I. ĐỌC HIỂU (4,0 điểm)
Đọc đoạn trích:
“Hồ Xuân Hương là một hiện tượng văn hóa đặc biệt. Với tư cách là một hiện tượng độc đáo của thơ ca Việt Nam thời trung đại, ảnh hưởng văn hóa của Hồ Xuân Hương đã vươn ra thế giới và được đông đảo bạn đọc và học giả nước ngoài chú ý.
[...]
Khoảng 2 thập kỉ trở lại đây, ảnh hưởng của xu thế toàn cầu hóa đã mở ra những cánh cửa rộng cho việc giới thiệu và lan tỏa văn học Việt Nam ra bạn bè quốc tế. Thơ Hồ Xuân Hương nhờ đó có cơ hội đến được với đông đảo độc giả nước ngoài qua nhiều kênh khác nhau.
Tiêu biểu trên trang website “The Poetry Foundation” (Hiệp hội thơ Hoa Kỳ) đã chọn dịch và giới thiệu một cách trang trọng 5 bài thơ của Hồ Xuân Hương: “Bánh trôi nước” (Floating Sweet Dumpling), “Quả mít” (Jackfruit), “Ốc nhồi” (Snail), “Ong vò vẽ” (Wasps), “Dỗ người đàn bà khóc chồng” (Lamenting Widow) kèm theo lời bình của dịch giả, nhà thơ Marylin Chin: “Khi tiếp xúc với thơ Hồ Xuân Hương, ngay lập tức tôi nhận ra cấu trúc của bài thơ niêm luật Trung Hoa - tứ tuyệt, bát cú, thất ngôn, các hình thức đối và điệp... Tôi nhận ra những biểu tượng cổ sơ - “trái cây chín”, “chiếc bánh trôi” tượng trưng cho thân phận người phụ nữ”. Đánh giá về tư tưởng và giá trị nghệ thuật của thơ Hồ Xuân Hương, Marylin Chin nhận định rằng: “Cha của Hồ Xuân Hương vốn là một nhà nho và mẹ bà là một người là một người vợ lẽ. Bản thân nàng cũng trở thành thê thiếp của 2 vị quan nhỏ. Tất cả phụ nữ trong cấu trúc gia đình Nho giáo bị áp bức đều có vị trí bên lề, nhưng có lẽ chính sự áp bức này đã khiến Hồ Xuân Hương đã dùng trí thông minh và tài thơ thiên bẩm đưa ra những bài thơ mang tính khêu gợi lên một tầm cao tuyệt vời. Người ta có thể đọc bà như một nhà thơ nữ quyền hiện đại bằng cách giải thích các bài thơ thông qua các biểu tượng phân tâm học, trong đó thiên tính nữ như một vũ khí chống lại chế độ phụ quyền”.
Rõ ràng, trong con mắt của các bạn đọc và học giả nước ngoài, Hồ Xuân Hương và di sản thơ ca của bà là một hiện tượng độc đáo của văn học Việt Nam nói riêng, văn hóa phương Đông nói chung. Tiếp cận Hồ Xuân Hương một cách đầy đủ nhất là cách tiếp cận song song và nhất quán giữa văn học và văn hóa. Bởi, với cách tiếp cận vấn đề như vậy, chúng ta mới có thể tìm thấy dấu vết của thơ dân gian - sức mạnh tinh thần của văn hóa làng xã. Và điều quan trọng và hơn hết chính là ý thức khát vọng tự chủ từ việc hình thành và phát triển văn học chữ Nôm, vượt qua sự ảnh hưởng và cưỡng bức từ văn hóa của Trung Hoa.
Hồ Xuân Hương là một hiện tượng độc đáo của Văn học Việt Nam. Hồ Xuân Hương, tên bà có nghĩa là “hương vị mùa xuân”. Bà đã viết cả những điều mà các nhà thơ khác cùng thời không dám viết. Thơ Hồ Xuân Hương độc đáo, hiếm có và mang đậm bản sắc văn hóa Việt Nam, có sức lan truyền, lan tỏa rộng rãi trên thế giới. Thơ của bà có thể làm lay động chúng ta ngày hôm nay cũng như đã từng làm chấn động người Việt Nam hơn 2 thế kỉ trước.
