I. ĐỌC HIỂU (4,0 điểm)
Đọc đoạn trích:
“Chủ nghĩa hiện thực huyền ảo (magic realism) là một đóng góp to lớn của văn hóa Mỹ La-tinh vào văn hóa loài người nói chung và văn học nói riêng. Hiểu một cách đơn giản nhất, chủ nghĩa hiện thực huyền ảo dựa vào một số sự kiện, chi tiết có thật trong lịch sử, địa điểm có thật trên thực địa nhưng nhà văn đã “cài” vào những yếu tố kì ảo, siêu nhiên để mở rộng tầng nghĩa cho hiện thực, giúp hiện thực trở nên lung linh như là những sự việc xảy ra trong giấc mơ.
G.Mắc-két không phải là người đầu tiên sáng tạo hay đưa chủ nghĩa hiện thực huyền ảo Mỹ La-tinh lên tầm cao thế giới, vinh dự ấy thuộc về nhà văn khiếm thị vĩ đại người Ác-hen-ti-na Hóc-hê Lu-i Bóc-hét (1899 - 1986). Không có nhà văn danh tiếng nào Mỹ La-tinh nửa sau thế kỉ XX có thể chối bỏ ảnh hưởng mạnh mẽ của văn chương Hóc-hê Lu-i Bóc-hét lên tác phẩm của họ, cho dù “người khổng lồ” Bóc-hét chỉ viết truyện ngắn chứ không phải là một tiểu thuyết gia.
Tuy nhiên, ảnh hưởng là một chuyện, còn bị lệ thuộc dưới cái bóng văn chương uy quyền hay không là câu chuyện khác. Sở dĩ văn chương Mỹ La-tinh mạnh mẽ và vẫn còn tiềm năng để phát triển là nhờ ý thức đổi mới của các nhà văn hậu bối luôn muốn viết khác các bậc đàn anh. Khác với Hóc-hê Lu-i Bóc-hét say mê làm một “kiến trúc sư” thiết kế cấu trúc tác phẩm văn chương phức tạp (nhất là cấu trúc mê cung), cố tình sử dụng các trích dẫn, điển cố xa xưa đầy tính uyên bác..., G.Mắc-két lại thích đắm mình vào những câu chuyện dân gian, những huyền thoại đời sống thuở mà văn minh công nghiệp mới bắt đầu bén rễ tại Mỹ La-tinh. Chính sắc thái mới đó khiến nhiều nhà phê bình văn học không ngần ngại gọi G.Mắc-két là một bậc thầy của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo!
Lời khuyên thường gặp nhất để giúp người đọc hiểu thế giới văn chương hiện thực kì ảo của G.Mắc-két vẫn là phải tìm đọc cuốn tiểu thuyết “Trăm năm cô đơn”. Đó là câu chuyện dài về 7 thế hệ trong dòng họ Bu-en-đi-a sống ở ngôi làng Ma-côn-đô với khởi thủy là Hô-sê A-các-đi-ô Bu-en-đi-a bất chấp lời khuyên can về tội loạn luân đã lấy người em họ xa của mình Úc-xu-la I-goa-ran. Các thế hệ tiếp sau sinh ra và lớn lên trong nhiều bối cảnh chiến tranh, xung đột giữa công nhân với giới chủ... đúng như các sự kiện lịch sử vùng đất quê hương A-ra-ca-ta-ca của G.Mắc-két. Nhưng xuyên suốt tác phẩm, G.Mắc-két đã sáng tạo ra những tình tiết đầy ảo diệu như nhân vật “Rê-mê-đi-ô - Người đẹp” suốt đời không vướng vào ái tình đã bay lên trời với chiếc chăn thô trải giường. Hiển nhiên, ai cũng biết những tình tiết trên là phi lí (chỉ có trong mơ mới có!) nhưng vì nó được đặt trong một bối cảnh y như thật, được quy ước là sự thật khiến người đọc chỉ thấy chúng thú vị chứ không “dị ứng” khi thật giả lẫn lộn.
Sức hấp dẫn của “Trăm năm cô đơn” còn thể hiện ở giọng điệu kể chuyện đặc biệt như lời G.Mắc-két nói với vợ: “Anh đã tìm được giọng điệu rồi! Anh sẽ kể câu chuyện này với gương mặt khô cứng như gỗ của bà ngoại kể cho anh nghe những câu chuyện kì lạ, bắt đầu từ cái buổi chiều nọ khi đứa bé được bố đưa đi xem nước đá”. Cuối cùng, cũng không thể quên cấu trúc đặc biệt của “Trăm năm cô đơn” là tiểu thuyết lồng trong tiểu thuyết một cách nhuần nhuyễn, được các nhà văn khắp nơi trên toàn thế giới áp dụng.
