I. ĐỌC HIỂU (4,0 điểm)
Đọc đoạn trích:
“Ở Quảng Ninh có nhiều trò chơi dân gian như nhảy sạp, đi cà kheo, cừ cáy, cừ pộc hay đánh đu... với sắc màu đa dạng của đồng bào dân tộc thiểu số, các trò chơi dân gian cũng mang đậm dấu ấn văn hóa các dân tộc Tày, Dao, Sán Dìu và Sán Chay. Độc đáo nhất có thể kể đến trò chơi đánh con quay. Trò chơi đánh con quay của đồng bào Tày, đồng bào Sán Chỉ không chỉ thể hiện sức mạnh của người đàn ông trong lao động sản xuất mà còn là ngày hội để bà con dân bản được giao lưu gặp gỡ cùng cầu chúc mọi điều tốt lành, sức khỏe, bình an và sung túc.
Khi xưa chưa có máy móc hỗ trợ, việc làm con quay rất vất vả và mất nhiều thời gian để chọn gỗ, xẻ nhỏ rồi gọt, giũa, mài nhẵn đều là dùng dao tỉa tót từng chút một. Gỗ làm con quay từ cây dẻ đá có chất gỗ cứng, dẻo và bền chắc. Tiện con quay phải tạo ra độ thăng bằng thì khi đánh, con quay mới đi xa và tạo thời gian quay lâu, bền trên tấm ván...
Ngoài ra bộ đánh quay còn có dây đánh quay dài từ 6 - 8m (làm bằng dây dù có độ bền, chắc và trơn, được nối với một đoạn păng (hay còn gọi là gậy păng) làm bằng trúc rừng hoặc cây tre mai hay còn gọi là tre gai. Mỗi con quay hoàn chỉnh sẽ có trọng lượng từ 3 - 4kg, đường kính từ 20 - 24cm, độ dày 6cm.
Luật chơi đánh quay rất đơn giản, người chơi thường quấn theo chiều tay thuận của mình để có thể đánh con quay mạnh và lật đổ đối phương. Mỗi lần con quay được văng ra thể hiện sức mạnh của người đàn ông trong bản. Nếu con quay của đội nào quay càng lâu trên miếng ván làm bằng gỗ rừng ít nhất từ 10 - 15 phút thì đội đó sẽ là người chiến thắng.
Không chỉ tổ chức ở các lễ hội, trò chơi dân gian còn diễn ra ở nhiều nhà văn hoá, khu bảo tồn văn hoá cộng đồng các dân tộc thiểu số. Nhiều nhà văn hoá xã được đầu tư xây dựng quy mô như: Khu bảo tồn văn hoá người Dao ở xã Bằng Cả (Thành phố Hạ Long), Nhà văn hoá người Sán Chỉ xã Đại Dực, khu bảo tồn văn hoá dân tộc Tày ở thôn Đồng Đình, xã Phong Dụ (huyện Tiên Yên), Nhà văn hoá xã Lục Hồn (huyện Bình Liêu), Nhà văn hoá dân tộc Sán Dìu, xã Bình Dân (huyện Vân Đồn).
Trò chơi dân gian của các dân tộc Quảng Ninh có giá trị lịch sử văn hóa được lưu truyền qua các thế hệ đã có nhiều biến thể để phù hợp hơn với đời sống xã hội. Đây là một phần không thể thiếu trong kí ức tuổi thơ của rất nhiều thế hệ tạo sợi dây gắn kết giữa các thế hệ trong cộng đồng làng bản. Trước bối cảnh bùng nổ nhiều loại hình giải trí hiện đại, trò chơi dân gian của đồng bào các dân tộc Quảng Ninh vẫn luôn có sức hấp dẫn riêng, là nét đẹp văn hóa trong các lễ hội truyền thống, nhằm góp phần nâng cao thể chất, giáo dục ý thức gìn giữ bản sắc, truyền thống văn hóa cho thế hệ trẻ.”
“Ở Quảng Ninh có nhiều trò chơi dân gian như nhảy sạp, đi cà kheo, cừ cáy, cừ pộc hay đánh đu... với sắc màu đa dạng của đồng bào dân tộc thiểu số, các trò chơi dân gian cũng mang đậm dấu ấn văn hóa các dân tộc Tày, Dao, Sán Dìu và Sán Chay. Độc đáo nhất có thể kể đến trò chơi đánh con quay. Trò chơi đánh con quay của đồng bào Tày, đồng bào Sán Chỉ không chỉ thể hiện sức mạnh của người đàn ông trong lao động sản xuất mà còn là ngày hội để bà con dân bản được giao lưu gặp gỡ cùng cầu chúc mọi điều tốt lành, sức khỏe, bình an và sung túc.
Khi xưa chưa có máy móc hỗ trợ, việc làm con quay rất vất vả và mất nhiều thời gian để chọn gỗ, xẻ nhỏ rồi gọt, giũa, mài nhẵn đều là dùng dao tỉa tót từng chút một. Gỗ làm con quay từ cây dẻ đá có chất gỗ cứng, dẻo và bền chắc. Tiện con quay phải tạo ra độ thăng bằng thì khi đánh, con quay mới đi xa và tạo thời gian quay lâu, bền trên tấm ván...
Ngoài ra bộ đánh quay còn có dây đánh quay dài từ 6 - 8m (làm bằng dây dù có độ bền, chắc và trơn, được nối với một đoạn păng (hay còn gọi là gậy păng) làm bằng trúc rừng hoặc cây tre mai hay còn gọi là tre gai. Mỗi con quay hoàn chỉnh sẽ có trọng lượng từ 3 - 4kg, đường kính từ 20 - 24cm, độ dày 6cm.
Luật chơi đánh quay rất đơn giản, người chơi thường quấn theo chiều tay thuận của mình để có thể đánh con quay mạnh và lật đổ đối phương. Mỗi lần con quay được văng ra thể hiện sức mạnh của người đàn ông trong bản. Nếu con quay của đội nào quay càng lâu trên miếng ván làm bằng gỗ rừng ít nhất từ 10 - 15 phút thì đội đó sẽ là người chiến thắng.
