy cỏ xanh lên
Đảo xa khơi sẽ hóa đất liền
Niềm khao khát mưa đến khiến nhà thơ bật thốt lên: “Ôi, ước gì...”. Ước gì mưa đến cho thỏa lòng mong ngóng của con người và vạn vật, cho đất đá đỡ cằn khô, cho tâm hồn thêm sức sống mới. Sống giữa biển trời bao la, chan hòa với thiên nhiên kì vĩ, người lính phải trực tiếp đối mặt với nạn thiếu nước ngọt trầm trọng. Để đảm bảo nhu cầu vệ sinh trong những ngày nắng nóng, lính đảo nơi đây phải cạo trọc đầu. Trong “Lính đảo hát tình ca trên đảo”, Trần Đăng Khoa đã từng ghi lại:
Sân khấu lô nhô mấy chàng đầu trọc
Người xem ngổn ngang cũng rặt lính trọc đầu
Nước ngọt hiếm không lẽ dành gội tóc
Lính trẻ, lính già đều trọc tếu như nhau
Vì thế có được mái tóc xanh là niềm mong ước của lính đảo Trường Sa: “Ôi, ước gì được thấy mưa rơi - Chúng tôi không cạo đầu để tóc lên như cỏ”. Ý thơ gợi liên tưởng nhiều đến người chiến binh trong kháng chiến chống Pháp tóc không mọc được vì sốt rét ác tính ở thơ Quang Dũng:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Đời lính là vậy, gian lao vất vả nhưng đầy chất thơ. Khắc họa tâm trạng mong mưa đến cháy lòng của lính đảo Trường Sa, Trần Đăng Khoa không hề có ý định tô đậm những khắc nghiệt về hoàn cảnh mà họ phải chịu đựng mà tập trung nhấn mạnh tâm hồn trẻ trung, lạc quan, ý chí vững bền:
Rồi kháo nhau
Bữa tiệc linh đình bày toàn nước ngọt
...
Chúng tôi sẽ trụi trần nhảy choi choi trên cát
Như con cá rô rạch nước đón mưa rào
Úp miệng vào tay, chúng tôi sẽ cùng gào
Như ếch nhái uôm uôm khắp đảo
Sống trong đất liền, hằng ngày ta vẫn vô tình lãng phí nước, khó có thể hình dung ra “bữa tiệc linh đình bày toàn nước ngọt” của người lính Trường Sa. Với họ, nước quý hơn mọi thứ mâm cao cỗ đầy, sơn hào hải vị bởi nước ngọt quyết định sự tồn tại của họ. Thường nhật, họ phải đối diện với nỗi lo thiếu nước song tâm hồn người lính vẫn ấm áp những kỉ niệm tuổi thơ. Hình ảnh các cậu bé trụi trần tắm mưa với những tràng cười trong veo của buổi chiều đầu hạ không thể thiếu trong hành trang kí ức của các anh. Mong mưa đến hay các anh đang lật giở những ngày tháng tuổi thơ đầy ắp niềm vui bên gia đình và bè bạn. Mơ mộng và giàu khát vọng là thế nhưng người lính đảo phải trở về với thực tại:
Mưa đi! Mưa đi! Mưa cho táo bạo
Mưa như chưa bao giờ mưa, sấm sét đùng đùng
Nhưng làm sao mưa cứ ngại ngùng
Chập chờn bay phía xa khơi…
Các điệp khúc: “Ôi ước gì được thấy mưa rơi”, “mưa đi”... tô đậm nỗi mong chờ đến khắc khoải, nỗi khát khao đến triền miên và dai dẳng trong tâm tư người lính biển. Họ mong ước mưa đến như mong chờ một người thân từ đất liền đến thăm đảo, một cánh thư của người yêu phương xa. Càng ước mong, trí tưởng tượng của họ càng thêm bay bổng. Mưa đang đến với họ dù trong ý tưởng: đầu tiên là “ánh chớp xanh” (bởi ánh sáng có tốc độ nhanh hơn âm thanh), tiếp theo là “sấm sét đùng đùng”, tiếp nữa là những giọt giọt rơi. Mưa như trêu ngươi họ, vẫn cứ “chập chờn bay phía xa khơi”. Đặt mình vào tâm trạng thắc thỏm, mong ngóng của người lính đảo, ta càng thương yêu và khâm phục các anh thêm bội phần. Sống giữa gian khổ nhưng các anh vẫn háo hức một niềm vui đón đợi:
