I. ĐỌC HIỂU (4,0 điểm)
Đọc đoạn trích:
“Từ trước đến nay nhắc đến thiên nhiên, đa phần nhiều người vẫn hay nghĩ đến những quang cảnh đẹp nức lòng thay vì những nơi hoang vu, thiếu dấu chân người. Trong xã hội hiện đại với sự phát triển của mạng xã hội và các thiết bị công nghệ cao, thì “tầm nhìn” càng bị giới hạn trong những cảnh trí ai cũng biết đến hoặc thu hút nhiều sự quan tâm. Chúng ta muốn đến những nơi mà người khác đăng trên mạng xã hội, chúng ta mắc chứng FOMO khi sợ lỡ mất một điều gì đó, chúng ta du lịch nhưng không trải nghiệm mà là chứng minh bản thân qua các bức ảnh... từ đó dẫn đến trải nghiệm về thiên nhiên của con người hiện đại bị quy giản, đồng nhất, thiếu sự đa dạng.

Với 5 cuốn đã bán ra hơn một phần tư triệu bản, các chủ đề của ông dù khá khốc liệt khi đi sâu vào các trạng thái tâm lí phức tạp như trầm cảm, sang chấn, tổn thương ấu thơ, trải nghiệm cận tử... nhưng bằng cách viết đơn giản, khúc chiết và dễ tiếp cận, lượng độc giả đón chờ tác phẩm của Đặng Hoàng Giang trong những năm qua không ngừng tăng lên. Giữ nguyên điều đó, ở tác phẩm này, thay vì viết như một cuốn tiểu luận có nhiều suy tư, ông đã khéo léo để 2 nhân vật là Tò Mò - đại diện cho sự u minh của chính chúng ta cũng như Suy Ngẫm - người đã tỉnh thức và được khai sáng trong vấn đề này, dẫn dắt câu chuyện bằng sự hài hước, giúp cho tác phẩm trở nên sinh động mà không giáo điều hay rao giảng.
Không dừng ở đó, tác phẩm cũng trở nên thú vị bởi sự tổng hợp các nguồn thông tin theo cả chiều dọc cũng như chiều ngang. Theo chiều thời gian ông đã lẫy ra những điểm chính yếu về sự thay đổi của nghệ thuật thị giác, của mĩ học, của công nghệ nghe nhìn... ở cả phương Đông cũng như phương Tây để ta thấy được những sự thay đổi trong cách con người thưởng thức thiên nhiên. Còn với chiều ngang ông đã đi sâu vào nhiều đề tài, từ khảo sát cách cảm nhận trong hội họa, văn học, thi ca... cho đến áp chúng vào nhiều đối tượng như động vật, thực vật, thời tiết... Các chi tiết này đều được chắt lọc một cách tinh gọn để thật gần gũi với độc giả đại chúng, không chỉ giúp cho cuốn sách dễ theo dõi mà các thông điệp mong muốn truyền tải cũng đi xa hơn.”
“Từ trước đến nay nhắc đến thiên nhiên, đa phần nhiều người vẫn hay nghĩ đến những quang cảnh đẹp nức lòng thay vì những nơi hoang vu, thiếu dấu chân người. Trong xã hội hiện đại với sự phát triển của mạng xã hội và các thiết bị công nghệ cao, thì “tầm nhìn” càng bị giới hạn trong những cảnh trí ai cũng biết đến hoặc thu hút nhiều sự quan tâm. Chúng ta muốn đến những nơi mà người khác đăng trên mạng xã hội, chúng ta mắc chứng FOMO khi sợ lỡ mất một điều gì đó, chúng ta du lịch nhưng không trải nghiệm mà là chứng minh bản thân qua các bức ảnh... từ đó dẫn đến trải nghiệm về thiên nhiên của con người hiện đại bị quy giản, đồng nhất, thiếu sự đa dạng.

Bìa sách Vẻ đẹp của cảnh sắc tầm thường
Nhận thấy điều đó, qua tác phẩm mới được ấn hành, tác giả Đặng Hoàng Giang đi sâu vào những quan điểm đối với thiên nhiên của con người ở nhiều thời đại cũng như không gian, từ đó đặt ra câu hỏi vì sao chúng ta lại cần thay đổi cách thức thưởng lãm. Ông chia sẻ có 2 lí do khiến mình viết nên Vẻ đẹp của cảnh sắc tầm thường, một là muốn có thời gian tạm nghỉ sau nhiều năm làm việc với các vấn đề liên quan đến sức khỏe tinh thần. Và hai là bởi cũng như những người lớn lên bên trong thành phố, ông và nhiều người đã mất kết nối một cách nghiêm trọng đối với thiên nhiên. Từ chính trải nghiệm của bản thân mình, đây là tác phẩm thức thời cũng như cần thiết cho bất cứ ai, để từ tỉnh thức chuyển sang thấu hiểu cũng như chung tay bảo vệ thiên nhiên.Với 5 cuốn đã bán ra hơn một phần tư triệu bản, các chủ đề của ông dù khá khốc liệt khi đi sâu vào các trạng thái tâm lí phức tạp như trầm cảm, sang chấn, tổn thương ấu thơ, trải nghiệm cận tử... nhưng bằng cách viết đơn giản, khúc chiết và dễ tiếp cận, lượng độc giả đón chờ tác phẩm của Đặng Hoàng Giang trong những năm qua không ngừng tăng lên. Giữ nguyên điều đó, ở tác phẩm này, thay vì viết như một cuốn tiểu luận có nhiều suy tư, ông đã khéo léo để 2 nhân vật là Tò Mò - đại diện cho sự u minh của chính chúng ta cũng như Suy Ngẫm - người đã tỉnh thức và được khai sáng trong vấn đề này, dẫn dắt câu chuyện bằng sự hài hước, giúp cho tác phẩm trở nên sinh động mà không giáo điều hay rao giảng.