Không chỉ có nội dung hấp dẫn, phương thức biểu đạt hoàn hảo, “Trăm năm cô đơn” còn để lại những ẩn dụ chứa đựng thông điệp hết sức sâu sắc về thực tại và tương lai Mỹ La-tinh. Nếu không giữ vững bản sắc mạnh mẽ vốn có, con đường phát triển độc lập, tự chủ thì Mỹ La-tinh sẽ bị hòa tan trở nên cô đơn và bị lãng quên trong thế giới phát triển y như dòng họ Bu-en-đi-a tự tàn lụi, khi người đàn ông cuối cùng của dòng họ bị mọc đuôi lợn do hệ quả của tội loạn luân. Và để có thể chuyển tải, mở rộng ý nghĩa thông điệp, không có con đường nào khác chính là thông qua hiệu quả nghệ thuật của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo!”
(Trích Về huyền thoại “Trăm năm cô đơn” - Trần Hoàng Hoàng, theo qdnd.vn)
Thực hiện các yêu cầu:
“Chủ nghĩa hiện thực huyền ảo (magic realism) là một đóng góp to lớn của văn hóa Mỹ La-tinh vào văn hóa loài người nói chung và văn học nói riêng. Hiểu một cách đơn giản nhất, chủ nghĩa hiện thực huyền ảo dựa vào một số sự kiện, chi tiết có thật trong lịch sử, địa điểm có thật trên thực địa nhưng nhà văn đã “cài” vào những yếu tố kì ảo, siêu nhiên để mở rộng tầng nghĩa cho hiện thực, giúp hiện thực trở nên lung linh như là những sự việc xảy ra trong giấc mơ.
G.Mắc-két không phải là người đầu tiên sáng tạo hay đưa chủ nghĩa hiện thực huyền ảo Mỹ La-tinh lên tầm cao thế giới, vinh dự ấy thuộc về nhà văn khiếm thị vĩ đại người Ác-hen-ti-na Hóc-hê Lu-i Bóc-hét (1899 - 1986). Không có nhà văn danh tiếng nào Mỹ La-tinh nửa sau thế kỉ XX có thể chối bỏ ảnh hưởng mạnh mẽ của văn chương Hóc-hê Lu-i Bóc-hét lên tác phẩm của họ, cho dù “người khổng lồ” Bóc-hét chỉ viết truyện ngắn chứ không phải là một tiểu thuyết gia.
Tuy nhiên, ảnh hưởng là một chuyện, còn bị lệ thuộc dưới cái bóng văn chương uy quyền hay không là câu chuyện khác. Sở dĩ văn chương Mỹ La-tinh mạnh mẽ và vẫn còn tiềm năng để phát triển là nhờ ý thức đổi mới của các nhà văn hậu bối luôn muốn viết khác các bậc đàn anh. Khác với Hóc-hê Lu-i Bóc-hét say mê làm một “kiến trúc sư” thiết kế cấu trúc tác phẩm văn chương phức tạp (nhất là cấu trúc mê cung), cố tình sử dụng các trích dẫn, điển cố xa xưa đầy tính uyên bác..., G.Mắc-két lại thích đắm mình vào những câu chuyện dân gian, những huyền thoại đời sống thuở mà văn minh công nghiệp mới bắt đầu bén rễ tại Mỹ La-tinh. Chính sắc thái mới đó khiến nhiều nhà phê bình văn học không ngần ngại gọi G.Mắc-két là một bậc thầy của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo!
Lời khuyên thường gặp nhất để giúp người đọc hiểu thế giới văn chương hiện thực kì ảo của G.Mắc-két vẫn là phải tìm đọc cuốn tiểu thuyết “Trăm năm cô đơn”. Đó là câu chuyện dài về 7 thế hệ trong dòng họ Bu-en-đi-a sống ở ngôi làng Ma-côn-đô với khởi thủy là Hô-sê A-các-đi-ô Bu-en-đi-a bất chấp lời khuyên can về tội loạn luân đã lấy người em họ xa của mình Úc-xu-la I-goa-ran. Các thế hệ tiếp sau sinh ra và lớn lên trong nhiều bối cảnh chiến tranh, xung đột giữa công nhân với giới chủ... đúng như các sự kiện lịch sử vùng đất quê hương A-ra-ca-ta-ca của G.Mắc-két. Nhưng xuyên suốt tác phẩm, G.Mắc-két đã sáng tạo ra những tình tiết đầy ảo diệu như nhân vật “Rê-mê-đi-ô - Người đẹp” suốt đời không vướng vào ái tình đã bay lên trời với chiếc chăn thô trải giường. Hiển nhiên, ai cũng biết những tình tiết trên là phi lí (chỉ có trong mơ mới có!) nhưng vì nó được đặt trong một bối cảnh y như thật, được quy ước là sự thật khiến người đọc chỉ thấy chúng thú vị chứ không “dị ứng” khi thật giả lẫn lộn.