Không chỉ tổ chức ở các lễ hội, trò chơi dân gian còn diễn ra ở nhiều nhà văn hoá, khu bảo tồn văn hoá cộng đồng các dân tộc thiểu số. Nhiều nhà văn hoá xã được đầu tư xây dựng quy mô như: Khu bảo tồn văn hoá người Dao ở xã Bằng Cả (Thành phố Hạ Long), Nhà văn hoá người Sán Chỉ xã Đại Dực, khu bảo tồn văn hoá dân tộc Tày ở thôn Đồng Đình, xã Phong Dụ (huyện Tiên Yên), Nhà văn hoá xã Lục Hồn (huyện Bình Liêu), Nhà văn hoá dân tộc Sán Dìu, xã Bình Dân (huyện Vân Đồn).
Trò chơi dân gian của các dân tộc Quảng Ninh có giá trị lịch sử văn hóa được lưu truyền qua các thế hệ đã có nhiều biến thể để phù hợp hơn với đời sống xã hội. Đây là một phần không thể thiếu trong kí ức tuổi thơ của rất nhiều thế hệ tạo sợi dây gắn kết giữa các thế hệ trong cộng đồng làng bản. Trước bối cảnh bùng nổ nhiều loại hình giải trí hiện đại, trò chơi dân gian của đồng bào các dân tộc Quảng Ninh vẫn luôn có sức hấp dẫn riêng, là nét đẹp văn hóa trong các lễ hội truyền thống, nhằm góp phần nâng cao thể chất, giáo dục ý thức gìn giữ bản sắc, truyền thống văn hóa cho thế hệ trẻ.”
(Trích Trò chơi dân gian trong các lễ hội văn hoá vùng cao - Huỳnh Đăng, theo baoquangninh.vn)
Thực hiện các yêu cầu:
Câu 1 [704867]: Phương thức biểu đạt chính của đoạn trích là gì? Chỉ ra bố cục của đoạn trích.
- Phương thức biểu đạt chính của đoạn trích là thuyết minh.
- Bố cục của đoạn trích:
+ Phần thứ nhất (từ đầu đến tốt lành, sức khỏe, bình an và sung túc): giới thiệu các trò chơi dân gian ở Quảng Ninh.
+ Phần thứ hai (tiếp đến người chiến thắng): giới thiệu trò chơi đánh quay.
+ Phần thứ ba (tiếp đến ): mức độ phổ biến của các trò chơi dân gian ở tỉnh Quảng Ninh.
+ Phần thứ tư (còn lại): khẳng định ý nghĩa, giá trị của các trò chơi dân gian của các dân tộc tỉnh Quảng Ninh trong xã hội hiện đại.
- Bố cục của đoạn trích:
+ Phần thứ nhất (từ đầu đến tốt lành, sức khỏe, bình an và sung túc): giới thiệu các trò chơi dân gian ở Quảng Ninh.
+ Phần thứ hai (tiếp đến người chiến thắng): giới thiệu trò chơi đánh quay.
+ Phần thứ ba (tiếp đến ): mức độ phổ biến của các trò chơi dân gian ở tỉnh Quảng Ninh.
+ Phần thứ tư (còn lại): khẳng định ý nghĩa, giá trị của các trò chơi dân gian của các dân tộc tỉnh Quảng Ninh trong xã hội hiện đại.
Câu 2 [704868]: Không chỉ tổ chức ở các lễ hội, trò chơi dân gian còn diễn ra ở nhiều nhà văn hoá, khu bảo tồn văn hoá cộng đồng các dân tộc thiểu số. Nhiều nhà văn hoá xã được đầu tư xây dựng quy mô như: Khu bảo tồn văn hoá người Dao ở xã Bằng Cả (Thành phố Hạ Long), Nhà văn hoá người Sán Chỉ xã Đại Dực, khu bảo tồn văn hoá dân tộc Tày ở thôn Đồng Đình, xã Phong Dụ (huyện Tiên Yên), Nhà văn hoá xã Lục Hồn (huyện Bình Liêu), Nhà văn hoá dân tộc Sán Dìu, xã Bình Dân (huyện Vân Đồn).
Chỉ ra bằng chứng được trình bày trong đoạn văn trên.
Chỉ ra bằng chứng được trình bày trong đoạn văn trên.
Bằng chứng trong đoạn văn: Khu bảo tồn văn hoá người Dao ở xã Bằng Cả (Thành phố Hạ Long), Nhà văn hoá người Sán Chỉ xã Đại Dực, khu bảo tồn văn hoá dân tộc Tày ở thôn Đồng Đình, xã Phong Dụ (huyện Tiên Yên), Nhà văn hoá xã Lục Hồn (huyện Bình Liêu), Nhà văn hoá dân tộc Sán Dìu, xã Bình Dân (huyện Vân Đồn).
(Bằng chứng minh chứng cho lí lẽ nhiều nhà văn hoá, khu bảo tồn văn hoá cộng đồng các dân tộc thiểu số được xây dựng quy mô.)
(Bằng chứng minh chứng cho lí lẽ nhiều nhà văn hoá, khu bảo tồn văn hoá cộng đồng các dân tộc thiểu số được xây dựng quy mô.)
Câu 3 [704869]: Ở Quảng Ninh có nhiều trò chơi dân gian như nhảy sạp, đi cà kheo, cừ cáy, cừ pộc hay đánh đu... với sắc màu đa dạng của đồng bào dân tộc thiểu số, các trò chơi dân gian cũng mang đậm dấu ấn văn hóa các dân tộc Tày, Dao, Sán Dìu và Sán Chay.
Phân tích tác dụng của phép liệt kê được sử dụng trong câu văn trên.
Phân tích tác dụng của phép liệt kê được sử dụng trong câu văn trên.
Ở Quảng Ninh có nhiều trò chơi dân gian như nhảy sạp, đi cà kheo, cừ cáy, cừ pộc hay đánh đu... với sắc màu đa dạng của đồng bào dân tộc thiểu số, các trò chơi dân gian cũng mang đậm dấu ấn văn hóa các dân tộc Tày, Dao, Sán Dìu và Sán Chay.
- Liệt kê: nhảy sạp, đi cà kheo, cừ cáy, cừ pộc hay đánh đu...; các dân tộc Tày, Dao, Sán Dìu và Sán Chay.