Hồ Xuân Hương là nữ sĩ Việt Nam đầu tiên được UNESCO vinh danh.”
“Hồ Xuân Hương là một hiện tượng văn hóa đặc biệt. Với tư cách là một hiện tượng độc đáo của thơ ca Việt Nam thời trung đại, ảnh hưởng văn hóa của Hồ Xuân Hương đã vươn ra thế giới và được đông đảo bạn đọc và học giả nước ngoài chú ý.
[...]
Khoảng 2 thập kỉ trở lại đây, ảnh hưởng của xu thế toàn cầu hóa đã mở ra những cánh cửa rộng cho việc giới thiệu và lan tỏa văn học Việt Nam ra bạn bè quốc tế. Thơ Hồ Xuân Hương nhờ đó có cơ hội đến được với đông đảo độc giả nước ngoài qua nhiều kênh khác nhau.
Tiêu biểu trên trang website “The Poetry Foundation” (Hiệp hội thơ Hoa Kỳ) đã chọn dịch và giới thiệu một cách trang trọng 5 bài thơ của Hồ Xuân Hương: “Bánh trôi nước” (Floating Sweet Dumpling), “Quả mít” (Jackfruit), “Ốc nhồi” (Snail), “Ong vò vẽ” (Wasps), “Dỗ người đàn bà khóc chồng” (Lamenting Widow) kèm theo lời bình của dịch giả, nhà thơ Marylin Chin: “Khi tiếp xúc với thơ Hồ Xuân Hương, ngay lập tức tôi nhận ra cấu trúc của bài thơ niêm luật Trung Hoa - tứ tuyệt, bát cú, thất ngôn, các hình thức đối và điệp... Tôi nhận ra những biểu tượng cổ sơ - “trái cây chín”, “chiếc bánh trôi” tượng trưng cho thân phận người phụ nữ”. Đánh giá về tư tưởng và giá trị nghệ thuật của thơ Hồ Xuân Hương, Marylin Chin nhận định rằng: “Cha của Hồ Xuân Hương vốn là một nhà nho và mẹ bà là một người là một người vợ lẽ. Bản thân nàng cũng trở thành thê thiếp của 2 vị quan nhỏ. Tất cả phụ nữ trong cấu trúc gia đình Nho giáo bị áp bức đều có vị trí bên lề, nhưng có lẽ chính sự áp bức này đã khiến Hồ Xuân Hương đã dùng trí thông minh và tài thơ thiên bẩm đưa ra những bài thơ mang tính khêu gợi lên một tầm cao tuyệt vời. Người ta có thể đọc bà như một nhà thơ nữ quyền hiện đại bằng cách giải thích các bài thơ thông qua các biểu tượng phân tâm học, trong đó thiên tính nữ như một vũ khí chống lại chế độ phụ quyền”.
Rõ ràng, trong con mắt của các bạn đọc và học giả nước ngoài, Hồ Xuân Hương và di sản thơ ca của bà là một hiện tượng độc đáo của văn học Việt Nam nói riêng, văn hóa phương Đông nói chung. Tiếp cận Hồ Xuân Hương một cách đầy đủ nhất là cách tiếp cận song song và nhất quán giữa văn học và văn hóa. Bởi, với cách tiếp cận vấn đề như vậy, chúng ta mới có thể tìm thấy dấu vết của thơ dân gian - sức mạnh tinh thần của văn hóa làng xã. Và điều quan trọng và hơn hết chính là ý thức khát vọng tự chủ từ việc hình thành và phát triển văn học chữ Nôm, vượt qua sự ảnh hưởng và cưỡng bức từ văn hóa của Trung Hoa.