Sức hấp dẫn của “Trăm năm cô đơn” còn thể hiện ở giọng điệu kể chuyện đặc biệt như lời G.Mắc-két nói với vợ: “Anh đã tìm được giọng điệu rồi! Anh sẽ kể câu chuyện này với gương mặt khô cứng như gỗ của bà ngoại kể cho anh nghe những câu chuyện kì lạ, bắt đầu từ cái buổi chiều nọ khi đứa bé được bố đưa đi xem nước đá”. Cuối cùng, cũng không thể quên cấu trúc đặc biệt của “Trăm năm cô đơn” là tiểu thuyết lồng trong tiểu thuyết một cách nhuần nhuyễn, được các nhà văn khắp nơi trên toàn thế giới áp dụng.
Không chỉ có nội dung hấp dẫn, phương thức biểu đạt hoàn hảo, “Trăm năm cô đơn” còn để lại những ẩn dụ chứa đựng thông điệp hết sức sâu sắc về thực tại và tương lai Mỹ La-tinh. Nếu không giữ vững bản sắc mạnh mẽ vốn có, con đường phát triển độc lập, tự chủ thì Mỹ La-tinh sẽ bị hòa tan trở nên cô đơn và bị lãng quên trong thế giới phát triển y như dòng họ Bu-en-đi-a tự tàn lụi, khi người đàn ông cuối cùng của dòng họ bị mọc đuôi lợn do hệ quả của tội loạn luân. Và để có thể chuyển tải, mở rộng ý nghĩa thông điệp, không có con đường nào khác chính là thông qua hiệu quả nghệ thuật của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo!”
(Trích Về huyền thoại “Trăm năm cô đơn” - Trần Hoàng Hoàng, theo qdnd.vn)
Thực hiện các yêu cầu:
Câu 1 [704860]: Đoạn trích gồm mấy phần? Chỉ ra nội dung chính của từng phần.
Đoạn trích gồm các phần:
- Phần thứ nhất (từ đầu đến những sự việc xảy ra trong giấc mơ): giới thiệu chủ nghĩa hiện thực huyền ảo (magic realism).
- Phần thứ hai (tiếp đến một bậc thầy của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo!): giới thiệu G. Mắc-két - bậc thầy của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo.
- Phần thứ ba (còn lại): giới thiệu Trăm năm cô đơn (G. Mắc-két) - tác phẩm tiêu biểu cho chủ nghĩa hiện thực huyền ảo.
- Phần thứ nhất (từ đầu đến những sự việc xảy ra trong giấc mơ): giới thiệu chủ nghĩa hiện thực huyền ảo (magic realism).
- Phần thứ hai (tiếp đến một bậc thầy của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo!): giới thiệu G. Mắc-két - bậc thầy của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo.
- Phần thứ ba (còn lại): giới thiệu Trăm năm cô đơn (G. Mắc-két) - tác phẩm tiêu biểu cho chủ nghĩa hiện thực huyền ảo.
Câu 2 [704861]: Theo đoạn trích, sự khác biệt giữa G. Mắc-két và Hóc-hê Lu-i Bóc-hét là gì?
Theo đoạn trích, sự khác biệt giữa G. Mắc-két và Hóc-hê Lu-i Bóc-hét là:
- Hóc-hê Lu-i Bóc-hét say mê làm một “kiến trúc sư” thiết kế cấu trúc tác phẩm văn chương phức tạp (nhất là cấu trúc mê cung), cố tình sử dụng các trích dẫn, điển cố xa xưa đầy tính uyên bác...
- G.Mắc-két lại thích đắm mình vào những câu chuyện dân gian, những huyền thoại đời sống thuở mà văn minh công nghiệp mới bắt đầu bén rễ tại Mỹ La-tinh.
- Hóc-hê Lu-i Bóc-hét say mê làm một “kiến trúc sư” thiết kế cấu trúc tác phẩm văn chương phức tạp (nhất là cấu trúc mê cung), cố tình sử dụng các trích dẫn, điển cố xa xưa đầy tính uyên bác...
- G.Mắc-két lại thích đắm mình vào những câu chuyện dân gian, những huyền thoại đời sống thuở mà văn minh công nghiệp mới bắt đầu bén rễ tại Mỹ La-tinh.
Câu 3 [704862]: Lời khuyên thường gặp nhất để giúp người đọc hiểu thế giới văn chương hiện thực kì ảo của G.Mắc-két vẫn là phải tìm đọc cuốn tiểu thuyết “Trăm năm cô đơn”.
Chi tiết trên giúp người đọc hiểu gì về cuốn tiểu thuyết Trăm năm cô đơn của G. Mắc-két?
Chi tiết trên giúp người đọc hiểu gì về cuốn tiểu thuyết Trăm năm cô đơn của G. Mắc-két?
Lời khuyên thường gặp nhất để giúp người đọc hiểu thế giới văn chương hiện thực kì ảo của G.Mắc-két vẫn là phải tìm đọc cuốn tiểu thuyết “Trăm năm cô đơn”.