- Tác dụng của phép liệt kê:
+ Góp phần tạo nên vẻ sinh động, hấp dẫn cho đoạn trích.
+ Minh hoạ, làm rõ cho các trò chơi dân gian của đồng bào dân tộc thiểu số ở Quảng Ninh.
+ Khẳng định sự phong phú, đa dạng của các trò chơi dân gian của đồng bào dân tộc thiểu số ở Quảng Ninh.
+ Thể hiện hiểu biết của người viết trong việc tìm hiểu về đối tượng thuyết minh (các trò chơi dân gian gắn liền với đồng bào dân tộc thiểu số ở Quảng Ninh).
- Liệt kê: nhảy sạp, đi cà kheo, cừ cáy, cừ pộc hay đánh đu...; các dân tộc Tày, Dao, Sán Dìu và Sán Chay.
- Tác dụng của phép liệt kê:
+ Góp phần tạo nên vẻ sinh động, hấp dẫn cho đoạn trích.
+ Minh hoạ, làm rõ cho các trò chơi dân gian của đồng bào dân tộc thiểu số ở Quảng Ninh.
+ Khẳng định sự phong phú, đa dạng của các trò chơi dân gian của đồng bào dân tộc thiểu số ở Quảng Ninh.
+ Thể hiện hiểu biết của người viết trong việc tìm hiểu về đối tượng thuyết minh (các trò chơi dân gian gắn liền với đồng bào dân tộc thiểu số ở Quảng Ninh).
Câu 4 [704870]: Chỉ ra nội dung chính của đoạn văn cuối cùng trong đoạn trích.
Nội dung chính của đoạn văn cuối cùng trong đoạn trích: Khẳng định giá trị, sức sống của các trò chơi dân gian của các dân tộc ở Quảng Ninh.
Câu 5 [704871]: Anh/ Chị có đồng tình với ý kiến cho rằng sự bùng nổ nhiều loại hình giải trí hiện đại là trở lực của việc bảo tồn các trò chơi dân gian không? Vì sao?
Thí sinh bày tỏ quan điểm đồng tình/ không đồng tình/ đồng tình một phần với ý kiến cho rằng sự bùng nổ nhiều loại hình giải trí hiện đại là trở lực của việc bảo tồn các trò chơi dân gian; đồng thời lí giải hợp lí, thuyết phục nguyên do. Chẳng hạn:
- Tôi đồng tình với ý kiến, vì thực tế cho thấy các loại hình giải trí hiện đại như trò chơi điện tử, âm nhạc hiện đại (rock, rap,...), mạng xã hội,... có sức hấp dẫn đặc biệt đối với nhiều người, khiến họ lãng quên hay mất kết nối với các trò chơi dân gian.
Hoặc:
- Tôi đồng tình với ý kiến, vì các trò chơi dân gian vẫn có giá trị, sức hấp dẫn đối với những con người hiện nay; thêm nữa, các địa phương đã, đang nỗ lực không ngừng để khôi phục các trò chơi dân gian nhằm giữ gìn những nét đẹp của văn hoá dân gian trong đời sống hiện đại.
Hoặc:
- Tôi vừa đồng tình vừa không đồng tình với ý kiến cho rằng ung thư là căn bệnh đáng sợ.
- Thí sinh kết hợp lí do ở hai gợi ý trên để trả lời.
- Tôi đồng tình với ý kiến, vì thực tế cho thấy các loại hình giải trí hiện đại như trò chơi điện tử, âm nhạc hiện đại (rock, rap,...), mạng xã hội,... có sức hấp dẫn đặc biệt đối với nhiều người, khiến họ lãng quên hay mất kết nối với các trò chơi dân gian.
Hoặc:
- Tôi đồng tình với ý kiến, vì các trò chơi dân gian vẫn có giá trị, sức hấp dẫn đối với những con người hiện nay; thêm nữa, các địa phương đã, đang nỗ lực không ngừng để khôi phục các trò chơi dân gian nhằm giữ gìn những nét đẹp của văn hoá dân gian trong đời sống hiện đại.
Hoặc:
- Tôi vừa đồng tình vừa không đồng tình với ý kiến cho rằng ung thư là căn bệnh đáng sợ.
- Thí sinh kết hợp lí do ở hai gợi ý trên để trả lời.
II. VIẾT (6,0 điểm)
Câu 6 [704872]: (2,0 điểm)
Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/ chị về sự cần thiết của việc bảo tồn các giá trị văn hoá dân gian trong xã hội hiện đại.
Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/ chị về sự cần thiết của việc bảo tồn các giá trị văn hoá dân gian trong xã hội hiện đại.
Đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ sự cần thiết của việc bảo tồn các giá trị văn hoá dân gian trong xã hội hiện đại có thể được triển khai theo hướng:
- Văn hóa dân gian là văn hóa gốc của dân tộc, sinh ra cùng với đời sống lao động của quần chúng nhân dân. Trải qua hàng ngàn năm, ông cha ta đã để lại một kho tàng đồ sộ các giá trị văn hóa nghệ thuật phong phú như ca dao, hò vè, các tín ngưỡng dân gian, các lễ hội, các loại hình diễn xướng như múa rối, ca trù, trống quân, hát xẩm,... và rất nhiều nghề thủ công truyền thống.
- Cần bảo tồn các giá trị văn hoá dân gian trong xã hội hiện đại:
+ Vì văn hoá dân gian là một phần hồn cốt của dân tộc, phản chiếu diện mạo tinh thần của dân tộc; nhiều giá trị văn hoá dân gian (như trang phục, kiến trúc, lối sống, văn hoá ứng xử, ngôn ngữ,...) đang bị mai một, thậm chí biến mất hoặc/và có nguy cơ bị thương mại hoá hoặc bị cạnh bởi sự lên ngôi của các loại hình giải trí hiện đại (VD: nhiều trò chơi dân gian, nhiều loại hình diễn xướng, nhiều nghề thủ công,... trước đây giờ không được lưu truyền);...
+ Để góp phần giữ gìn gốc gác, hồn cốt dân tộc trong bối cảnh hội nhập quốc tế (hoà nhập nhưng không hoà tan); để góp phần kết nối đời sống tinh thần, tư tưởng, tình cảm của các thế hệ xưa - nay;...