Mưa đi! Mưa đi! Mưa cho mãnh liệt
Mưa lèm nhèm chúng tôi chẳng thích đâu
Nhưng không có mưa rào thì cứ mưa ngâu
Hay mưa bụi… mưa li ti… cũng được
Mặt chúng tôi ngửa lên hứng nước
Một hạt nhỏ thôi cát cũng dịu đi nhiều
Cơn mưa thật mỗi lúc một xa vời, còn cơn mưa trong tâm tưởng các anh càng lúc càng gần hơn. Đầu tiên là mưa mãnh liệt, mưa rào, tiếp đến là mưa ngâu, mưa lèm nhèm, và cuối cùng là mưa bụi, một hạt nhỏ thôi... Cách nói giảm dần diễn tả một thực tế khắc nghiệt: không hề có mưa dù người lính có khát khao, có mong đợi đến ngậm ngùi. Các anh chẳng ước gì niềm vui cho riêng mình khi cơn mưa tới mà chỉ mong một giọt nhỏ thôi để xua tan không khí oi nồng, để đảo cát không còn nóng bỏng. Dù kết quả của nỗi mong chờ là không có thật nhưng các anh không hề thất vọng mà luôn nuôi dưỡng niềm tin:
Ôi đảo Sinh Tồn, hòn đảo thân yêu
Dẫu chẳng có mưa, chúng tôi vẫn sinh tồn trên mặt đảo
Đảo vẫn sinh tồn trên đại dương gió bão
Chúng tôi như hòn đá ngàn năm trong nhịp đập trái tim người
Như đá vững bền, như đá tốt tươi...
Ý thơ gợi một liên tưởng thú vị về tên của hòn đảo thân yêu và sự tồn sinh của người lính trên đảo. Cho dù vất vả, gian khó đến mấy, họ vẫn chắc tay súng, canh giữ vùng trời địa phận của đất nước. Và họ cũng như hòn đảo kia “vẫn sinh tồn trên đại dương gió bão”. Đến đây, Trần Đăng Khoa đã nhân hóa đá Trường Sa, so sánh người lính đảo với “hòn đá ngàn năm”, “đá vững bền”, “đá tốt tươi”. Những hòn đá vô tri vô giác trở nên có linh hồn, biểu trưng cho sự sống Trường Sa kiên cường, vững chãi. Cảm khái về người lính đảo, Hồ Tĩnh Tâm trong một thi phẩm đã viết:
Những người lính đem tình thương hi vọng
Xẻ chiến hào trên cát bỏng Trường Sa
Giữ lấy chủ quyền thiêng liêng ngoài biển sóng
Dù một nhành rong, một mảnh vỏ hàu…
Mưa vẫn giăng màn lộng lẫy phía xa khơi
Mưa yểu điệu như một nàng công chúa
Dù mưa chẳng bao giờ đến nữa
Thì xin cứ hiện lên thăm thẳm cuối chân trời
Để bao giờ cánh lính chúng tôi
Cũng có một niềm vui đón đợi
Đời lính thật gian khổ nhưng cũng lắm niềm vui. Niềm vui ấy có thể sẻ chia cùng đồng đội từ một lá thư, một mẩu tin nhà, một điếu thuốc, một hớp nước uống chung và cả niềm mong ngóng những trận mưa hiếm hoi trên đảo cát nóng bỏng. Đọc lại bài thơ, ta bỗng thấy lòng rưng rưng dù rằng giọng điệu thơ tếu táo đùa nghịch, hình ảnh thơ không một chút bi lụy, bi quan. Trong đau khổ, mất mát, hi sinh, những chiến sĩ làm nhiệm vụ ngoài đảo xa vẫn ấp ủ niềm ước ao lãng mạn mà hiện thực. Chính những ao ước, mơ mộng đó là chất men say để anh vững tay súng, nuôi dưỡng những khát vọng mãnh liệt vượt lên thực tại khốn cùng. Các anh vẫn ấp ủ niềm tin vào một tương lai xán lạn của đất nước như ấp ủ niềm vui được đón đợi cơn mưa.