Hồ Xuân Hương là một hiện tượng độc đáo của Văn học Việt Nam. Hồ Xuân Hương, tên bà có nghĩa là “hương vị mùa xuân”. Bà đã viết cả những điều mà các nhà thơ khác cùng thời không dám viết. Thơ Hồ Xuân Hương độc đáo, hiếm có và mang đậm bản sắc văn hóa Việt Nam, có sức lan truyền, lan tỏa rộng rãi trên thế giới. Thơ của bà có thể làm lay động chúng ta ngày hôm nay cũng như đã từng làm chấn động người Việt Nam hơn 2 thế kỉ trước.
Hồ Xuân Hương là nữ sĩ Việt Nam đầu tiên được UNESCO vinh danh.”
(Trích Hồ Xuân Hương - tầm vóc một danh nhân văn hoá - Trần Trung Hiếu, theo nhandan.vn)
Thực hiện các yêu cầu:
Câu 1 [704874]: Nêu chủ đề của đoạn trích.
Chủ đề của đoạn trích: Hồ Xuân Hương - một hiện tượng độc đáo, hiếm có của thơ ca Việt Nam thời kì trung đại.
Câu 2 [704875]: Theo đoạn trích, những sáng tác nào của Hồ Xuân Hương được chọn dịch và giới thiệu trên website Hiệp hội thơ Hoa Kỳ?
Theo đoạn trích, những sáng tác của Hồ Xuân Hương được chọn dịch và giới thiệu trên website Hiệp hội thơ Hoa Kỳ là:
- Bánh trôi nước (“Floating Sweet Dumpling”)
- Quả mít (“Jackfruit”)
- Ốc nhồi (“Snail”)
- Ong vò vẽ (“Wasps”)
- Dỗ người đàn bà khóc chồng (“Lamenting Widow”)
- Bánh trôi nước (“Floating Sweet Dumpling”)
- Quả mít (“Jackfruit”)
- Ốc nhồi (“Snail”)
- Ong vò vẽ (“Wasps”)
- Dỗ người đàn bà khóc chồng (“Lamenting Widow”)
Câu 3 [704876]: Việc dẫn ra ý kiến của dịch giả, nhà thơ Marylin Chin trong đoạn trích có ý nghĩa gì?
Việc dẫn ra ý kiến của dịch giả, nhà thơ Marylin Chin trong đoạn trích có ý nghĩa:
- Làm nổi bật đặc điểm, tư tưởng và giá trị nghệ thuật của thơ Hồ Xuân Hương; khẳng định tầm ảnh hưởng của thơ Hồ Xuân Hương trên phạm vi toàn cầu qua góc nhìn của một người nước ngoài. (Marylin Chin là một dịch giả, nhà thơ có uy tín trên trang website “The Poetry Foundation” (Hiệp hội thơ Hoa Kỳ). Vị thế đó gia tăng “sức nặng” cho lời nhận xét về thơ Hồ Xuân Hương, tạo nên sự tin cậy cho người đọc thơ Hồ Xuân Hương.).
- Thể hiện hiểu biết thấu đáo của Marylin Chin về Hồ Xuân Hương và thơ Hồ Xuân Hương (thể thơ, biểu tượng nghệ thuật nổi bật trong thơ Hồ Xuân Hương; lí giải những nguyên do tạo nên tư tưởng và giá trị nghệ thuật của thơ Hồ Xuân Hương: hoàn cảnh gia đình, đặc điểm con người cá nhân,...) cũng như nêu lên một hướng tiếp cận mới mẻ, hiện đại về thơ Hồ Xuân Hương (Người ta có thể đọc bà như một nhà thơ nữ quyền hiện đại bằng cách giải thích các bài thơ thông qua các biểu tượng phân tâm học, trong đó thiên tính nữ như một vũ khí chống lại chế độ phụ quyền).
- Làm nổi bật đặc điểm, tư tưởng và giá trị nghệ thuật của thơ Hồ Xuân Hương; khẳng định tầm ảnh hưởng của thơ Hồ Xuân Hương trên phạm vi toàn cầu qua góc nhìn của một người nước ngoài. (Marylin Chin là một dịch giả, nhà thơ có uy tín trên trang website “The Poetry Foundation” (Hiệp hội thơ Hoa Kỳ). Vị thế đó gia tăng “sức nặng” cho lời nhận xét về thơ Hồ Xuân Hương, tạo nên sự tin cậy cho người đọc thơ Hồ Xuân Hương.).