- Văn hóa dân gian là văn hóa gốc của dân tộc, sinh ra cùng với đời sống lao động của quần chúng nhân dân. Trải qua hàng ngàn năm, ông cha ta đã để lại một kho tàng đồ sộ các giá trị văn hóa nghệ thuật phong phú như ca dao, hò vè, các tín ngưỡng dân gian, các lễ hội, các loại hình diễn xướng như múa rối, ca trù, trống quân, hát xẩm,... và rất nhiều nghề thủ công truyền thống.
- Cần bảo tồn các giá trị văn hoá dân gian trong xã hội hiện đại:
+ Vì văn hoá dân gian là một phần hồn cốt của dân tộc, phản chiếu diện mạo tinh thần của dân tộc; nhiều giá trị văn hoá dân gian (như trang phục, kiến trúc, lối sống, văn hoá ứng xử, ngôn ngữ,...) đang bị mai một, thậm chí biến mất hoặc/và có nguy cơ bị thương mại hoá hoặc bị cạnh bởi sự lên ngôi của các loại hình giải trí hiện đại (VD: nhiều trò chơi dân gian, nhiều loại hình diễn xướng, nhiều nghề thủ công,... trước đây giờ không được lưu truyền);...
+ Để góp phần giữ gìn gốc gác, hồn cốt dân tộc trong bối cảnh hội nhập quốc tế (hoà nhập nhưng không hoà tan); để góp phần kết nối đời sống tinh thần, tư tưởng, tình cảm của các thế hệ xưa - nay;...
Câu 7 [704873]: (4,0 điểm)
Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) phân tích vẻ đẹp ngôn ngữ của bài thơ sau:
Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương.
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo,
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương.
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt,
Nước còn chau mặt với tang thương.
Ngàn năm gương cũ soi kim cổ,
Cảnh đấy, người đây luống đoạn trường.
Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) phân tích vẻ đẹp ngôn ngữ của bài thơ sau:
THĂNG LONG THÀNH HOÀI CỔ
(Bà Huyện Thanh Quan)
Tạo hoá gây chi cuộc hí trường,Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương.
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo,
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương.
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt,
Nước còn chau mặt với tang thương.
Ngàn năm gương cũ soi kim cổ,
Cảnh đấy, người đây luống đoạn trường.
(Theo Các nhà thơ nữ Việt Nam sáng tác và phê bình, NXB Giáo dục, 2001)
Bài văn phân tích vẻ đẹp ngôn ngữ của bài thơ Thăng Long thành hoài cổ (Bà Huyện Thanh Quan) có thể triển khai theo nhiều cách, song cần bảo đảm các ý chính:
* Giới thiệu khái quát tác giả, tác phẩm
- Bà Huyện Thanh Quan là một trong số nữ sĩ tài danh hiếm có trong thời đại ngày xưa, hiện còn để lại sáu bài thơ Đường luật.
- Thăng Long thành hoài cổ: một trong những thi phẩm đặc sắc của Bà Huyện Thanh Quan.
+ Đề tài: Thăng Long - Hà Nội.
+ Chủ đề: hoài cổ, hoài niệm.
+ Nhân vật trữ tình: tác giả.
+ Cảm hứng chủ đạo: nhớ thương, hoài niệm một Thăng Long xưa cổ thuở phồn hoa.
+ Bố cục: đề - thực - luận - kết.
* Phân tích vẻ đẹp ngôn ngữ của bài thơ
- Sơ lược về chất liệu ngôn từ trong thơ ca và ngôn ngữ thơ Bà Huyện Thanh Quan:
+ Văn học là một trong các loại hình nghệ thuật, sử dụng chất liệu đặc biệt là ngôn từ.
Với chất liệu ngôn từ, ngôn ngữ trong thơ ca có các đặc điểm: hàm súc, cô đọng; đa nghĩa; giàu sức gợi hình, gợi cảm; giàu nhạc tính;...
+ Các sáng tác của Bà Huyện Thanh Quan còn lưu lại đến nay không nhiều nhưng đều là những thi phẩm đặc sắc, để lại ấn tượng sâu đậm ở lớp ngôn ngữ vừa giản dị, mộc mạc (được viết bằng chữ Nôm - một loại chữ tượng hình ghi âm tiếng Việt) nhưng vẫn trang trọng, mẫu mực, cổ điển (Ví dụ: Qua đèo Ngang, Chiều hôm nhớ nhà,...).
- Vẻ đẹp ngôn ngữ của bài thơ Thăng Long thành hoài cổ được thể hiện qua các phương diện:
+ Từ ngữ:
• Sử dụng từ Hán Việt suốt dọc bài thơ (tạo hoá, hí trường, tinh sương, thu thảo, tịch dương, tuế nguyệt, tang thương, kim cổ, đoạn trường) ⟶ mang lại không khí trang trọng, cổ điển cho lời thơ, rất phù hợp để “phục dựng” vẻ đẹp xưa cũ, uy nghiêm của mảnh đất kinh kì Thăng Long thuở vàng son quá vãng, đưa người đọc vào một thế giới hoài niệm.
Các từ Hán Việt xuất hiện với mật độ dày đặc nhưng không gây khó hiểu bởi chúng được đan xen với các từ Nôm trong bài thơ Nôm, tạo nên sự hô ứng, đồng vọng giữa ngôn từ, hình ảnh thơ: thấm thoắt - tinh sương, lối xưa - thu thảo, nền cũ - tịch dương, đá - tuế nguyệt, nước - tang thương, ngàn năm - kim cổ,... từ đó hợp nghĩa cho lời thơ, bài thơ.
• Từ ngữ giàu sức gợi: cặp từ tạo hoá - hí trường (tạo hoá - đấng tối cao như đang trêu ngươi cõi đời khi tạo nên trò diễn làm biến thiên, đổi thay nhiều quá); hồn thu thảo, bóng tịch dương (không chỉ gợi hình mà còn gợi cảm xúc hoài niệm); trơ gan, chau mặt (gợi phản ứng của đá, nước trước sự dời đổi);...