“Đợi mưa trên đảo Sinh Tồn” là bài thơ mang đậm chất lính. Thi phẩm mộc mạc, giản dị như cuộc đời người lính biển nhưng lại có sức gợi mở sâu xa. Phải chăng thi sĩ gởi gắm điều gì qua việc khắc đậm nỗi mong chờ một cơn mưa trên hòn đảo cháy nắng???
Một quần đảo nghìn đời nay vẫy gọi
Những cánh chim trời bay đến trú mưa dông
Nơi in dấu bàn chân mở lối
Của ông cha bao thế hệ sinh tồn
Tận hưởng sự thay da đổi thịt của Tổ Quốc hôm nay, chúng ta không thể nào quên được những tháng ngày gian khổ, hi sinh của những người lính ở mọi miền đất nước nói chung và Trường Sa nói riêng. Vẳng bên tai ta lời Bác dạy ngày nào: “Ngày trước ta chỉ có đêm và rừng. Ngày nay ta có ngày, có trời và có biển. Bờ biển của ta dài và đẹp, ta phải biết giữ gìn lấy nó”. Mong rằng những người lính đảo xa luôn mạnh khoẻ, tiếp tục sống xứng đáng với niềm tin của nhân dân, hoàn thành tốt nhiệm vụ nặng nề nhưng vô cùng vinh quang mà Tổ quốc giao phó. Với chúng ta, Trường Sa mãi mãi là nhịp đập của trái tim mình, bởi nơi ấy có:
* Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm
- Trần Đăng Khoa là một trong những cây bút lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại; có nhiều sáng tác đặc sắc viết về đề tài biển đảo quê hương, như: Lính đảo hát tình ca trên đảo, Đồng đội tôi trên đảo Thuyền Chài, Thơ tình người lính biển,...
- Bài thơ Đợi mưa trên đảo Sinh Tồn được viết năm 1982, là một trong những thi phẩm tiêu biểu cho đề tài biển đảo của Trần Đăng Khoa.
* Phân tích hình tượng người lính đảo trong bài thơ Đợi mưa trên đảo Sinh Tồn
- Người lính với điều kiện sống vô cùng khắc nghiệt, thiếu thốn: đảo Sinh Tồn những năm 1980 rất khan hiếm nước ngọt (Bóng đen sẫm như gốc cây khô cháy)
- Người lính được khắc hoạ với những chi tiết tuyệt đẹp:
+ Khao khát, kiên trì đón đợi mưa rơi (Ôi ước gì được thấy mưa rơi, Mưa đi! Mưa đi! Mưa cho táo bạo)
+ Trẻ trung, tinh nghịch, yêu đời (Chúng tôi sẽ trụi trần nhảy choi choi trên mặt cát, Giãy giụa tơi bời trên mặt cát)
+ Kiên cường, bất khuất (Chúng tôi như hòn đá ngàn năm trong nhịp đập trái tim người)
* Đánh giá chung
- Trong bài thơ, người lính hiện lên tuyệt đẹp với những phẩm chất sáng ngời: anh dũng, kiên cường; lạc quan, hóm hỉnh; thuỷ chung với lí tưởng chiến đấu;...
- Với thi phẩm, Trần Đăng Khoa đã bộc lộ tình yêu, lòng ngưỡng mộ và thái độ ngợi ca sâu sắc trước các chiến sĩ nơi hải đảo xa xôi.
- Bài thơ lan thấm vào người đọc tình yêu các chiến sĩ hải quân và thức dậy trong chúng ta tinh thần trách nhiệm với biển đảo quê hương.
Tham khảo bài viết:
“Ba mươi năm đối với một đời người không dài nhưng với sự tồn tại của một bài thơ là cả một vấn đề. “Đợi mưa trên đảo Sinh Tồn” (1982) của Trần Đăng Khoa được biết đến trong khoảng thời gian như thế, nhưng đến hôm nay thi phẩm vẫn còn nguyên nét mới mẻ, hiện đại:
Chúng tôi ngồi trên đảo Sinh Tồn
Bóng đen sẫm như khúc cây khô cháy
...