Không dừng ở đó, tác phẩm cũng trở nên thú vị bởi sự tổng hợp các nguồn thông tin theo cả chiều dọc cũng như chiều ngang. Theo chiều thời gian ông đã lẫy ra những điểm chính yếu về sự thay đổi của nghệ thuật thị giác, của mĩ học, của công nghệ nghe nhìn... ở cả phương Đông cũng như phương Tây để ta thấy được những sự thay đổi trong cách con người thưởng thức thiên nhiên. Còn với chiều ngang ông đã đi sâu vào nhiều đề tài, từ khảo sát cách cảm nhận trong hội họa, văn học, thi ca... cho đến áp chúng vào nhiều đối tượng như động vật, thực vật, thời tiết... Các chi tiết này đều được chắt lọc một cách tinh gọn để thật gần gũi với độc giả đại chúng, không chỉ giúp cho cuốn sách dễ theo dõi mà các thông điệp mong muốn truyền tải cũng đi xa hơn.”
(Trích Vì sao nên thay đổi cách thưởng thức thiên nhiên? - Tuấn Duy, theo thanhnien.vn)
Thực hiện các yêu cầu:
Câu 1 [704853]: Theo đoạn trích, hai lí do khiến tác giả Đặng Hoàng Giang viết cuốn sách Vẻ đẹp của cảnh sắc tầm thường là gì?
Theo đoạn trích, hai lí do khiến tác giả Đặng Hoàng Giang viết cuốn sách Vẻ đẹp của cảnh sắc tầm thường là: muốn có thời gian tạm nghỉ sau nhiều năm làm việc với các vấn đề liên quan đến sức khỏe tinh thần; cũng như những người lớn lên bên trong thành phố, ông và nhiều người đã mất kết nối một cách nghiêm trọng đối với thiên nhiên.
Câu 2 [704854]: Trong đoạn trích, điều gì khiến cuốn sách Vẻ đẹp của cảnh sắc tầm thường trở nên sinh động mà không giáo điều hay rao giảng?
Theo đoạn trích, điều khiến cuốn sách Vẻ đẹp của cảnh sắc tầm thường trở nên sinh động mà không giáo điều hay rao giảng là cách tác giả Đặng Hoàng Giang khéo léo để 2 nhân vật là Tò Mò - đại diện cho sự u minh của chính chúng ta cũng như Suy Ngẫm - người đã tỉnh thức và được khai sáng trong vấn đề này, dẫn dắt câu chuyện bằng sự hài hước.
Câu 3 [704855]: Hình ảnh được sử dụng trong đoạn trích có tác dụng gì?
Hình ảnh được sử dụng có tác dụng:
- Minh hoạ cho đối tượng đang được giới thiệu trong đoạn trích - cuốn Vẻ đẹp của cảnh sắc tầm thường (Đặng Hoàng Giang).
- Giúp độc giả nhận diện được cuốn sách nếu muốn tìm đọc.
- Minh hoạ cho đối tượng đang được giới thiệu trong đoạn trích - cuốn Vẻ đẹp của cảnh sắc tầm thường (Đặng Hoàng Giang).
- Giúp độc giả nhận diện được cuốn sách nếu muốn tìm đọc.
Câu 4 [704856]: Chỉ ra tình cảm, thái độ của người viết được thể hiện trong đoạn văn cuối của đoạn trích.
Đoạn văn cuối đoạn trích bộc lộc tình cảm mến mộ; thái độ đồng tình, khen ngợi; đề cao giá trị của người viết đối với những nét độc đáo của cuốn sách Vẻ đẹp của cảnh sắc tầm thường (Đặng Hoàng Giang). Điều này được thể hiện rõ nét qua các diễn đạt: tác phẩm cũng trở nên thú vị; các chi tiết này đều được chắt lọc một cách tinh gọn để thật gần gũi với độc giả đại chúng; giúp cho cuốn sách dễ theo dõi; thông điệp mong muốn truyền tải cũng đi xa hơn.
Câu 5 [704857]: Từ đoạn trích, anh/ chị hãy rút ra cho mình một bài học về cách “thưởng thức thiên nhiên”.