Chi tiết trên khẳng định tiểu thuyết Trăm năm cô đơn của G. Mắc-két là tác phẩm tiêu biểu, có thể đại diện cho chủ nghĩa hiện thực huyền ảo.
Chi tiết trên khẳng định tiểu thuyết Trăm năm cô đơn của G. Mắc-két là tác phẩm tiêu biểu, có thể đại diện cho chủ nghĩa hiện thực huyền ảo.
Câu 4 [704863]: Và để có thể chuyển tải, mở rộng ý nghĩa thông điệp, không có con đường nào khác chính là thông qua hiệu quả nghệ thuật của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo!
Câu văn trên cho thấy mối quan hệ nào giữa các phương diện nội dung và hình thức nghệ thuật của một tác phẩm văn chương?
Câu văn trên cho thấy mối quan hệ nào giữa các phương diện nội dung và hình thức nghệ thuật của một tác phẩm văn chương?
Và để có thể chuyển tải, mở rộng ý nghĩa thông điệp, không có con đường nào khác chính là thông qua hiệu quả nghệ thuật của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo!
Các từ ngữ thông điệp, nghệ thuật trong câu văn trên nêu lên các phương diện nội dung và hình thức của một tác phẩm văn chương. Theo đó, thông điệp - một phương diện thuộc nội dung được chuyển tải thông qua hình thức nghệ thuật của tác phẩm.
Các từ ngữ thông điệp, nghệ thuật trong câu văn trên nêu lên các phương diện nội dung và hình thức của một tác phẩm văn chương. Theo đó, thông điệp - một phương diện thuộc nội dung được chuyển tải thông qua hình thức nghệ thuật của tác phẩm.
Câu 5 [704864]: Hiểu một cách đơn giản nhất, chủ nghĩa hiện thực huyền ảo dựa vào một số sự kiện, chi tiết có thật trong lịch sử, địa điểm có thật trên thực địa nhưng nhà văn đã “cài” vào những yếu tố kì ảo, siêu nhiên để mở rộng tầng nghĩa cho hiện thực, giúp hiện thực trở nên lung linh như là những sự việc xảy ra trong giấc mơ.
Từ câu văn trên, rút ra bài học kinh nghiệm cho việc đọc hiểu sáng tác viết theo chủ nghĩa hiện thực huyền ảo.
Từ câu văn trên, rút ra bài học kinh nghiệm cho việc đọc hiểu sáng tác viết theo chủ nghĩa hiện thực huyền ảo.
Hiểu một cách đơn giản nhất, chủ nghĩa hiện thực huyền ảo dựa vào một số sự kiện, chi tiết có thật trong lịch sử, địa điểm có thật trên thực địa nhưng nhà văn đã “cài” vào những yếu tố kì ảo, siêu nhiên để mở rộng tầng nghĩa cho hiện thực, giúp hiện thực trở nên lung linh như là những sự việc xảy ra trong giấc mơ.
Từ câu văn trên, có thể rút ra bài học kinh nghiệm cho việc đọc hiểu sáng tác viết theo chủ nghĩa hiện thực huyền ảo:
- Nhận diện trong tác phẩm các yếu tố kì ảo, siêu nhiên
- Kết nối yếu tố kì ảo, siêu nhiên với hiện thực (sự kiện, chi tiết có thật trong lịch sử, địa điểm có thật trên thực địa) để lí giải, suy luận, phân tích, đánh giá,...
Từ câu văn trên, có thể rút ra bài học kinh nghiệm cho việc đọc hiểu sáng tác viết theo chủ nghĩa hiện thực huyền ảo:
- Nhận diện trong tác phẩm các yếu tố kì ảo, siêu nhiên
- Kết nối yếu tố kì ảo, siêu nhiên với hiện thực (sự kiện, chi tiết có thật trong lịch sử, địa điểm có thật trên thực địa) để lí giải, suy luận, phân tích, đánh giá,...
II. VIẾT (6,0 điểm)
Câu 6 [704865]: (2,0 điểm)
Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về ý nghĩa của sự sáng tạo.
Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về ý nghĩa của sự sáng tạo.
Đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ về ý nghĩa của sự sáng tạo có thể được triển khai theo hướng:
- Sáng tạo: tạo nên điều mới lạ, khác biệt mang giá trị.
- Ý nghĩa của sự sáng tạo:
+ Giúp mỗi người khẳng định được bản thân mình, ghi dấu sự tồn tại độc lập và giá trị của bản thân trong cuộc đời (Chẳng hạn: sáng tạo trong nghệ thuật tạo nên phong cách cho các nghệ sĩ; sáng tạo trong khoa học kĩ thuật tạo nên những đột phá trong lao động sản xuất, là nên các thương hiệu riêng biệt;...); tạo nên nhiều giá trị độc đáo đóng góp cho xã hội, từ đó được cộng đồng xã hội yêu mến, trân trọng (bất cứ sáng tạo nào mang lại giá trị tích cực cũng sẽ được cộng đồng đón nhận);...