Để bao giờ cánh lính chúng tôi
Cũng có một niềm vui đón đợi
Trần Đăng Khoa là một nhà văn đồng thời cũng là người lính biển, người cầm súng có mặt rất sớm ở Trường Sa – “cái giọt máu thiêng liêng dưới ngầu ngầu bọt sóng” của Tổ quốc thân yêu. Những tháng năm trải nghiệm cùng đời lính đã hình thành một chiến sĩ - thi sĩ Trần Đăng Khoa dạn dày, bản lĩnh. Anh đã từng tâm sự: “Không có hình ảnh nào lãng mạn như hình ảnh người lính hải quân trước sóng gió. Nhưng cũng không có hình ảnh nào dữ dội như sự hi sinh của người lính trên biển”. Đọc những dòng thơ của anh viết về lính đảo và Trường Sa, ta thật thấm thía sự hi sinh cao cả đó.
Đảo Sinh Tồn những ngày nắng nóng, những cơn khát cháy khô cổ họng, những giờ người chiến sĩ ôm súng đợi chờ khắc khoải một cơn mưa... đến với thơ Trần Đăng Khoa thật tự nhiên và thân thương đến lạ. Thế mà, “thơ là thơ. Thực tế còn lãng mạn và dữ dội hơn mà người chưa ra biển, không ở đảo thì không thể hình dung được.” (Trần Đăng Khoa).
Chúng tôi ngồi trên đảo Sinh Tồn
Bóng đen sẫm như gốc cây khô cháy
Câu thơ mở đầu có tính chất giới thiệu về thời gian, không gian, hoàn cảnh sống của người lính đảo. Ta chú ý trước tiên địa danh Sinh Tồn - một hòn đảo trong quần đảo Trường Sa, cách đất liền 320 hải lí. Hòn đảo chạy dài theo hướng Đông Tây, chiều dài chỉ khoảng 400m, chiều rộng 140m. Cũng như các đảo khác trên quần đảo Trường Sa, đảo Sinh Tồn nắng nóng và có hai mùa gió chính: đông bắc và tây nam. Vì đất ở đảo lại là cát và san hô nên việc đào giếng để lấy nước ngầm dù là nước lợ cũng hết sức khó khăn. Tuy chỉ là hòn đảo nhỏ song Sinh Tồn lại có ý nghĩa chiến lược đối với quần đảo Trường Sa.
Từ câu thơ thứ hai, nhà thơ tập trung làm nổi bật điều kiện sống thiếu nước và tâm trạng khát mưa cháy bỏng của người lính hải quân. Sống trên đảo, đối diện thường ngày với sóng, với nước mà lại thiếu nước. Một điều tưởng chừng như phi lí. Song, ai đã từng ra đảo dù chỉ một lần thì mới thật thấm thía nỗi khát khao đến cháy ruột những giọt mưa mùa hạ của con người sống trên hòn đảo khát nước ngọt đó. Người lính hải quân hiện lên trong đoạn thơ đầu chỉ bằng hai nét vẽ: “bóng đen sẫm” và “mắt đăm đăm”, cùng một hình ảnh so sánh: “như gốc cây khô cháy” nhưng cái hiện thực khốc liệt của đời lính được tái hiện sinh động, gần gũi biết bao. Trần Đăng Khoa sáng tác nhiều bài thơ viết về Trường Sa: “Cây phong ba đảo Nam Yết”, “Cô tổng đài hải đảo”, “Lính đảo hát tình ca trên đảo”, “Thơ tình người lính biển”,… Nhà thơ đã từng đề cập nhiều đến sóng gió Trường Sa, về những gian lao mà người lính biển đã trải qua. Nhưng những gian lao ấy không làm con người chìm lấp mà đây chỉ là yếu tố làm nền để Trần Đăng Khoa khắc tạc chân dung lồng lộng, ngang tàng như gió biển của các anh.