Thí sinh rút ra cho mình một bài học về cách “thưởng thức thiên nhiên”. Chẳng hạn:
- Thiên nhiên luôn xinh đẹp, tươi đẹp ngay cả trong những cảnh sắc bình thường, tầm thường. Hãy phát hiện và biết nâng niu, trân trọng vẻ đẹp đó.
Hoặc:
- Đứng trước thiên nhiên đẹp, hãy tận hưởng trực tiếp, trọn vẹn bằng các giác quan và cảm xúc của mình thay vì mê mải quay phim, chụp ảnh,...
Hoặc:
- Thiên nhiên luôn mang đến cho chúng ta những xúc cảm đẹp đẽ, những bài học giá trị. Hãy đón nhận những xúc cảm, bài học ấy...
...
- Thiên nhiên luôn xinh đẹp, tươi đẹp ngay cả trong những cảnh sắc bình thường, tầm thường. Hãy phát hiện và biết nâng niu, trân trọng vẻ đẹp đó.
Hoặc:
- Đứng trước thiên nhiên đẹp, hãy tận hưởng trực tiếp, trọn vẹn bằng các giác quan và cảm xúc của mình thay vì mê mải quay phim, chụp ảnh,...
Hoặc:
- Thiên nhiên luôn mang đến cho chúng ta những xúc cảm đẹp đẽ, những bài học giá trị. Hãy đón nhận những xúc cảm, bài học ấy...
...
II. VIẾT (6,0 điểm)
Câu 6 [704858]: (2,0 điểm)
Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về những hệ luỵ của lối sống “ảo” ở một bộ phận giới trẻ hiện nay.
Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về những hệ luỵ của lối sống “ảo” ở một bộ phận giới trẻ hiện nay.
Đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ về những hệ luỵ của lối sống “ảo” ở một bộ phận giới trẻ hiện nay có thể được triển khai theo hướng:
- “Ảo” là không thực, sống “ảo” là không chú tâm vào đời sống thực tế mà để tâm trí theo đuổi một đời sống không thực. Ngày nay, sống “ảo” trở thành lối sống của một bộ phận không nhỏ người trẻ và lối sống này đang được “nâng đỡ” bởi mạng xã hội.
- Trong đoạn trích, dấu ấn của lối sống “ảo” được thể hiện rõ nét qua một vài chi tiết: chúng ta du lịch nhưng không trải nghiệm mà là chứng minh bản thân qua các bức ảnh... Chi tiết nhỏ minh chứng cho lối sống “ảo” của con người, từ đó khơi gợi suy tư về những hệ luỵ của lối sống “ảo” ở giới trẻ hiện nay:
+ Đối với cá nhân mỗi người trẻ:
• Làm người trẻ xa rời cuộc sống thực tiễn, mất kết nối với đời sống thực tế, người thân, bạn bè,... từ đó khiến các mối quan hệ cốt lõi như tình thân, tình bạn,... bị lỏng lẻo;
• Hình thành ở người trẻ một “hệ giá trị ảo” (Nhiều người trẻ bị cuốn vào những hình ảnh lung linh, màu mè, không phản ánh đúng thực tế đối tượng trong thế giới ảo, từ đó nhận thức về bản chất cuộc sống lệch lạc. Chẳng hạn khi trên mạng xã hội ngập tràn hình ảnh những thần tượng, người trẻ giàu có, sang chảnh,... không ít bạn trẻ coi sự giàu sang, hào nhoáng là chuẩn giá trị; hoặc cũng có những bạn trẻ thần tượng... nhầm những người trẻ xấu xí như Khá Bảnh, Mr Pips,... để rồi đua đòi, học theo cái xấu,...);
• Đắm chìm trong thế giới “ảo”, người trẻ còn đối diện với những nguy cơ như mất thông tin cá nhân, mất an toàn an ninh mạng, dễ trở thành đối tượng bị lừa đảo; nhiều bạn cũng bị tác động tâm lí, luôn mặc cảm, tự ti khi thấy mình kém cỏi so với nhiều người trong thế giới ảo;...
+ Đối với cộng đồng:
• Góp phần làm phân rã tính gắn kết của cộng đồng khi mối quan hệ giữa người với người trong đời sống thực tại bị chen ngang bởi thế giới “ảo”;
• Lây lan một lối sống thiếu lành mạnh tới mọi người, đặc biệt là thế hệ sau;
• Ít nhiều làm giảm đi những đóng góp thực tế, tích cực của con người đối với sự sống;...
- “Ảo” là không thực, sống “ảo” là không chú tâm vào đời sống thực tế mà để tâm trí theo đuổi một đời sống không thực. Ngày nay, sống “ảo” trở thành lối sống của một bộ phận không nhỏ người trẻ và lối sống này đang được “nâng đỡ” bởi mạng xã hội.