+ Âm điệu bao trùm lời thơ là hoài cổ, hoài niệm, buồn mơ, tiếc nuối trước một thời đại vàng son đã đi qua.
+ Giọng điệu suy tư, ngẫm ngợi (Tạo hoá gây chi cuộc hí trường, Ngàn năm gương cũ soi kim cổ,/ Cảnh đấy, người đây luống đoạn trường).
+ Sử dụng các biện pháp tu từ: nghệ thuật đối được sử dụng triệt để và đắc hiệu trong hai câu thực và hai câu luận (lối xưa xe ngựa - hồn thu thảo; nền cũ lâu đài - bóng tịch dương; đá - tuế nguyệt, nước - tang thương); nhân hoá (Tạo hoá gây chi cuộc hí trường, Đá vẫn trơ gan, Nước còn chau mặt, gương cũ soi kim cổ);...
+ Nhịp điệu: hầu hết các dòng đều ngắt nhịp 4/3, riêng dòng cuối cùng ngắt nhịp 2/2/3 tô nhấn vào xúc cảm ngậm ngùi, suy tư. Vần ương ở tiếng cuối các dòng, 1, 2, 4, 6, 8 được gieo đúng luật khiến dòng hoài niệm như kéo dài miên man, bất tận.
- Liên hệ:
+ Ngôn ngữ thơ Bà Huyện Thanh Quan trong các sáng tác khác (Chiều hôm nhớ nhà, Qua đèo Ngang, Chơi đài Khán Xuân Trấn Võ,...) ⟶ nét tương đồng: ngôn ngữ trang trọng, cổ kính; âm điệu man mác nỗi buồn, thấm đượm một niềm nhớ tiếc;...
+ Ngôn ngữ thơ Hồ Xuân Hương: Ngôn ngữ thơ Hồ Xuân Hương giản dị, mộc mạc, nôm na, gần với lời ăn tiếng nói của nhân dân ⟶ dấu ấn riêng biệt trong thơ ca của hai nhà thơ nữ cùng thời đại trung đại.
* Đánh giá chung
- Thăng Long thành hoài cổ là một bài thơ đẹp với ngôn ngữ thanh sang, trang trọng, giàu sức gợi, thể hiện tài năng ngôn ngữ của Bà Huyện Thanh Quan.
- Vẻ đẹp ngôn ngữ trong bài thơ là một minh chứng cho thấy sự tiếp thu một cách chọn lọc tinh hoa của văn học nước ngoài để sáng tạo nên những tác phẩm nghệ thuật độc đáo cho nền văn học dân tộc.
<*> Tham khảo bài viết:
Chọn thành Thăng Long làm không gian hoài cổ vì đó là miền đất thiêng. Thiêng bởi đó là quê hương của chính nữ sĩ (và của cả chồng bà). Thiêng bởi đó là miền đất đế đô, thời nào thì bước chân lịch sử cũng đi qua. Đất đế đô là nơi chứng kiến đầy đủ nhất những hưng phế của các triều đại, trong đó có triều Lê. Thăng Long thành như một tấm gương để ngàn năm kim cổ còn soi bóng.
Mạch cảm hứng của bài thơ là từ cảm nhận sự đổi thay, muốn níu kéo lại dĩ vãng, nhưng cuối cùng đành ngậm ngùi trước lẽ đời dâu bể.
Hai câu đề là cảm xúc của tác giả trước những đổi thay:
Tạo hóa gây chi cuộc hí trường,
Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương.
Câu mở đầu là một câu hỏi. Hai chữ “gây chi” như chứa dựng niềm oán trách. Tạo hóa là ông trời. Hí trường là nơi diễn trò vui. Tạo hóa đi với hí trường thì từ đấng tối cao ông trời đã trở thành con trẻ và cuộc đời trở thành trò vui, hết trò này đến trò khác. Không xót xa, không oán trách sao được khi cuộc đời trở thành sân khấu, sân chơi trong tay tạo hoá.
Tâm trạng bâng khuâng với nhịp thơ chậm mà không tránh khỏi sự giật mình thảng thốt khi thời gian trôi nhanh “thấm thoắt mấy tinh sương”. Hai chữ “tinh sương” có nghĩa chỉ thời gian năm tháng, nhưng đọc lên như tỏa lan cả nỗi niềm giá buốt.
Câu thơ đầu nhiều từ Hán Việt tạo không khí cổ kính cho bài thơ, dẫn người đọc vào thế giới hoài niệm.
Hai câu thực vén tấm màn thời gian, cho thấy cụ thể hơn những đổi thay của cảnh đời:
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo,
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương.
Cả câu ba và câu bốn này đều có hai cách hiểu: lối xưa xe ngựa giờ chỉ còn là hồn thu thảo, hoặc lối xưa xe ngựa còn ghi dấu ở hồn thu thảo; nền cũ lâu đài giờ chỉ còn bóng tịch dương, hoặc nền cũ lâu đài giờ chỉ còn bóng tịch dương chứng kiến. Dù hiểu theo cách nào thì cũng là từ hiện tại hoài niệm về quá khứ, là quá khứ tìm cách đổ bóng xuống hiện tại. Hiểu theo cách nào thì cũng là tâm trạng ai hoài, nuối tiếc.
Những gì đẹp đẽ, rực rỡ đã thuộc về quá vãng. Vì vậy mà đi vào thế giới thơ Bà Huyện Thanh Quan là sống trong những buổi chiều tà: “Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà” (Qua Đèo Ngang), “Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn” (Chiều hôm nhớ nhà). Mùa xuân đến chơi đền Trấn Võ cũng là vào buổi chiều, có êm ái cũng là êm ái của buổi chiều tà: “Êm ái chiều xuân tới khán đài” (Chơi đài Khán Xuân Trấn Võ). “Bóng tịch dương” đâu chỉ một lần đổ xuống “nền cũ lâu đài” thành Thăng Long mà còn là tín hiệu đặc trưng của nỗi niềm hoài cổ Thanh Quan.
Những hình tượng không gian được đặt trong sự đối lập tương phản để nổi lên sức tàn phá của thời gian:
Lối xưa xe ngựa / (nay) hồn thu thảo,
Nền cũ lâu đài / (nay) bóng tịch dương.