Dù người lính đảo có khát khao mong chờ nhưng những cơn mưa vẫn không hề đến, dù rằng dấu hiệu của nó là có thật: “ánh chớp xanh lấp loáng phía chân trời”.
Khổ tiếp theo của bài thơ tập trung thể hiện tâm trạng của người lính đợi chờ cơn mưa qua những hành động cụ thể:
Ôi, ước gì được thấy mưa rơi
Mặt chúng tôi ngửa lên như đất
Những màu mây sẽ thôi không héo quắt
Đá san hô sẽ nảy cỏ xanh lên
Đảo xa khơi sẽ hóa đất liền
Niềm khao khát mưa đến khiến nhà thơ bật thốt lên: “Ôi, ước gì...”. Ước gì mưa đến cho thỏa lòng mong ngóng của con người và vạn vật, cho đất đá đỡ cằn khô, cho tâm hồn thêm sức sống mới. Sống giữa biển trời bao la, chan hòa với thiên nhiên kì vĩ, người lính phải trực tiếp đối mặt với nạn thiếu nước ngọt trầm trọng. Để đảm bảo nhu cầu vệ sinh trong những ngày nắng nóng, lính đảo nơi đây phải cạo trọc đầu. Trong “Lính đảo hát tình ca trên đảo”, Trần Đăng Khoa đã từng ghi lại:
Sân khấu lô nhô mấy chàng đầu trọc
Người xem ngổn ngang cũng rặt lính trọc đầu
Nước ngọt hiếm không lẽ dành gội tóc
Lính trẻ, lính già đều trọc tếu như nhau
Vì thế có được mái tóc xanh là niềm mong ước của lính đảo Trường Sa: “Ôi, ước gì được thấy mưa rơi - Chúng tôi không cạo đầu để tóc lên như cỏ”. Ý thơ gợi liên tưởng nhiều đến người chiến binh trong kháng chiến chống Pháp tóc không mọc được vì sốt rét ác tính ở thơ Quang Dũng:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
(Tây Tiến)
Dù hai người lính ở hai thời kì, thực hiện hai nhiệm vụ hoàn toàn khác nhau nhưng điểm chung giữa họ là khí phách anh hùng, bất chấp gian khổ, hi sinh.Đời lính là vậy, gian lao vất vả nhưng đầy chất thơ. Khắc họa tâm trạng mong mưa đến cháy lòng của lính đảo Trường Sa, Trần Đăng Khoa không hề có ý định tô đậm những khắc nghiệt về hoàn cảnh mà họ phải chịu đựng mà tập trung nhấn mạnh tâm hồn trẻ trung, lạc quan, ý chí vững bền:
Rồi kháo nhau
Bữa tiệc linh đình bày toàn nước ngọt
...
Chúng tôi sẽ trụi trần nhảy choi choi trên cát
Như con cá rô rạch nước đón mưa rào
Úp miệng vào tay, chúng tôi sẽ cùng gào
Như ếch nhái uôm uôm khắp đảo
Sống trong đất liền, hằng ngày ta vẫn vô tình lãng phí nước, khó có thể hình dung ra “bữa tiệc linh đình bày toàn nước ngọt” của người lính Trường Sa. Với họ, nước quý hơn mọi thứ mâm cao cỗ đầy, sơn hào hải vị bởi nước ngọt quyết định sự tồn tại của họ. Thường nhật, họ phải đối diện với nỗi lo thiếu nước song tâm hồn người lính vẫn ấm áp những kỉ niệm tuổi thơ. Hình ảnh các cậu bé trụi trần tắm mưa với những tràng cười trong veo của buổi chiều đầu hạ không thể thiếu trong hành trang kí ức của các anh. Mong mưa đến hay các anh đang lật giở những ngày tháng tuổi thơ đầy ắp niềm vui bên gia đình và bè bạn. Mơ mộng và giàu khát vọng là thế nhưng người lính đảo phải trở về với thực tại:
Mưa đi! Mưa đi! Mưa cho táo bạo
Mưa như chưa bao giờ mưa, sấm sét đùng đùng