- Trong đoạn trích, dấu ấn của lối sống “ảo” được thể hiện rõ nét qua một vài chi tiết: chúng ta du lịch nhưng không trải nghiệm mà là chứng minh bản thân qua các bức ảnh... Chi tiết nhỏ minh chứng cho lối sống “ảo” của con người, từ đó khơi gợi suy tư về những hệ luỵ của lối sống “ảo” ở giới trẻ hiện nay:
+ Đối với cá nhân mỗi người trẻ:
• Làm người trẻ xa rời cuộc sống thực tiễn, mất kết nối với đời sống thực tế, người thân, bạn bè,... từ đó khiến các mối quan hệ cốt lõi như tình thân, tình bạn,... bị lỏng lẻo;
• Hình thành ở người trẻ một “hệ giá trị ảo” (Nhiều người trẻ bị cuốn vào những hình ảnh lung linh, màu mè, không phản ánh đúng thực tế đối tượng trong thế giới ảo, từ đó nhận thức về bản chất cuộc sống lệch lạc. Chẳng hạn khi trên mạng xã hội ngập tràn hình ảnh những thần tượng, người trẻ giàu có, sang chảnh,... không ít bạn trẻ coi sự giàu sang, hào nhoáng là chuẩn giá trị; hoặc cũng có những bạn trẻ thần tượng... nhầm những người trẻ xấu xí như Khá Bảnh, Mr Pips,... để rồi đua đòi, học theo cái xấu,...);
• Đắm chìm trong thế giới “ảo”, người trẻ còn đối diện với những nguy cơ như mất thông tin cá nhân, mất an toàn an ninh mạng, dễ trở thành đối tượng bị lừa đảo; nhiều bạn cũng bị tác động tâm lí, luôn mặc cảm, tự ti khi thấy mình kém cỏi so với nhiều người trong thế giới ảo;...
+ Đối với cộng đồng:
• Góp phần làm phân rã tính gắn kết của cộng đồng khi mối quan hệ giữa người với người trong đời sống thực tại bị chen ngang bởi thế giới “ảo”;
• Lây lan một lối sống thiếu lành mạnh tới mọi người, đặc biệt là thế hệ sau;
• Ít nhiều làm giảm đi những đóng góp thực tế, tích cực của con người đối với sự sống;...
Câu 7 [704859]: (4,0 điểm)
Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) phân tích bài thơ sau:
NHỚ
(Nông Quốc Chấn)
... Đèn thương nhớ ai
mà đèn không tắt...
(Ca dao)
Con suối nhớ ai
Róc rách róc rách
Đêm đêm ngày ngày
Nhắc thầm không trách.
Con chim nhớ ai
Bay đi bay lại
Mây chiều nắng mai
Xa xôi không ngại.
Cái nón nhớ ai
Dầm mưa dãi nắng
Đi trên đường dài
Không quên lời dặn
Chiếc khăn nhớ ai
Bời bời trong óc
Chỉ màu không phai
Trùm lên mái tóc.
Chiếc cày nhớ ai
Sáng chiều xới đất
Con trâu chiếc vai
Hẹn mùa lúa tốt.
Chiếc quạt nhớ ai
Bay như cánh bướm
Gió thoảng bên người
Lòng thêm mát đượm.
Ngọn đèn nhớ ai
Suốt đêm không ngủ
Như mắt canh trời
Bừng bừng tia lửa.
Ai nhớ cứ nhớ
Ai đi cứ đi
Chiến trường súng nổ
Thắng giặc, lại về!
3 - 12 - 1967
Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) phân tích bài thơ sau:
NHỚ
(Nông Quốc Chấn)
... Đèn thương nhớ ai
mà đèn không tắt...
(Ca dao)
Con suối nhớ ai
Róc rách róc rách
Đêm đêm ngày ngày
Nhắc thầm không trách.
Con chim nhớ ai
Bay đi bay lại
Mây chiều nắng mai
Xa xôi không ngại.
Cái nón nhớ ai
Dầm mưa dãi nắng
Đi trên đường dài
Không quên lời dặn
Chiếc khăn nhớ ai
Bời bời trong óc
Chỉ màu không phai
Trùm lên mái tóc.
Chiếc cày nhớ ai
Sáng chiều xới đất
Con trâu chiếc vai
Hẹn mùa lúa tốt.
Chiếc quạt nhớ ai
Bay như cánh bướm
Gió thoảng bên người
Lòng thêm mát đượm.
Ngọn đèn nhớ ai
Suốt đêm không ngủ
Như mắt canh trời
Bừng bừng tia lửa.
Ai nhớ cứ nhớ
Ai đi cứ đi
Chiến trường súng nổ
Thắng giặc, lại về!
3 - 12 - 1967
(Theo vnu.edu.vn)
Bài văn phân tích bài thơ Nhớ (Nông Quốc Chấn) có thể triển khai theo nhiều cách, song cần bảo đảm các ý chính:
* Giới thiệu khái quát tác giả, tác phẩm
- Nông Quốc Chấn (1923 - 2002) tên khai sinh là Nông Văn Quỳnh, dân tộc Tày, quê ở Bắc Cạn.