+ Góp phần tạo nên sự đa dạng, phong phú cho cuộc sống, làm cuộc sống trở nên tươi đẹp, nhiều màu sắc hơn (sự xuất hiện của cái mới bên cạnh cái cũ sẽ làm cho sự sống muôn màu muôn vẻ. Chẳng hạn: công nghệ in 3D được ứng dụng trong y học hiện đại đang tạo nên những phép màu thần kì, giúp cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc sống cho con người.); góp phần thúc đẩy sự phát triển của xã hội (khi cái mới xuất hiện và tạo nên giá trị tốt hơn, nó sẽ phủ nhận cái cũ. Chẳng hạn: dòng xe điện thân thiện với môi trường có xu hướng thay thế dòng xe chạy nhiên liệu xăng, dầu.);...
- Sáng tạo: tạo nên điều mới lạ, khác biệt mang giá trị.
- Ý nghĩa của sự sáng tạo:
+ Giúp mỗi người khẳng định được bản thân mình, ghi dấu sự tồn tại độc lập và giá trị của bản thân trong cuộc đời (Chẳng hạn: sáng tạo trong nghệ thuật tạo nên phong cách cho các nghệ sĩ; sáng tạo trong khoa học kĩ thuật tạo nên những đột phá trong lao động sản xuất, là nên các thương hiệu riêng biệt;...); tạo nên nhiều giá trị độc đáo đóng góp cho xã hội, từ đó được cộng đồng xã hội yêu mến, trân trọng (bất cứ sáng tạo nào mang lại giá trị tích cực cũng sẽ được cộng đồng đón nhận);...
+ Góp phần tạo nên sự đa dạng, phong phú cho cuộc sống, làm cuộc sống trở nên tươi đẹp, nhiều màu sắc hơn (sự xuất hiện của cái mới bên cạnh cái cũ sẽ làm cho sự sống muôn màu muôn vẻ. Chẳng hạn: công nghệ in 3D được ứng dụng trong y học hiện đại đang tạo nên những phép màu thần kì, giúp cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc sống cho con người.); góp phần thúc đẩy sự phát triển của xã hội (khi cái mới xuất hiện và tạo nên giá trị tốt hơn, nó sẽ phủ nhận cái cũ. Chẳng hạn: dòng xe điện thân thiện với môi trường có xu hướng thay thế dòng xe chạy nhiên liệu xăng, dầu.);...
Câu 7 [704866]: (4,0 điểm)
Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) cảm nhận về hình ảnh quê hương đất nước trong đoạn trích sau:
“[...]
Nam bộ
Nam bộ
Chín nhánh Mê Kông phù sa nổi váng
Ruộng bãi Mê Kông trồng không hết lúa
Bến nước Mê Kông tôm cá ngợp thuyền
Sầu riêng thơm dậy đất Thủ Biên
Suối mát dội trong lòng dừa trĩu quả.
Mê Kông quặn đẻ
Chín nhánh sông vàng
Nông dân Nam bộ gối đất nằm sương
Mồ hôi vã bãi lầy thành đồng lúa
Thành những tên đọc lên nước mắt đều muốn ứa
Những Hà Tiên, Gia Định, Long Châu
Những Gò Công, Gò Vấp, Đồng Tháp, Cà Mau
Những mặt đất
Cha ông ta nhắm mắt
Truyền cháu con không bao giờ chia cắt.
Ta đã lớn
Thầy giáo già đã khuất
Thước bảng to nay thành cán cờ sao
Những tên làm man mác tuổi thơ xưa
Đã thấm máu của bao hồn bất tử
Mười sáu tuổi xanh xanh
Những Minh Khai, Hà Huy Tập, Lê Hồng Phong, Trần Phú
Những bông hoa DÂN TỘC ANH HÙNG
Võ Thị Sáu vành răng cắn chặt
Giữ trung trinh cho đến phút cuối cùng
Đạn giặc xuyên lỗ chỗ ngực măng non
Em Đuốc sống đốt mình phá tan kho đạn giặc
Đỏ thắm nụ cười
Chào Bác Hồ và Việt Nam bất diệt.
[...]
1955
Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) cảm nhận về hình ảnh quê hương đất nước trong đoạn trích sau:
“[...]
Nam bộ
Nam bộ
Chín nhánh Mê Kông phù sa nổi váng
Ruộng bãi Mê Kông trồng không hết lúa
Bến nước Mê Kông tôm cá ngợp thuyền
Sầu riêng thơm dậy đất Thủ Biên
Suối mát dội trong lòng dừa trĩu quả.
Mê Kông quặn đẻ
Chín nhánh sông vàng
Nông dân Nam bộ gối đất nằm sương
Mồ hôi vã bãi lầy thành đồng lúa
Thành những tên đọc lên nước mắt đều muốn ứa
Những Hà Tiên, Gia Định, Long Châu
Những Gò Công, Gò Vấp, Đồng Tháp, Cà Mau
Những mặt đất
Cha ông ta nhắm mắt
Truyền cháu con không bao giờ chia cắt.