- Thể hiện hiểu biết thấu đáo của Marylin Chin về Hồ Xuân Hương và thơ Hồ Xuân Hương (thể thơ, biểu tượng nghệ thuật nổi bật trong thơ Hồ Xuân Hương; lí giải những nguyên do tạo nên tư tưởng và giá trị nghệ thuật của thơ Hồ Xuân Hương: hoàn cảnh gia đình, đặc điểm con người cá nhân,...) cũng như nêu lên một hướng tiếp cận mới mẻ, hiện đại về thơ Hồ Xuân Hương (Người ta có thể đọc bà như một nhà thơ nữ quyền hiện đại bằng cách giải thích các bài thơ thông qua các biểu tượng phân tâm học, trong đó thiên tính nữ như một vũ khí chống lại chế độ phụ quyền).
Câu 4 [704877]: Thơ Hồ Xuân Hương độc đáo, hiếm có và mang đậm bản sắc văn hóa Việt Nam, có sức lan truyền, lan tỏa rộng rãi trên thế giới. Thơ của bà có thể làm lay động chúng ta ngày hôm nay cũng như đã từng làm chấn động người Việt Nam hơn 2 thế kỉ trước.
Những câu văn trên bộc lộ tình cảm, thái độ nào của người viết khi nhận định về thơ Hồ Xuân Hương?
Những câu văn trên bộc lộ tình cảm, thái độ nào của người viết khi nhận định về thơ Hồ Xuân Hương?
Thơ Hồ Xuân Hương độc đáo, hiếm có và mang đậm bản sắc văn hóa Việt Nam, có sức lan truyền, lan tỏa rộng rãi trên thế giới. Thơ của bà có thể làm lay động chúng ta ngày hôm nay cũng như đã từng làm chấn động người Việt Nam hơn 2 thế kỉ trước.
Tình cảm, thái độ của người viết thể hiện qua những câu văn trên: trân trọng, ngợi ca vẻ độc đáo, hiếm có trong thơ Hồ Xuân Hương; khẳng định sức sống, sức tác động mãnh liệt vượt không gian, thời gian của thơ Hồ Xuân Hương.
Tình cảm, thái độ của người viết thể hiện qua những câu văn trên: trân trọng, ngợi ca vẻ độc đáo, hiếm có trong thơ Hồ Xuân Hương; khẳng định sức sống, sức tác động mãnh liệt vượt không gian, thời gian của thơ Hồ Xuân Hương.
Câu 5 [704878]: Bà đã viết cả những điều mà các nhà thơ khác cùng thời không dám viết.
Bằng hiểu biết của anh/chị về thơ Hồ Xuân Hương, hãy nêu tên ít nhất một sáng tác chứng minh cho ý kiến trên.
Bằng hiểu biết của anh/chị về thơ Hồ Xuân Hương, hãy nêu tên ít nhất một sáng tác chứng minh cho ý kiến trên.
Một số sáng tác chứng minh cho ý kiến:
- Tự tình (bài 2): Kết thúc bằng những câu thơ thể hiện ý thức về giá trị của bản thân và khát khao hạnh phúc (Tài tử văn nhân ai đó tá,/ Thân này đâu đã chịu già tom).
- Không chồng mà chửa: Hai dòng thơ kết Quản bao miệng thế lời chênh lệch,/ Không có, nhưng mà có, mới ngoan là tiếng nói bênh vực cho những người con gái bị phụ tình và trót “không chồng mà chửa”.
- Lấy chồng chung: Mở đầu bằng tiếng chửi kiếp phận “chung chồng” của chế độ đa thê thời phong kiến (Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng,/ Chém cha cái kiếp lấy chồng chung).
...
- Tự tình (bài 2): Kết thúc bằng những câu thơ thể hiện ý thức về giá trị của bản thân và khát khao hạnh phúc (Tài tử văn nhân ai đó tá,/ Thân này đâu đã chịu già tom).