+ Là một trong những gương mặt văn hoá tiêu biểu, đại diện cho tầng lớp trí thức các dân tộc thiểu số trưởng thành trong đấu tranh cách mạng và chiến tranh vệ quốc. Đóng góp nổi trội của ông trong lĩnh vực sáng tác là thơ.
+ Thơ ông mang xúc cảm chân thành, chất phác, lời thơ toát lên nét riêng biệt trong suy tư và diễn đạt của người miền núi: giản dị, tự nhiên và giàu hình ảnh.
Năm 2000, ông được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.
- Nhớ:
+ Hoàn cảnh sáng tác: Bài thơ được viết năm 1967. Thời điểm này đất nước ta đang bị chia cắt hai miền bởi đế quốc Mĩ. Công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc đòi hỏi tất cả phải dành tinh thần, vật lực cho miền Nam ruột thịt.
+ Đề tài, nhan đề, chủ đề:
• Đề tài chính: quê hương đất nước (được khéo léo thể hiện qua nỗi nhớ trong tình yêu).
• Nhan đề Nhớ: gói trọn trong đó tình cảm yêu thương, chờ trông, mong đợi của người đi (người lính đi chiến đấu) - kẻ ở (người ở lại hậu phương lao động, sản xuất).
• Chủ đề: tình cảm yêu thương, gắn bó kẻ ở - người đi dành cho nhau trong bối cảnh đất nước có chiến tranh quyện với khát khao giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước để xa cách được đoàn viên.
+ Nhân vật trữ tình: Dựa vào lời đề từ, có thể hiểu nhân vật trữ tình trong bài thơ là người nữ ở nơi quê nhà (vì lời đề từ là tiếng lòng của một cô gái da diết nhớ người yêu). Tuy nhiên, đọc trọn bài thơ, ta cũng có thể hiểu nhân vật trữ tình trong bài thơ là cả người đi và kẻ ở - người lính nơi chiến trường và người phụ nữ (người vợ, người yêu) nơi quê nhà.
+ Cảm hứng chủ đạo: được thể hiện rõ nét qua nhan đề bài thơ (Nhớ) và đậm nét qua điệp khúc nhớ ai suốt dọc bài thơ. Theo đó, bài thơ bộc bạch nỗi nhớ niềm thương của người đi chiến trường, kẻ ở hậu phương trong bối cảnh kháng chiến chống đế quốc Mĩ.
+ Thể thơ: bốn chữ, nhịp thơ ngắn rất phù hợp để biểu đạt xúc cảm tươi tắn, sôi nổi trong nhân vật trữ tình dù lứa đôi có đang trong hoàn cảnh cách xa.
+ Bố cục: Ngoài lời đề từ, bài thơ có thể được chia làm hai phần:
• Phần thứ nhất (từ đầu đến Bừng bừng tia lửa): Nỗi nhớ trong xa cách
• Phần thứ hai (còn lại): Lời hẹn ước và quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ để đoàn viên.
* Phân tích bài thơ Nhớ (Nông Quốc Chấn)
- Lời đề từ:
+ Một bài thơ không nhất thiết phải có lời đề từ tuy nhiên sự xuất hiện của lời đề từ sẽ như một định hướng để nhà thơ trông nhìn vào đó mà triển khai ý tình trong sáng tác của mình (một số thi phẩm có lời đề từ: Tràng giang - Huy Cận, Đàn ghi ta của Lor-ca - Thanh Thảo,...). Theo đó, lời đề từ cũng sẽ giúp người đọc nắm bắt được phần cốt lõi trong lời thơ.
+ Nông Quốc Chấn mượn lại hai dòng trong một bài ca dao để làm đề từ cho bài thơ của mình:
... Đèn thương nhớ ai
mà đèn không tắt...
Bài ca dao vốn là tiếng lòng của một cô gái trong đêm thao thức, trằn trọc không ngủ được vì nhớ người yêu. Ban đầu, nỗi nhớ được trao, giấu qua nỗi nhớ của khăn, đèn, mắt (Khăn thương nhớ ai, Đèn thương nhớ ai, Mắt thương nhớ ai); sau cùng lộ hiện gắn liền với bao xúc cảm, tâm tư của nhân vật trữ tình (Đêm qua em những lo phiền, lo vì một nỗi không yên một bề).
Lời đề từ trong bài thơ Nhớ (Nông Quốc Chấn) thâu tóm cảm hứng chủ đạo, tư tưởng chủ đề của toàn bài thơ: nỗi nhớ đến cháy lòng (nhớ đến không ngủ được) của người đi kẻ ở.
- Phần thứ nhất: gồm bảy khổ thơ
+ Phép liệt kê kết hợp với các biện pháp hoán dụ, nhân hoá (con suối, con chim, cái nón, chiếc khăn, chiếc cày, chiếc quạt, ngọn đèn - hầu hết là cách hình ảnh gợi hình dung về không gian, đời sống quê hương miền núi - nơi quê nhà của người chiến sĩ) và đại từ phiếm chỉ ai không chỉ xác lập chủ thể và đối tượng của nỗi nhớ mà còn góp phần tô đậm cho tình cảm nhớ thương khôn nguôi trong nhân vật trữ tình.