Ta đã lớn
Thầy giáo già đã khuất
Thước bảng to nay thành cán cờ sao
Những tên làm man mác tuổi thơ xưa
Đã thấm máu của bao hồn bất tử
Mười sáu tuổi xanh xanh
Những Minh Khai, Hà Huy Tập, Lê Hồng Phong, Trần Phú
Những bông hoa DÂN TỘC ANH HÙNG
Võ Thị Sáu vành răng cắn chặt
Giữ trung trinh cho đến phút cuối cùng
Đạn giặc xuyên lỗ chỗ ngực măng non
Em Đuốc sống đốt mình phá tan kho đạn giặc
Đỏ thắm nụ cười
Chào Bác Hồ và Việt Nam bất diệt.
[...]
1955
(Trích Cửu Long giang ta ơi - Nguyên Hồng, theo vnu.edu.vn)
Bài văn cảm nhận về hình ảnh quê hương đất nước trong đoạn trích từ bài thơ Cửu Long giang ta ơi (Nguyên Hồng) có thể triển khai theo nhiều cách, song cần bảo đảm các ý chính:
* Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm, đoạn trích
- Nguyên Hồng:
+ Vị trí: là một trong những gương mặt tiêu biểu của nền văn học Việt Nam.
+ Đặc điểm sáng tác: sáng tác ở nhiều thể loại (truyện ngắn, tiểu thuyết, kí, thơ,...); tác phẩm của ông tràn đầy cảm xúc chân thành, mãnh liệt với con người và cuộc sống.
- Cửu Long giang ta ơi:
+ Xuất xứ: nằm trong tập thơ Trời xanh.
+ Đề tài: quê hương đất nước.
+ Chủ đề: tình yêu, niềm tự hào về quê hương đất nước.
+ Nhan đề: tiếng gọi tha thiết, thể hiện tình cảm đối với từng tấc đất của cha ông.
+ Thể thơ: tự do.
+ Nhân vật trữ tình: ta (có thể hiểu là tác giả nhưng ta cũng có thể đại diện cho hết thảy người dân Việt Nam).
+ Cảm hứng chủ đạo: tình yêu, lòng tự hào sâu sắc về quê hương đất nước.
- Đoạn trích:
+ Nội dung chính: vẻ đẹp của mảnh đất Nam Bộ và tình yêu quê hương đất nước của con người Việt Nam.
+ Bố cục:
• Hai đoạn đầu (từ Nam bộ đến không bao giờ chia cắt): vẻ đẹp của thiên nhiên và con người Nam Bộ “từ thuở mang gươm đi mở cõi”.
• Đoạn còn lại: tình yêu hoá thành quyết tâm giữ gìn, bảo vệ Nam Bộ của hết thảy nhân dân Việt Nam.
* Cảm nhận về hình ảnh quê hương đất nước trong đoạn trích
** Phần thứ nhất (từ Nam bộ đến không bao giờ chia cắt): Vẻ đẹp của thiên nhiên, con người:
- Thiên nhiên:
+ Được thể hiện qua các chi tiết: phù sa nổi váng, ruộng bãi trồng không hết lúa, tôm cá ngợp thuyền, sầu riêng thơm dậy đất, dừa trĩu quả mát ngọt, chín nhánh sông vàng,...
+ Tác giả kết hợp vận dụng nhiều biện pháp tu từ liệt kê (không gian: phù sa, ruộng bãi, bến nước, suối mát, đồng lúa; sản vật: lúa, tôm cá, sầu riêng, dừa; địa danh: Hà Tiên, Gia Định, Long Châu, Gò Công, Gò Vấp, Đồng Tháp, Cà Mau); nhân hoá (Mê Kông quặn đẻ); ẩn dụ (Chín nhánh sông vàng).
+ Sử dụng từ ngữ giàu sức gợi hình, gợi cảm (nổi váng, ngợp thuyền, thơm dậy đất, mát dội, trĩu quả).
+ Giọng điệu hân hoan, ngợi ca.
⟶ Góp phần tô đậm một Nam Bộ mênh mông, rộng lớn, bao la khoáng đạt; nơi đất lành, giàu có, trù phú, hoa thơm trái ngọt quanh năm,...
- Con người:
+ Được thể hiện qua các chi tiết: gối đất nằm sương/ Mồ hôi vã bãi lầy thành đồng lúa ⟶ Ngôn ngữ giàu sức gợi hình, gợi cảm, gần gũi với lời ăn tiếng nói của nhân dân (tục ngữ dân gian: gối tuyết nằm sương, trồng lau ra mía) gợi hình ảnh nhân dân vất vả, cực nhọc cùng bùn đất để gây dựng quê hương.