- Không chồng mà chửa: Hai dòng thơ kết Quản bao miệng thế lời chênh lệch,/ Không có, nhưng mà có, mới ngoan là tiếng nói bênh vực cho những người con gái bị phụ tình và trót “không chồng mà chửa”.
- Lấy chồng chung: Mở đầu bằng tiếng chửi kiếp phận “chung chồng” của chế độ đa thê thời phong kiến (Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng,/ Chém cha cái kiếp lấy chồng chung).
...
II. VIẾT (6,0 điểm)
Câu 6 [704879]: (2,0 điểm)
Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về sự cần thiết của việc tạo điều kiện để người phụ nữ có thể phát huy năng lực bản thân trong xã hội hiện đại.
Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về sự cần thiết của việc tạo điều kiện để người phụ nữ có thể phát huy năng lực bản thân trong xã hội hiện đại.
Đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ về sự cần thiết của việc tạo điều kiện để người phụ nữ có thể phát huy năng lực bản thân trong xã hội hiện đại có thể được triển khai theo hướng:
- Bất kì người phụ nữ nào cũng muốn khẳng định sự tồn tại độc lập, giá trị của mình trong cuộc sống. Việc tạo điều kiện cho phụ nữ phát huy năng lực bản thân giúp họ có được cuộc sống độc lập, tự chủ.
- Phụ nữ chiếm một nửa dân số, có nhiều ưu điểm nổi bật hơn so với nam giới (như dịu dàng, mềm mỏng, kiên trì, nhẫn nại, giàu đức vị tha, hi sinh,...). Việc khai thác tối đa tiềm năng của phụ nữ sẽ thúc đẩy sự phát triển toàn diện, bền vững của xã hội.
- Tạo điều kiện cho phụ nữ phát triển là thực hiện quyền con người cơ bản, đảm bảo bình đẳng giới trong mọi lĩnh vực. Xóa bỏ định kiến giới sẽ giúp xã hội đạt được sự tiến bộ toàn diện hơn.
- Bất kì người phụ nữ nào cũng muốn khẳng định sự tồn tại độc lập, giá trị của mình trong cuộc sống. Việc tạo điều kiện cho phụ nữ phát huy năng lực bản thân giúp họ có được cuộc sống độc lập, tự chủ.
- Phụ nữ chiếm một nửa dân số, có nhiều ưu điểm nổi bật hơn so với nam giới (như dịu dàng, mềm mỏng, kiên trì, nhẫn nại, giàu đức vị tha, hi sinh,...). Việc khai thác tối đa tiềm năng của phụ nữ sẽ thúc đẩy sự phát triển toàn diện, bền vững của xã hội.
- Tạo điều kiện cho phụ nữ phát triển là thực hiện quyền con người cơ bản, đảm bảo bình đẳng giới trong mọi lĩnh vực. Xóa bỏ định kiến giới sẽ giúp xã hội đạt được sự tiến bộ toàn diện hơn.
Câu 7 [704880]: (4,0 điểm)
Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) phân tích bài thơ:
CĂN HỘ BIỂN
(Hữu Thỉnh)
Tặng đồng đội Trường Sa
Quây đại dương làm một căn hộ lính
lát biển làm sân
kê gió làm thềm
mây đến treo tranh lồng tứ hải
thuỷ triều đưa võng cõng trăng lên
Quây vô tận làm một căn hộ biển
lính đảo canh gần cơn bão xa
nhận mặt ngày đang tới
ngắm lưng ngày đang qua
ngắm bất trắc vần vụ
ngẫm tình nghĩa nhạt nhoà
chao chân trên thế sự
vừa hay nhận tin nhà
Quây thử thách làm một căn hộ thép
bốn bề chật trội tuổi thanh xuân
thở cùng nhịp biển, nghe trăng quẫy
xuân mới loi thoi, én liệng gần.