• Người ở lại quê nhà, nơi miền ngược, đi đâu, làm gì cũng nhớ thương da diết người đi chiến đấu. Nỗi nhớ vượt tràn khỏi trái tim, tâm trí, hoà vào con suối, ùa vào chiếc khăn, cái nón, ngọn đèn,... da diết, mãnh liệt.
• Người đi chiến trường dẫu chắc tay súng cũng không nguôi dứt nỗi nhớ người ở lại và người ở lại. Thường trực trong tâm trí người đi luôn là không gian quê hương, là bóng dáng người thương trong mọi nhịp sống thường ngày.
+ Bảy khổ thơ đều thống nhất trong kiểu cấu trúc được lặp đi lặp lại: câu hỏi tu từ “X... nhớ ai + thời gian/ không gian + không...” (con suối nhớ ai đêm ngày không trách; con chim nhớ ai chiều mai không ngại; cái nón nhớ ai đường dài không quên; chiếc khăn nhớ ai bời bời không phai; chiếc cày nhớ ai hẹn mùa lúa tốt; chiếc quạt nhớ ai gió thoảng mát rượi; ngọn đèn nhớ ai suốt đêm không ngủ) ⟶ tô đậm, khắc sâu nỗi nhớ thường trực.
• Nỗi nhớ dường như hiện diện mọi lúc (đêm đêm ngày ngày, chiều - mai, sáng chiều, suốt đêm), mọi nơi (mây chiều nắng mai, trên đường dài), ngập tràn tâm trí nhân vật trữ tình (trong óc, mái tóc, bên người, lòng, mắt); cảm giác như nhân vật trữ tình dù làm gì, ở đâu, khi nào cũng ngập tràn nỗi nhớ người xa.
• Nỗi nhớ trở thành động lực lớn lao, mạnh mẽ để mỗi người quên đi cảnh ngộ chia li, hoàn thành thật tốt nhiệm vụ của mình (nhắc thầm không trách, xa xôi không ngại, không quên lời dặn, chỉ màu không phai, hẹn mùa lúa tốt, lòng thêm mát rượi, mắt canh trời/ bừng bừng tia lửa). ⟶ Có thể hình dung, nỗi nhớ cháy lòng người thương không những không làm nhụt chí mỗi người đi kẻ ở mà ngược lại, càng thôi thúc, giục giã nhân vật trữ tình không ngừng chiến đấu, không ngừng lao động sản xuất.
Liên hệ:
- Ngôi sao nhớ ai mà sao lấp lánh
Soi sáng đường chiến sĩ giữa đèo mây
Ngọn lửa nhớ ai mà hồng đêm lạnh
Sưởi ấm lòng chiến sĩ dưới ngàn cây
Hàng còn chờ đó, tiếng xe reo
Nằm ngửa nhớ trăng, nằm nghiêng nhớ bến
Nôn nao ngồi dậy nhớ lưng đèo
- Phần thứ hai:
+ Đại từ phiếm chỉ ai đồng thời chỉ cả người đi, kẻ ở (Ai nhớ cứ nhớ/ Ai đi cứ đi) kết hợp với từ cứ tô đậm nhịp sống, nhịp lao động, chiến đấu hằng diễn. Điều này càng chứng tỏ nỗi nhớ không phải là trở lực mà vẫn luôn là động lực thôi thúc lứa đôi chắc tay súng, vững tay cày.
+ Âm điệu lời thơ tươi tắn, an nhiên như hứa hẹn, quyết tâm trọn vẹn công việc, nhiệm vụ và chứa chan niềm tin tưởng vào ngày chiến thắng. Lời thơ không một dấu vết âu lo, dự cảm bất trắc; ngược lại chứa chan tin yêu và đong đầy tình cảm thuỷ chung.
* Đánh giá chung
- Bài thơ Nhớ là tiếng thơ giản dị, mộc mạc; hình ảnh thân thuộc, gần gũi; giọng điệu ăm ắp nhớ thương nhưng tươi tắn, sôi nổi;... khắc sâu nghĩa tình thuỷ chung của người đi - kẻ ở trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh.
- Cùng với nhiều thi phẩm được sáng tác trong giai đoạn 1945 - 1975, bài thơ của Nông Quốc Chấn góp phần làm rõ nét cảm hứng lãng mạn cách mạng, tôn cao thêm bệ đỡ tinh thần, nâng đỡ con người vượt lên trên gian khổ, hi sinh, hướng đến ngày mai thống nhất.
* Giới thiệu khái quát tác giả, tác phẩm
- Nông Quốc Chấn (1923 - 2002) tên khai sinh là Nông Văn Quỳnh, dân tộc Tày, quê ở Bắc Cạn.
+ Là một trong những gương mặt văn hoá tiêu biểu, đại diện cho tầng lớp trí thức các dân tộc thiểu số trưởng thành trong đấu tranh cách mạng và chiến tranh vệ quốc. Đóng góp nổi trội của ông trong lĩnh vực sáng tác là thơ.