Thăng Long một thời phồn hoa với cung vua phủ chúa vừa mới đây thôi giờ đã thành xưa cũ. Đâu rồi những con đường tấp nập ngựa xe? Đâu rồi những lâu đài nguy nga, lộng lẫy? Chỉ còn lại hoang vắng với cỏ mọc trên lối đi, với ánh chiều tà trên nền cũ. Quá khứ huy hoàng chỉ còn “hồn”, “bóng” ẩn hiện trong thiên nhiên hoang dã. Chữ “hồn”, chữ “bóng” là dấu nối hiện tại và quá khứ. “Hồn thu thảo” mà phảng phất hồn người, “bóng tịch dương” mà như phảng phất bóng lâu đài. Cái mơ hồ, hư ảo của ngoại cảnh mà cũng là cái mơ hồ, hư ảo của tâm cảnh. Trong sương khói của thời gian, nhà thơ như gắng gượng kiếm tìm ảnh hình của quá khứ. Có thể nói hai câu thực là hai câu thơ đẹp nhất của Thăng Long thành hoài cổ.
Từ hiện thực cảnh đời thay đổi, tác giả “luận” về cảnh đời dâu bể:
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt,
Nước còn cau mặt với tang thương.
Câu thơ nói cảnh nhưng gợi tình bởi nghệ thuật nhân cách hoá. “Trơ” là chịu đựng mà cũng là thách thức. Hai từ Hán Việt “tuế nguyệt” đã đẩy năm tháng vào phạm trù vĩnh hằng của thời gian. “Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt” hay lòng người hướng về quá khứ huy hoàng bất kể tháng năm? “Cau mặt” là đau buồn, xót xa mà cũng là phản ứng. “Nước còn chau mặt với tang thương” hay lòng người phản ứng trước cảnh đời nương dâu biến thành bãi biển? Đá “trơ gan”, nước “chau mặt”, nhìn nước gợn sóng mà liên tưởng đến những vết nhăn cau mặt, ngòi bút thơ Thanh Quan chạm đến đá, nước cũng làm cho đá, nước rưng rưng hồn người.
Từ cảnh đời thay đổi của Thăng Long thành, tác giả đi đến quy luật chung:
Ngàn năm gương cũ soi kim cổ
Câu thơ gợi dòng chảy của thời gian, mở đầu là thời gian (ngàn năm) và cuối cùng cũng là thời gian (kim cổ). Gương cũ phản chiếu xưa và soi nay. Cổ hay kim cũng cùng chung quy luật: Thời gian có thể phá huỷ mọi sự vật trên đường đi của nó.
Quy luật chung đó chính là nguyên nhân của “nỗi đoạn trường”:
Thăng Long thành hoài cổ là niềm hoài vọng về một triều đại - triều Lê - từng có những năm tháng vàng son cùng lịch sử, cùng đế đô Thăng Long. Tuy nhiên, lớn rộng hơn một nỗi lòng lưu luyến cựu triều là sự cảm nhận của con người trước biến thiên của thời gian. Cảm hứng hoài cổ của Bà Huyện Thanh Quan có đặc điểm riêng: con người cá nhân đã bắt đầu đối diện với trường kì lịch sử và cảm nhận tất cả nỗi cô đơn, bé nhỏ, mong manh của mình; hướng về quá khứ nhưng không phải để trốn tránh hiện tại mà là tìm cách khẳng định mình trong hiện tại. Ý nghĩa nhân bản trong cảm hứng hoài cổ của thơ Bà Huyện Thanh Quan phải chăng là ở đó?
* Giới thiệu khái quát tác giả, tác phẩm
- Bà Huyện Thanh Quan là một trong số nữ sĩ tài danh hiếm có trong thời đại ngày xưa, hiện còn để lại sáu bài thơ Đường luật.
- Thăng Long thành hoài cổ: một trong những thi phẩm đặc sắc của Bà Huyện Thanh Quan.
+ Đề tài: Thăng Long - Hà Nội.
+ Chủ đề: hoài cổ, hoài niệm.
+ Nhân vật trữ tình: tác giả.
+ Cảm hứng chủ đạo: nhớ thương, hoài niệm một Thăng Long xưa cổ thuở phồn hoa.
+ Bố cục: đề - thực - luận - kết.
* Phân tích vẻ đẹp ngôn ngữ của bài thơ
- Sơ lược về chất liệu ngôn từ trong thơ ca và ngôn ngữ thơ Bà Huyện Thanh Quan:
+ Văn học là một trong các loại hình nghệ thuật, sử dụng chất liệu đặc biệt là ngôn từ.
Với chất liệu ngôn từ, ngôn ngữ trong thơ ca có các đặc điểm: hàm súc, cô đọng; đa nghĩa; giàu sức gợi hình, gợi cảm; giàu nhạc tính;...
+ Các sáng tác của Bà Huyện Thanh Quan còn lưu lại đến nay không nhiều nhưng đều là những thi phẩm đặc sắc, để lại ấn tượng sâu đậm ở lớp ngôn ngữ vừa giản dị, mộc mạc (được viết bằng chữ Nôm - một loại chữ tượng hình ghi âm tiếng Việt) nhưng vẫn trang trọng, mẫu mực, cổ điển (Ví dụ: Qua đèo Ngang, Chiều hôm nhớ nhà,...).
- Vẻ đẹp ngôn ngữ của bài thơ Thăng Long thành hoài cổ được thể hiện qua các phương diện:
+ Từ ngữ:
• Sử dụng từ Hán Việt suốt dọc bài thơ (tạo hoá, hí trường, tinh sương, thu thảo, tịch dương, tuế nguyệt, tang thương, kim cổ, đoạn trường) ⟶ mang lại không khí trang trọng, cổ điển cho lời thơ, rất phù hợp để “phục dựng” vẻ đẹp xưa cũ, uy nghiêm của mảnh đất kinh kì Thăng Long thuở vàng son quá vãng, đưa người đọc vào một thế giới hoài niệm.
Các từ Hán Việt xuất hiện với mật độ dày đặc nhưng không gây khó hiểu bởi chúng được đan xen với các từ Nôm trong bài thơ Nôm, tạo nên sự hô ứng, đồng vọng giữa ngôn từ, hình ảnh thơ: thấm thoắt - tinh sương, lối xưa - thu thảo, nền cũ - tịch dương, đá - tuế nguyệt, nước - tang thương, ngàn năm - kim cổ,... từ đó hợp nghĩa cho lời thơ, bài thơ.