Nhưng làm sao mưa cứ ngại ngùng
Chập chờn bay phía xa khơi…
Các điệp khúc: “Ôi ước gì được thấy mưa rơi”, “mưa đi”... tô đậm nỗi mong chờ đến khắc khoải, nỗi khát khao đến triền miên và dai dẳng trong tâm tư người lính biển. Họ mong ước mưa đến như mong chờ một người thân từ đất liền đến thăm đảo, một cánh thư của người yêu phương xa. Càng ước mong, trí tưởng tượng của họ càng thêm bay bổng. Mưa đang đến với họ dù trong ý tưởng: đầu tiên là “ánh chớp xanh” (bởi ánh sáng có tốc độ nhanh hơn âm thanh), tiếp theo là “sấm sét đùng đùng”, tiếp nữa là những giọt giọt rơi. Mưa như trêu ngươi họ, vẫn cứ “chập chờn bay phía xa khơi”. Đặt mình vào tâm trạng thắc thỏm, mong ngóng của người lính đảo, ta càng thương yêu và khâm phục các anh thêm bội phần. Sống giữa gian khổ nhưng các anh vẫn háo hức một niềm vui đón đợi:
Mưa đi! Mưa đi! Mưa cho mãnh liệt
Mưa lèm nhèm chúng tôi chẳng thích đâu
Nhưng không có mưa rào thì cứ mưa ngâu
Hay mưa bụi… mưa li ti… cũng được
Mặt chúng tôi ngửa lên hứng nước
Một hạt nhỏ thôi cát cũng dịu đi nhiều
Cơn mưa thật mỗi lúc một xa vời, còn cơn mưa trong tâm tưởng các anh càng lúc càng gần hơn. Đầu tiên là mưa mãnh liệt, mưa rào, tiếp đến là mưa ngâu, mưa lèm nhèm, và cuối cùng là mưa bụi, một hạt nhỏ thôi... Cách nói giảm dần diễn tả một thực tế khắc nghiệt: không hề có mưa dù người lính có khát khao, có mong đợi đến ngậm ngùi. Các anh chẳng ước gì niềm vui cho riêng mình khi cơn mưa tới mà chỉ mong một giọt nhỏ thôi để xua tan không khí oi nồng, để đảo cát không còn nóng bỏng. Dù kết quả của nỗi mong chờ là không có thật nhưng các anh không hề thất vọng mà luôn nuôi dưỡng niềm tin:
Ôi đảo Sinh Tồn, hòn đảo thân yêu
Dẫu chẳng có mưa, chúng tôi vẫn sinh tồn trên mặt đảo
Đảo vẫn sinh tồn trên đại dương gió bão
Chúng tôi như hòn đá ngàn năm trong nhịp đập trái tim người
Như đá vững bền, như đá tốt tươi...
Ý thơ gợi một liên tưởng thú vị về tên của hòn đảo thân yêu và sự tồn sinh của người lính trên đảo. Cho dù vất vả, gian khó đến mấy, họ vẫn chắc tay súng, canh giữ vùng trời địa phận của đất nước. Và họ cũng như hòn đảo kia “vẫn sinh tồn trên đại dương gió bão”. Đến đây, Trần Đăng Khoa đã nhân hóa đá Trường Sa, so sánh người lính đảo với “hòn đá ngàn năm”, “đá vững bền”, “đá tốt tươi”. Những hòn đá vô tri vô giác trở nên có linh hồn, biểu trưng cho sự sống Trường Sa kiên cường, vững chãi. Cảm khái về người lính đảo, Hồ Tĩnh Tâm trong một thi phẩm đã viết:
Những người lính đem tình thương hi vọng
Xẻ chiến hào trên cát bỏng Trường Sa
Giữ lấy chủ quyền thiêng liêng ngoài biển sóng
Dù một nhành rong, một mảnh vỏ hàu…
(Với Trường Sa - Hồ Tĩnh Tâm)