5/ 12/ 2012
Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) phân tích bài thơ:
CĂN HỘ BIỂN
(Hữu Thỉnh)
Tặng đồng đội Trường Sa
Quây đại dương làm một căn hộ lính
lát biển làm sân
kê gió làm thềm
mây đến treo tranh lồng tứ hải
thuỷ triều đưa võng cõng trăng lên
Quây vô tận làm một căn hộ biển
lính đảo canh gần cơn bão xa
nhận mặt ngày đang tới
ngắm lưng ngày đang qua
ngắm bất trắc vần vụ
ngẫm tình nghĩa nhạt nhoà
chao chân trên thế sự
vừa hay nhận tin nhà
Quây thử thách làm một căn hộ thép
bốn bề chật trội tuổi thanh xuân
thở cùng nhịp biển, nghe trăng quẫy
xuân mới loi thoi, én liệng gần.
5/ 12/ 2012
(Theo baovannghe.com.vn)
Bài văn phân tích bài thơ Căn hộ biển (Hữu Thỉnh) có thể triển khai theo nhiều cách, song cần bảo đảm các ý chính:
* Giới thiệu khái quát tác giả, tác phẩm
- Hữu Thỉnh (sinh năm 1942) tên thật là Nguyễn Hữu Thỉnh, bút danh khác là Vũ Hữu. Ông là nhà thơ trưởng thành vào thời kì hòa bình. Thơ ông giản dị nhưng vô cùng tinh tế và sâu sắc.
- Căn hộ biển: một trong những thi phẩm đặc sắc của Hữu Thỉnh.
+ Đề tài: Người lính biển.
+ Nhan đề: Căn hộ biển
• Từ căn hộ (không phải là lều bạt chung chiêng giữa nước giữa trời như trong thơ Trần Đăng Khoa viết từ những năm 1980) gợi đến một không gian sống tiện nghi, hiện đại, sang trọng.
• Căn hộ biển: gợi không gian sống hoà hợp giữa con người với thiên nhiên.
⟶ Nhan đề gợi hình dung về đời sống thật là sang (mượn cách nói của Hồ Chí Minh: Cuộc đời cách mạng thật là sang) của các chiến sĩ trên quần đảo Trường Sa.
+ Nhân vật trữ tình: tác giả.
+ Hình tượng nhân vật chính trong bài thơ: người lính đảo ⟶ hình tượng nhân vật quen thuộc, xuất hiện nhiều trong thơ ca (Lính đảo hát tình ca trên đảo, Thơ tình người lính biển, Đồng đội tôi trên đảo Thuyền Chài, Đợi mưa trên đảo Sinh Tồn,... - Trần Đăng Khoa, Tổ quốc nhìn từ biển - Nguyễn Việt Chiến,...).
+ Chủ đề: Ngợi ca những người lính đảo.
+ Thể thơ: tự do, rất phù hợp để nhân vật trữ tình bộc lộc tình cảm, cảm xúc một cách phóng khoáng.
+ Bố cục: 3 phần
• Khổ thơ thứ nhất: Hình tượng căn hộ biển.
• Khổ thơ thứ hai, thứ ba: Hình tượng người người lính đảo.
* Phân tích bài thơ
- Khổ thơ thứ nhất: tái hiện “quá trình” xây cất căn hộ biển - không gian sinh hoạt, thực thi nhiệm vụ của những người lính đảo.
+ Động từ quây (mang nghĩa là bao, trấn xung quanh) gắn liền với thực thể đại dương (không gian mênh mông vô cùng vô tận là một cách nói quá nhưng lại mang ý vị hóm hỉnh vừa thể hiện vị thế làm chủ của con người, vừa thể hiện sự giao hoà của con người với thiên nhiên. Không gian đại dương rộng lớn bỗng chốc thu lại bé gọn, xinh xắn, đầm ấm (căn hộ lính). Con người bởi thế không nhỏ bé, đơn độc giữa thiên nhiên mà ngược lại gần gũi, kề cận với thiên nhiên.