• Từ ngữ giàu sức gợi: cặp từ tạo hoá - hí trường (tạo hoá - đấng tối cao như đang trêu ngươi cõi đời khi tạo nên trò diễn làm biến thiên, đổi thay nhiều quá); hồn thu thảo, bóng tịch dương (không chỉ gợi hình mà còn gợi cảm xúc hoài niệm); trơ gan, chau mặt (gợi phản ứng của đá, nước trước sự dời đổi);...
+ Âm điệu bao trùm lời thơ là hoài cổ, hoài niệm, buồn mơ, tiếc nuối trước một thời đại vàng son đã đi qua.
+ Giọng điệu suy tư, ngẫm ngợi (Tạo hoá gây chi cuộc hí trường, Ngàn năm gương cũ soi kim cổ,/ Cảnh đấy, người đây luống đoạn trường).
+ Sử dụng các biện pháp tu từ: nghệ thuật đối được sử dụng triệt để và đắc hiệu trong hai câu thực và hai câu luận (lối xưa xe ngựa - hồn thu thảo; nền cũ lâu đài - bóng tịch dương; đá - tuế nguyệt, nước - tang thương); nhân hoá (Tạo hoá gây chi cuộc hí trường, Đá vẫn trơ gan, Nước còn chau mặt, gương cũ soi kim cổ);...
+ Nhịp điệu: hầu hết các dòng đều ngắt nhịp 4/3, riêng dòng cuối cùng ngắt nhịp 2/2/3 tô nhấn vào xúc cảm ngậm ngùi, suy tư. Vần ương ở tiếng cuối các dòng, 1, 2, 4, 6, 8 được gieo đúng luật khiến dòng hoài niệm như kéo dài miên man, bất tận.
- Liên hệ:
+ Ngôn ngữ thơ Bà Huyện Thanh Quan trong các sáng tác khác (Chiều hôm nhớ nhà, Qua đèo Ngang, Chơi đài Khán Xuân Trấn Võ,...) ⟶ nét tương đồng: ngôn ngữ trang trọng, cổ kính; âm điệu man mác nỗi buồn, thấm đượm một niềm nhớ tiếc;...
+ Ngôn ngữ thơ Hồ Xuân Hương: Ngôn ngữ thơ Hồ Xuân Hương giản dị, mộc mạc, nôm na, gần với lời ăn tiếng nói của nhân dân ⟶ dấu ấn riêng biệt trong thơ ca của hai nhà thơ nữ cùng thời đại trung đại.
* Đánh giá chung
- Thăng Long thành hoài cổ là một bài thơ đẹp với ngôn ngữ thanh sang, trang trọng, giàu sức gợi, thể hiện tài năng ngôn ngữ của Bà Huyện Thanh Quan.
- Vẻ đẹp ngôn ngữ trong bài thơ là một minh chứng cho thấy sự tiếp thu một cách chọn lọc tinh hoa của văn học nước ngoài để sáng tạo nên những tác phẩm nghệ thuật độc đáo cho nền văn học dân tộc.
<*> Tham khảo bài viết:
THĂNG LONG THÀNH HOÀI CỔ
(Bà Huyện Thanh Quan)
Bà Huyện Thanh Quan đem đến cho thơ ca Việt Nam một gương mặt hoài cổ. Ở giai đoạn cuối của văn học trung đại thì sự xuất hiện gương mặt hoài cổ Thanh Quan là hợp lí, là hợp quy luật. Vào thời điểm tiễn đưa một triều đại vàng son đã từng vang bóng trở thành quá khứ thì nỗi niềm bâng khuâng nuối tiếc cũng là lẽ tự nhiên. Đã đành hoài cổ là nét đặc trưng của thơ trung đại, nhưng ở giai đoạn cuối này thì tiếng nói hoài cổ càng có sức tỏa lan, vang vọng bởi độ dài của thời gian lịch sử, bởi độ rộng của không gian quá vãng. Cảm hứng hoài cổ đầy ắp cả bài thơ, tràn lên cả nhan đề với hai chữ “hoài cổ” gắn nối vào ba chữ “Thăng Long thành”.Chọn thành Thăng Long làm không gian hoài cổ vì đó là miền đất thiêng. Thiêng bởi đó là quê hương của chính nữ sĩ (và của cả chồng bà). Thiêng bởi đó là miền đất đế đô, thời nào thì bước chân lịch sử cũng đi qua. Đất đế đô là nơi chứng kiến đầy đủ nhất những hưng phế của các triều đại, trong đó có triều Lê. Thăng Long thành như một tấm gương để ngàn năm kim cổ còn soi bóng.
Mạch cảm hứng của bài thơ là từ cảm nhận sự đổi thay, muốn níu kéo lại dĩ vãng, nhưng cuối cùng đành ngậm ngùi trước lẽ đời dâu bể.
Hai câu đề là cảm xúc của tác giả trước những đổi thay:
Tạo hóa gây chi cuộc hí trường,
Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương.
Câu mở đầu là một câu hỏi. Hai chữ “gây chi” như chứa dựng niềm oán trách. Tạo hóa là ông trời. Hí trường là nơi diễn trò vui. Tạo hóa đi với hí trường thì từ đấng tối cao ông trời đã trở thành con trẻ và cuộc đời trở thành trò vui, hết trò này đến trò khác. Không xót xa, không oán trách sao được khi cuộc đời trở thành sân khấu, sân chơi trong tay tạo hoá.
Tâm trạng bâng khuâng với nhịp thơ chậm mà không tránh khỏi sự giật mình thảng thốt khi thời gian trôi nhanh “thấm thoắt mấy tinh sương”. Hai chữ “tinh sương” có nghĩa chỉ thời gian năm tháng, nhưng đọc lên như tỏa lan cả nỗi niềm giá buốt.
Câu thơ đầu nhiều từ Hán Việt tạo không khí cổ kính cho bài thơ, dẫn người đọc vào thế giới hoài niệm.