Trần Đăng Khoa đã dám đem người lính sánh với “đá vững bền”, những hòn đá “thi gan cùng tuế nguyệt”. Vật đổi sao dời và thế sự cuộc đời không dịch chuyển được ý chí bền vững, kiên trung của các anh. Bài thơ kết lại cũng bằng nỗi mong chờ đón đợi những cơn mưa. Biết rằng mưa không bao giờ tới nhưng trong tâm tưởng người lính, mưa mãi là nàng công chúa điệu đà, tưởng gần gụi mà hóa xa vời:Mưa vẫn giăng màn lộng lẫy phía xa khơi
Mưa yểu điệu như một nàng công chúa
Dù mưa chẳng bao giờ đến nữa
Thì xin cứ hiện lên thăm thẳm cuối chân trời
Để bao giờ cánh lính chúng tôi
Cũng có một niềm vui đón đợi
Đời lính thật gian khổ nhưng cũng lắm niềm vui. Niềm vui ấy có thể sẻ chia cùng đồng đội từ một lá thư, một mẩu tin nhà, một điếu thuốc, một hớp nước uống chung và cả niềm mong ngóng những trận mưa hiếm hoi trên đảo cát nóng bỏng. Đọc lại bài thơ, ta bỗng thấy lòng rưng rưng dù rằng giọng điệu thơ tếu táo đùa nghịch, hình ảnh thơ không một chút bi lụy, bi quan. Trong đau khổ, mất mát, hi sinh, những chiến sĩ làm nhiệm vụ ngoài đảo xa vẫn ấp ủ niềm ước ao lãng mạn mà hiện thực. Chính những ao ước, mơ mộng đó là chất men say để anh vững tay súng, nuôi dưỡng những khát vọng mãnh liệt vượt lên thực tại khốn cùng. Các anh vẫn ấp ủ niềm tin vào một tương lai xán lạn của đất nước như ấp ủ niềm vui được đón đợi cơn mưa.
“Đợi mưa trên đảo Sinh Tồn” là bài thơ mang đậm chất lính. Thi phẩm mộc mạc, giản dị như cuộc đời người lính biển nhưng lại có sức gợi mở sâu xa. Phải chăng thi sĩ gởi gắm điều gì qua việc khắc đậm nỗi mong chờ một cơn mưa trên hòn đảo cháy nắng???
Một quần đảo nghìn đời nay vẫy gọi
Những cánh chim trời bay đến trú mưa dông
Nơi in dấu bàn chân mở lối
Của ông cha bao thế hệ sinh tồn
(Với Trường Sa - Hồ Tĩnh Tâm)
Từ niềm ước mong nhỏ bé, đơn sơ của người chiến sĩ hải quân đóng trên đảo Sinh Tồn, bài thơ cho ta hiểu thêm về hiện thực trần trụi của cuộc sống nơi đảo xa, ý chí và bản lĩnh tuyệt vời của người lính biển sẵn sàng đạp bằng mọi khó khăn. Nếu không có những người lính “ăn tuyết nằm sương”, sẵn sàng chấp nhận thử thách để canh giữ biển trời thì liệu chúng ta có cuộc sống hòa bình như hôm nay?Tận hưởng sự thay da đổi thịt của Tổ Quốc hôm nay, chúng ta không thể nào quên được những tháng ngày gian khổ, hi sinh của những người lính ở mọi miền đất nước nói chung và Trường Sa nói riêng. Vẳng bên tai ta lời Bác dạy ngày nào: “Ngày trước ta chỉ có đêm và rừng. Ngày nay ta có ngày, có trời và có biển. Bờ biển của ta dài và đẹp, ta phải biết giữ gìn lấy nó”. Mong rằng những người lính đảo xa luôn mạnh khoẻ, tiếp tục sống xứng đáng với niềm tin của nhân dân, hoàn thành tốt nhiệm vụ nặng nề nhưng vô cùng vinh quang mà Tổ quốc giao phó. Với chúng ta, Trường Sa mãi mãi là nhịp đập của trái tim mình, bởi nơi ấy có:
Quần đảo thân yêu in hình Tổ quốc
Từ những bàn chân đi mở đất bao đời
Những người lính gắn tâm hồn với đảo
Súng đạn hoá nên lời hẹn ước, tuổi xuân ơi
(Với Trường Sa - Hồ Tĩnh Tâm)
(Theo Nguyễn Thị Thu Thuỷ, vanhaiphong.com)