+ Thơ ông mang xúc cảm chân thành, chất phác, lời thơ toát lên nét riêng biệt trong suy tư và diễn đạt của người miền núi: giản dị, tự nhiên và giàu hình ảnh.
Năm 2000, ông được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.
- Nhớ:
+ Hoàn cảnh sáng tác: Bài thơ được viết năm 1967. Thời điểm này đất nước ta đang bị chia cắt hai miền bởi đế quốc Mĩ. Công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc đòi hỏi tất cả phải dành tinh thần, vật lực cho miền Nam ruột thịt.
+ Đề tài, nhan đề, chủ đề:
• Đề tài chính: quê hương đất nước (được khéo léo thể hiện qua nỗi nhớ trong tình yêu).
• Nhan đề Nhớ: gói trọn trong đó tình cảm yêu thương, chờ trông, mong đợi của người đi (người lính đi chiến đấu) - kẻ ở (người ở lại hậu phương lao động, sản xuất).
• Chủ đề: tình cảm yêu thương, gắn bó kẻ ở - người đi dành cho nhau trong bối cảnh đất nước có chiến tranh quyện với khát khao giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước để xa cách được đoàn viên.
+ Nhân vật trữ tình: Dựa vào lời đề từ, có thể hiểu nhân vật trữ tình trong bài thơ là người nữ ở nơi quê nhà (vì lời đề từ là tiếng lòng của một cô gái da diết nhớ người yêu). Tuy nhiên, đọc trọn bài thơ, ta cũng có thể hiểu nhân vật trữ tình trong bài thơ là cả người đi và kẻ ở - người lính nơi chiến trường và người phụ nữ (người vợ, người yêu) nơi quê nhà.
+ Cảm hứng chủ đạo: được thể hiện rõ nét qua nhan đề bài thơ (Nhớ) và đậm nét qua điệp khúc nhớ ai suốt dọc bài thơ. Theo đó, bài thơ bộc bạch nỗi nhớ niềm thương của người đi chiến trường, kẻ ở hậu phương trong bối cảnh kháng chiến chống đế quốc Mĩ.
+ Thể thơ: bốn chữ, nhịp thơ ngắn rất phù hợp để biểu đạt xúc cảm tươi tắn, sôi nổi trong nhân vật trữ tình dù lứa đôi có đang trong hoàn cảnh cách xa.
+ Bố cục: Ngoài lời đề từ, bài thơ có thể được chia làm hai phần:
• Phần thứ nhất (từ đầu đến Bừng bừng tia lửa): Nỗi nhớ trong xa cách
• Phần thứ hai (còn lại): Lời hẹn ước và quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ để đoàn viên.
* Phân tích bài thơ Nhớ (Nông Quốc Chấn)
- Lời đề từ:
+ Một bài thơ không nhất thiết phải có lời đề từ tuy nhiên sự xuất hiện của lời đề từ sẽ như một định hướng để nhà thơ trông nhìn vào đó mà triển khai ý tình trong sáng tác của mình (một số thi phẩm có lời đề từ: Tràng giang - Huy Cận, Đàn ghi ta của Lor-ca - Thanh Thảo,...). Theo đó, lời đề từ cũng sẽ giúp người đọc nắm bắt được phần cốt lõi trong lời thơ.
+ Nông Quốc Chấn mượn lại hai dòng trong một bài ca dao để làm đề từ cho bài thơ của mình:
... Đèn thương nhớ ai
mà đèn không tắt...
Bài ca dao vốn là tiếng lòng của một cô gái trong đêm thao thức, trằn trọc không ngủ được vì nhớ người yêu. Ban đầu, nỗi nhớ được trao, giấu qua nỗi nhớ của khăn, đèn, mắt (Khăn thương nhớ ai, Đèn thương nhớ ai, Mắt thương nhớ ai); sau cùng lộ hiện gắn liền với bao xúc cảm, tâm tư của nhân vật trữ tình (Đêm qua em những lo phiền, lo vì một nỗi không yên một bề).
Lời đề từ trong bài thơ Nhớ (Nông Quốc Chấn) thâu tóm cảm hứng chủ đạo, tư tưởng chủ đề của toàn bài thơ: nỗi nhớ đến cháy lòng (nhớ đến không ngủ được) của người đi kẻ ở.
- Phần thứ nhất: gồm bảy khổ thơ
+ Phép liệt kê kết hợp với các biện pháp hoán dụ, nhân hoá (con suối, con chim, cái nón, chiếc khăn, chiếc cày, chiếc quạt, ngọn đèn - hầu hết là cách hình ảnh gợi hình dung về không gian, đời sống quê hương miền núi - nơi quê nhà của người chiến sĩ) và đại từ phiếm chỉ ai không chỉ xác lập chủ thể và đối tượng của nỗi nhớ mà còn góp phần tô đậm cho tình cảm nhớ thương khôn nguôi trong nhân vật trữ tình.