Hai câu thực vén tấm màn thời gian, cho thấy cụ thể hơn những đổi thay của cảnh đời:
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo,
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương.
Cả câu ba và câu bốn này đều có hai cách hiểu: lối xưa xe ngựa giờ chỉ còn là hồn thu thảo, hoặc lối xưa xe ngựa còn ghi dấu ở hồn thu thảo; nền cũ lâu đài giờ chỉ còn bóng tịch dương, hoặc nền cũ lâu đài giờ chỉ còn bóng tịch dương chứng kiến. Dù hiểu theo cách nào thì cũng là từ hiện tại hoài niệm về quá khứ, là quá khứ tìm cách đổ bóng xuống hiện tại. Hiểu theo cách nào thì cũng là tâm trạng ai hoài, nuối tiếc.
Những gì đẹp đẽ, rực rỡ đã thuộc về quá vãng. Vì vậy mà đi vào thế giới thơ Bà Huyện Thanh Quan là sống trong những buổi chiều tà: “Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà” (Qua Đèo Ngang), “Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn” (Chiều hôm nhớ nhà). Mùa xuân đến chơi đền Trấn Võ cũng là vào buổi chiều, có êm ái cũng là êm ái của buổi chiều tà: “Êm ái chiều xuân tới khán đài” (Chơi đài Khán Xuân Trấn Võ). “Bóng tịch dương” đâu chỉ một lần đổ xuống “nền cũ lâu đài” thành Thăng Long mà còn là tín hiệu đặc trưng của nỗi niềm hoài cổ Thanh Quan.
Những hình tượng không gian được đặt trong sự đối lập tương phản để nổi lên sức tàn phá của thời gian:
Lối xưa xe ngựa / (nay) hồn thu thảo,
Nền cũ lâu đài / (nay) bóng tịch dương.
Thăng Long một thời phồn hoa với cung vua phủ chúa vừa mới đây thôi giờ đã thành xưa cũ. Đâu rồi những con đường tấp nập ngựa xe? Đâu rồi những lâu đài nguy nga, lộng lẫy? Chỉ còn lại hoang vắng với cỏ mọc trên lối đi, với ánh chiều tà trên nền cũ. Quá khứ huy hoàng chỉ còn “hồn”, “bóng” ẩn hiện trong thiên nhiên hoang dã. Chữ “hồn”, chữ “bóng” là dấu nối hiện tại và quá khứ. “Hồn thu thảo” mà phảng phất hồn người, “bóng tịch dương” mà như phảng phất bóng lâu đài. Cái mơ hồ, hư ảo của ngoại cảnh mà cũng là cái mơ hồ, hư ảo của tâm cảnh. Trong sương khói của thời gian, nhà thơ như gắng gượng kiếm tìm ảnh hình của quá khứ. Có thể nói hai câu thực là hai câu thơ đẹp nhất của Thăng Long thành hoài cổ.
Từ hiện thực cảnh đời thay đổi, tác giả “luận” về cảnh đời dâu bể:
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt,
Nước còn cau mặt với tang thương.
Câu thơ nói cảnh nhưng gợi tình bởi nghệ thuật nhân cách hoá. “Trơ” là chịu đựng mà cũng là thách thức. Hai từ Hán Việt “tuế nguyệt” đã đẩy năm tháng vào phạm trù vĩnh hằng của thời gian. “Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt” hay lòng người hướng về quá khứ huy hoàng bất kể tháng năm? “Cau mặt” là đau buồn, xót xa mà cũng là phản ứng. “Nước còn chau mặt với tang thương” hay lòng người phản ứng trước cảnh đời nương dâu biến thành bãi biển? Đá “trơ gan”, nước “chau mặt”, nhìn nước gợn sóng mà liên tưởng đến những vết nhăn cau mặt, ngòi bút thơ Thanh Quan chạm đến đá, nước cũng làm cho đá, nước rưng rưng hồn người.
Từ cảnh đời thay đổi của Thăng Long thành, tác giả đi đến quy luật chung:
Ngàn năm gương cũ soi kim cổ
Câu thơ gợi dòng chảy của thời gian, mở đầu là thời gian (ngàn năm) và cuối cùng cũng là thời gian (kim cổ). Gương cũ phản chiếu xưa và soi nay. Cổ hay kim cũng cùng chung quy luật: Thời gian có thể phá huỷ mọi sự vật trên đường đi của nó.
Quy luật chung đó chính là nguyên nhân của “nỗi đoạn trường”:
Cảnh đấy, người đây, luống đoạn trường.
Câu kết cũng như câu mở đầu đều có chung một cảm hứng và là cảm hứng chủ đạo của bài thơ: nỗi đau đớn xót xa trước cảnh đời tang thương dâu bể. “Cảnh đấy” là cảnh quá khứ phồn hoa huy hoàng lưu dấu tích trong hiện tại hoang tàn, đổ nát. “Người đây” là người trong hiện tại mà nặng lòng với quá khứ. Câu thơ nói về nỗi đoạn trường cũng ngắt rời từng khúc: “Cảnh đấy/ người đây/ luống đoạn trường”, như nỗi đau đứt ruột.Thăng Long thành hoài cổ là niềm hoài vọng về một triều đại - triều Lê - từng có những năm tháng vàng son cùng lịch sử, cùng đế đô Thăng Long. Tuy nhiên, lớn rộng hơn một nỗi lòng lưu luyến cựu triều là sự cảm nhận của con người trước biến thiên của thời gian. Cảm hứng hoài cổ của Bà Huyện Thanh Quan có đặc điểm riêng: con người cá nhân đã bắt đầu đối diện với trường kì lịch sử và cảm nhận tất cả nỗi cô đơn, bé nhỏ, mong manh của mình; hướng về quá khứ nhưng không phải để trốn tránh hiện tại mà là tìm cách khẳng định mình trong hiện tại. Ý nghĩa nhân bản trong cảm hứng hoài cổ của thơ Bà Huyện Thanh Quan phải chăng là ở đó?
(Theo Lã Nhâm Thìn, Phân tích tác phẩm văn học Trung đại Việt Nam từ góc nhìn thể loại,
NXB Giáo dục Việt Nam, 2019)
NXB Giáo dục Việt Nam, 2019)