+ Các động từ lát, kê, treo, đưa, cõng mô tả động tác xây dựng, kiến thiết của con người từ những “vật liệu”, “nguyên liệu” đặc biệt như biển, gió, mây, thuỷ triều, trăng. Theo đó, một không gian nguy nga, sang trọng mỗi lúc một hiển hiện rõ nét. Không gian ấy không chỉ mang đến cảm nhận về sự sang giàu về vật chất mà còn gây ấn tượng mạnh mẽ về sự đủ đầy ở phương diện tinh thần (mây đến treo tranh lồng tứ hải, thuỷ triều đưa võng cõng trăng lên).
⟶ Đoạn thơ hoàn toàn không có dấu vết của khó khăn, gian khổ, thiếu thốn. Ăm ắp trong lời thơ là cuộc sống giàu có, đời sống phong lưu của những người lính đảo. Hiển nhiên, kiến tạo nên cuộc sống ấy chính là người lính. Họ tuy không hiện diện trực tiếp nhưng là chủ thể của một loạt hành động chủ động nhằm kiến thiết, dựng xây đời sống tươi đẹp giữa biển khơi bao la. Theo đó, con người không bé nhỏ, mong manh, đơn độc mà ngạo nghễ nhưng thân thiện trước thiên nhiên kì vĩ, tươi đẹp, hiền hoà.
- Khổ thơ thứ hai, ba: Hình tượng người lính đảo
+ Khổ thứ hai: phác hoạ hình tượng người lính đảo.
• Dù lãng mạn bao nhiêu, sau cùng nhà thơ vẫn phải đặt những người lính đảo giữa hiện thực đầy gai góc: vô tận, cơn bão xa, bất trắc vần vụ, tình nghĩa nhạt nhoà, thế sự, gia đình,... Các từ ngữ gợi lên một đời thực chênh chao trên biển đảo với những gieo neo, bất trắc có thể gọi tên (biển bao la, cơn bão) và cả những điều không thể gọi tên (tình nghĩa nhạt nhoà với anh bạn láng giềng, bao chuyện đời biến thiên dâu bể nơi đất liền, tình nhà).
• Các động từ: canh, nhận mặt, ngắm, ngẫm, chao chân vừa mô tả hình tượng người lính với nhiệm vụ canh giữ biển trời đất nước thiêng liêng vừa gợi cảm nhận về hình ảnh những con người cũng có bao tâm tư, trăn trở trong tâm trí.
⟶ Hình tượng người lính hiện lên đầy đặn qua những dòng thơ hết sức cô đọng, hàm súc. Ngòi bút của Hữu Thỉnh như một nét cọ, chỉ bằng vài ba nét giản dị nhưng đủ để hoạ lên dáng hình - thần thái, vẻ bề ngoài - nội tâm bên trong của những người lính đảo.
+ Khổ thứ ba: tập trung tô đậm vẻ đẹp tuổi trẻ của những người lính đảo.
• Từ thanh xuân gieo ấn tượng về tuổi trẻ, sức trẻ ở những người lính đảo. Câu thơ bốn bề chật chội tuổi thanh xuân gợi sức lực, sức khoẻ, sức sống, nhiệt huyết căng tràn trong những chàng trai trẻ tuổi. Bốn bể mêng mang tưởng chừng vô cùng vô tận mà vẫn không đủ để chứa, đựng sức sống, nhiệt huyết tuổi trẻ.
• Câu thơ Quây thử thách làm một căn hộ thép tô đậm ý chí, nghị lực kiên gan, phi thường. Bao khó khăn, gian khổ nơi đầu sóng ngọn gió không những không thể làm nhụt chí người lính, ngược lại càng tôi luyện cho con người thêm kiên gan, bền chí.
• Các chi tiết thở cùng nhịp biển, nghe trăng quẫy là sự hoà nhịp, hoà điệu của các chiến sĩ hải đảo với biển trời bao la. Cảm hứng lãng mạn, bay bổng đã cất cánh, vút bay cùng ăm ắp niềm tin, niềm hi vọng vào cuộc sống, sự sống bình yên, tươi mới của quê hương đất nước. Và thanh xuân, tuổi trẻ mỗi chàng trai như cũng đang hoà vào nhịp xuân phơi phới của đất nước quê hương (xuân mới loi thoi, én liệng gần).