+ Các hoán dụ (theo cơ chế lấy vật chứa đựng gọi tên cho vật bị chứa đựng: Những Hà Tiên, Gia Định, Long Châu, Những Gò Công, Gò Vấp, Đồng Tháp, Cà Mau) gợi hình ảnh hết thảy nhân dân ở khắp nơi trên dải đất Nam Bộ đều đồng lòng cực nhọc, vượt khó khai khẩn đất hoang, mở mang bờ cõi quê hương.
+ Chi tiết Cha ông ta nhắm mắt/ Truyền cháu con không bao giờ chia cắt khơi gợi tình yêu quê hương đất nước tha thiết cũng như ý thức về chủ quyền dân tộc của nhân dân Nam Bộ nói riêng và con người Việt Nam nói chung.
+ Giọng điệu trầm lắng, chan chứa yêu thương, tự hào, biết ơn, trân trọng.
- Tình cảm, cảm xúc của nhân vật trữ tình:
+ Hân hoan, tự hào khi ngợi ca vẻ đẹp giàu có, trù phú của Nam Bộ nói riêng và quê hương đất nước nói chung.
+ Trân trọng, ngợi ca, yêu thương, tự hào trước công lao mở cõi của cha ông: những tên đọc lên nước mắt đều muốn ứa.
** Phần thứ hai (còn lại): tình yêu hoá thành quyết tâm giữ gìn, bảo vệ Nam Bộ của hết thảy nhân dân Việt Nam
- Cảm nhận sâu sắc về bề dày lịch sử và truyền thống yêu nước của ông cha
+ Phép liệt kê bao hồn bất tử: Những Minh Khai, Hà Huy Tập, Lê Hồng Phong, Trần Phú, Võ Thị Sáu, Em Đuốc sống (Lê Văn Tám),...; ẩn dụ (những bông hoa dân tộc anh hùng, mười sáu tuổi xanh xanh) ⟶ gợi hình ảnh những con người đã sống chết giữ gìn đất đai sông núi, sống chết vì quê hương đất nước.
+ Các từ ngữ bất tử, xanh xanh, những bông hoa, anh hùng, cắn chặt, trung trinh, măng non, đỏ thắm, bất diệt ⟶ tô đậm sức sống, sự kiên trung,... của con người Việt Nam trong công cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
- Cảm xúc của nhân vật trữ tình ta:
+ Ta đã lớn: ta trưởng thành.
+ Giọng điệu trầm lắng, hào hùng, bồi hồi, xúc động,...
* Đánh giá chung
- Với thể thơ tự do, ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, giàu hình ảnh, giàu cảm xúc, cách sử dụng khéo léo các biện pháp tu từ,..., Nguyên Hồng không chỉ ngợi ca vẻ đẹp của thiên nhiên và con người Nam Bộ mà còn nâng xúc cảm lời thơ thành tình yêu quê hương đất nước của con người Việt Nam.
- Đoạn trích nói riêng và bài thơ Cửu Long giang ta ơi nói chung cùng những thi phẩm Đi trong hương tràm (Hoài Vũ), Nhớ mưa quê hương (Lê Anh Xuân),... đã dệt nên trường ca bất tận về Nam Bộ và quê hương đất nước Việt Nam.
* Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm, đoạn trích
- Nguyên Hồng:
+ Vị trí: là một trong những gương mặt tiêu biểu của nền văn học Việt Nam.
+ Đặc điểm sáng tác: sáng tác ở nhiều thể loại (truyện ngắn, tiểu thuyết, kí, thơ,...); tác phẩm của ông tràn đầy cảm xúc chân thành, mãnh liệt với con người và cuộc sống.
- Cửu Long giang ta ơi:
+ Xuất xứ: nằm trong tập thơ Trời xanh.
+ Đề tài: quê hương đất nước.
+ Chủ đề: tình yêu, niềm tự hào về quê hương đất nước.
+ Nhan đề: tiếng gọi tha thiết, thể hiện tình cảm đối với từng tấc đất của cha ông.
+ Thể thơ: tự do.
+ Nhân vật trữ tình: ta (có thể hiểu là tác giả nhưng ta cũng có thể đại diện cho hết thảy người dân Việt Nam).
+ Cảm hứng chủ đạo: tình yêu, lòng tự hào sâu sắc về quê hương đất nước.
- Đoạn trích:
+ Nội dung chính: vẻ đẹp của mảnh đất Nam Bộ và tình yêu quê hương đất nước của con người Việt Nam.
+ Bố cục:
• Hai đoạn đầu (từ Nam bộ đến không bao giờ chia cắt): vẻ đẹp của thiên nhiên và con người Nam Bộ “từ thuở mang gươm đi mở cõi”.
• Đoạn còn lại: tình yêu hoá thành quyết tâm giữ gìn, bảo vệ Nam Bộ của hết thảy nhân dân Việt Nam.