• Người ở lại quê nhà, nơi miền ngược, đi đâu, làm gì cũng nhớ thương da diết người đi chiến đấu. Nỗi nhớ vượt tràn khỏi trái tim, tâm trí, hoà vào con suối, ùa vào chiếc khăn, cái nón, ngọn đèn,... da diết, mãnh liệt.
• Người đi chiến trường dẫu chắc tay súng cũng không nguôi dứt nỗi nhớ người ở lại và người ở lại. Thường trực trong tâm trí người đi luôn là không gian quê hương, là bóng dáng người thương trong mọi nhịp sống thường ngày.
+ Bảy khổ thơ đều thống nhất trong kiểu cấu trúc được lặp đi lặp lại: câu hỏi tu từ “X... nhớ ai + thời gian/ không gian + không...” (con suối nhớ ai đêm ngày không trách; con chim nhớ ai chiều mai không ngại; cái nón nhớ ai đường dài không quên; chiếc khăn nhớ ai bời bời không phai; chiếc cày nhớ ai hẹn mùa lúa tốt; chiếc quạt nhớ ai gió thoảng mát rượi; ngọn đèn nhớ ai suốt đêm không ngủ) ⟶ tô đậm, khắc sâu nỗi nhớ thường trực.
• Nỗi nhớ dường như hiện diện mọi lúc (đêm đêm ngày ngày, chiều - mai, sáng chiều, suốt đêm), mọi nơi (mây chiều nắng mai, trên đường dài), ngập tràn tâm trí nhân vật trữ tình (trong óc, mái tóc, bên người, lòng, mắt); cảm giác như nhân vật trữ tình dù làm gì, ở đâu, khi nào cũng ngập tràn nỗi nhớ người xa.
• Nỗi nhớ trở thành động lực lớn lao, mạnh mẽ để mỗi người quên đi cảnh ngộ chia li, hoàn thành thật tốt nhiệm vụ của mình (nhắc thầm không trách, xa xôi không ngại, không quên lời dặn, chỉ màu không phai, hẹn mùa lúa tốt, lòng thêm mát rượi, mắt canh trời/ bừng bừng tia lửa). ⟶ Có thể hình dung, nỗi nhớ cháy lòng người thương không những không làm nhụt chí mỗi người đi kẻ ở mà ngược lại, càng thôi thúc, giục giã nhân vật trữ tình không ngừng chiến đấu, không ngừng lao động sản xuất.
Liên hệ:
- Ngôi sao nhớ ai mà sao lấp lánh
Soi sáng đường chiến sĩ giữa đèo mây
Ngọn lửa nhớ ai mà hồng đêm lạnh
Sưởi ấm lòng chiến sĩ dưới ngàn cây
(Nhớ - Nguyễn Đình Thi)
- Cái vết thương xoàng mà đưa việnHàng còn chờ đó, tiếng xe reo
Nằm ngửa nhớ trăng, nằm nghiêng nhớ bến
Nôn nao ngồi dậy nhớ lưng đèo
(Nhớ - Phạm Tiến Duật)
+ Âm điệu lời thơ da diết, nồng nàn, tuyệt nhiên không uỷ mị, buồn thương, sầu luỵ (như nỗi nhớ trong Chinh phụ ngâm khúc của Đặng Trần Côn và Đoàn Thị Điểm. Trong Chinh phụ ngâm khúc, người chinh phụ có chồng đi chiến trận héo hon, sầu khổ vì thương nhớ chồng,...)- Phần thứ hai:
+ Đại từ phiếm chỉ ai đồng thời chỉ cả người đi, kẻ ở (Ai nhớ cứ nhớ/ Ai đi cứ đi) kết hợp với từ cứ tô đậm nhịp sống, nhịp lao động, chiến đấu hằng diễn. Điều này càng chứng tỏ nỗi nhớ không phải là trở lực mà vẫn luôn là động lực thôi thúc lứa đôi chắc tay súng, vững tay cày.
+ Âm điệu lời thơ tươi tắn, an nhiên như hứa hẹn, quyết tâm trọn vẹn công việc, nhiệm vụ và chứa chan niềm tin tưởng vào ngày chiến thắng. Lời thơ không một dấu vết âu lo, dự cảm bất trắc; ngược lại chứa chan tin yêu và đong đầy tình cảm thuỷ chung.
* Đánh giá chung
- Bài thơ Nhớ là tiếng thơ giản dị, mộc mạc; hình ảnh thân thuộc, gần gũi; giọng điệu ăm ắp nhớ thương nhưng tươi tắn, sôi nổi;... khắc sâu nghĩa tình thuỷ chung của người đi - kẻ ở trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh.
- Cùng với nhiều thi phẩm được sáng tác trong giai đoạn 1945 - 1975, bài thơ của Nông Quốc Chấn góp phần làm rõ nét cảm hứng lãng mạn cách mạng, tôn cao thêm bệ đỡ tinh thần, nâng đỡ con người vượt lên trên gian khổ, hi sinh, hướng đến ngày mai thống nhất.