* Cảm nhận về hình ảnh quê hương đất nước trong đoạn trích
** Phần thứ nhất (từ Nam bộ đến không bao giờ chia cắt): Vẻ đẹp của thiên nhiên, con người:
- Thiên nhiên:
+ Được thể hiện qua các chi tiết: phù sa nổi váng, ruộng bãi trồng không hết lúa, tôm cá ngợp thuyền, sầu riêng thơm dậy đất, dừa trĩu quả mát ngọt, chín nhánh sông vàng,...
+ Tác giả kết hợp vận dụng nhiều biện pháp tu từ liệt kê (không gian: phù sa, ruộng bãi, bến nước, suối mát, đồng lúa; sản vật: lúa, tôm cá, sầu riêng, dừa; địa danh: Hà Tiên, Gia Định, Long Châu, Gò Công, Gò Vấp, Đồng Tháp, Cà Mau); nhân hoá (Mê Kông quặn đẻ); ẩn dụ (Chín nhánh sông vàng).
+ Sử dụng từ ngữ giàu sức gợi hình, gợi cảm (nổi váng, ngợp thuyền, thơm dậy đất, mát dội, trĩu quả).
+ Giọng điệu hân hoan, ngợi ca.
⟶ Góp phần tô đậm một Nam Bộ mênh mông, rộng lớn, bao la khoáng đạt; nơi đất lành, giàu có, trù phú, hoa thơm trái ngọt quanh năm,...
- Con người:
+ Được thể hiện qua các chi tiết: gối đất nằm sương/ Mồ hôi vã bãi lầy thành đồng lúa ⟶ Ngôn ngữ giàu sức gợi hình, gợi cảm, gần gũi với lời ăn tiếng nói của nhân dân (tục ngữ dân gian: gối tuyết nằm sương, trồng lau ra mía) gợi hình ảnh nhân dân vất vả, cực nhọc cùng bùn đất để gây dựng quê hương.
+ Các hoán dụ (theo cơ chế lấy vật chứa đựng gọi tên cho vật bị chứa đựng: Những Hà Tiên, Gia Định, Long Châu, Những Gò Công, Gò Vấp, Đồng Tháp, Cà Mau) gợi hình ảnh hết thảy nhân dân ở khắp nơi trên dải đất Nam Bộ đều đồng lòng cực nhọc, vượt khó khai khẩn đất hoang, mở mang bờ cõi quê hương.
+ Chi tiết Cha ông ta nhắm mắt/ Truyền cháu con không bao giờ chia cắt khơi gợi tình yêu quê hương đất nước tha thiết cũng như ý thức về chủ quyền dân tộc của nhân dân Nam Bộ nói riêng và con người Việt Nam nói chung.
+ Giọng điệu trầm lắng, chan chứa yêu thương, tự hào, biết ơn, trân trọng.
- Tình cảm, cảm xúc của nhân vật trữ tình:
+ Hân hoan, tự hào khi ngợi ca vẻ đẹp giàu có, trù phú của Nam Bộ nói riêng và quê hương đất nước nói chung.
+ Trân trọng, ngợi ca, yêu thương, tự hào trước công lao mở cõi của cha ông: những tên đọc lên nước mắt đều muốn ứa.
** Phần thứ hai (còn lại): tình yêu hoá thành quyết tâm giữ gìn, bảo vệ Nam Bộ của hết thảy nhân dân Việt Nam
- Cảm nhận sâu sắc về bề dày lịch sử và truyền thống yêu nước của ông cha
+ Phép liệt kê bao hồn bất tử: Những Minh Khai, Hà Huy Tập, Lê Hồng Phong, Trần Phú, Võ Thị Sáu, Em Đuốc sống (Lê Văn Tám),...; ẩn dụ (những bông hoa dân tộc anh hùng, mười sáu tuổi xanh xanh) ⟶ gợi hình ảnh những con người đã sống chết giữ gìn đất đai sông núi, sống chết vì quê hương đất nước.
+ Các từ ngữ bất tử, xanh xanh, những bông hoa, anh hùng, cắn chặt, trung trinh, măng non, đỏ thắm, bất diệt ⟶ tô đậm sức sống, sự kiên trung,... của con người Việt Nam trong công cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
- Cảm xúc của nhân vật trữ tình ta:
+ Ta đã lớn: ta trưởng thành.
+ Giọng điệu trầm lắng, hào hùng, bồi hồi, xúc động,...
* Đánh giá chung
- Với thể thơ tự do, ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, giàu hình ảnh, giàu cảm xúc, cách sử dụng khéo léo các biện pháp tu từ,..., Nguyên Hồng không chỉ ngợi ca vẻ đẹp của thiên nhiên và con người Nam Bộ mà còn nâng xúc cảm lời thơ thành tình yêu quê hương đất nước của con người Việt Nam.
- Đoạn trích nói riêng và bài thơ Cửu Long giang ta ơi nói chung cùng những thi phẩm Đi trong hương tràm (Hoài Vũ), Nhớ mưa quê hương (Lê Anh Xuân),... đã dệt nên trường ca bất tận về Nam Bộ và quê hương đất nước Việt Nam.