+ Bắt đầu ba khổ thơ là ba dòng thơ được viết bởi cùng một cấu trúc câu: Quây... làm căn hộ..., mỗi lần lặp lại là một lần biến đổi, tăng tiến (đại dương - vô tận - thử thách) Cấu trúc nhấn mạnh tâm thế chủ động, ý chí kiên cường,... của những người lính đảo trong công cuộc bảo vệ chủ quyền biển đảo quê hương.
(Liên hệ: Tổ quốc nhìn từ biển - Nguyễn Việt Chiến, Đợi mưa trên đảo Sinh Tồn - Trần Đăng Khoa ⟶ tương đồng: đều viết về biển đảo quê hương, ca ngượi vẻ đẹp của những người lính biển, khơi gợi lòng tự hào dân tộc, ý thức bảo vệ chủ quyền biển đảo,...)
=> Hình tượng người lính mạnh mẽ, chủ động, dũng cảm, kiên cường nhưng cũng rất lãng mạn, lạc quan, trẻ trung, đầy tin tưởng,...
* Đánh giá chung
- Căn hộ biển là thi phẩm có tứ thơ độc đáo; ngôn ngữ, hình ảnh đặc sắc, giàu sức gợi;... Bài thơ vừa là lời ngợi ca những người lính nơi hải đảo xa xôi, vừa khơi gợi, bồi đắp tình yêu quê hương đất nước, nhận thức trách nhiệm của mỗi người dân Việt Nam đối với Tổ quốc.
Căn hộ biển như một cột mốc chủ quyền, cắm xuống lòng biển khơi khối yêu nước của hết thảy nhân dân Việt Nam.
- Liên hệ: Trách nhiệm của thế hệ trẻ trong việc bảo vệ và xây dựng Tổ quốc hôm nay.
<*> Tham khảo bài viết:
Nhà thơ Hữu Thỉnh là người có nhiều thành công viết về đề tài người lính. Ông cũng là tác giả của trường ca “Biển” như một bản giao hưởng dào dạt cuộn sóng trên biển Đông. Thơ ông nhiều trực cảm, sâu sắc giàu suy tưởng đã khái quát thành những ý tưởng để từ đó thổn thức và lan tỏa cộng hưởng với bao đồng cảm, bao sẻ chia, bao lắng đọng. Nhà thơ đã chưng cất, đã xây nên đã định vị vững chắc một “Căn hộ biển” như một cột mốc thép cắm xuống biển khơi, quy tụ và sum suê, ấm áp một nét thân quen của quê nhà của ngàn đời thôn Việt.
Tứ thơ vững chãi qua những trục cảm xúc bắt đầu từ “quây đại dương” đến “quây vô tận” và “quây thử thách”. Câu thơ như neo lại, như thẳm sâu mà cứ nâng dần lên từ cụ thể đến khái quát qua góc nhìn, góc cảm của một người lính, người trong cuộc. Bắt đầu từ “Quây đại dương làm một căn hộ biển” cái từ “quây” vừa thôn dã lại có gì gần gụi ôm trọn vòng tay lại vừa thân thiết đồng lòng, vật liệu “Căn hộ biển” này cũng rất đặc biệt: “lát biển làm sân - kê gió làm thềm”. Hữu Thỉnh rất tài hoa, lung linh, linh hoạt chuyển đổi từ ảo sang thật, từ mộng mơ sang hiện tại. Tần số tâm tình luôn thường trực trong ông khi: “mây đến treo tranh lồng tứ hải - thủy triều đưa võng cõng trăng lên”. Đó là một căn hộ như trong cổ tích, đẹp đến nao lòng. Cái chất lãng mạn tâm hồn người lính hòa cùng thiên nhiên chưng cất một “Căn hộ biển” vững chải trước bao thử thách; Và nhà thơ đã mở cánh cửa tâm hồn mời ta khám phá những chủ nhân của căn hộ độc đáo này.
Từ “quây đại dương” đến “quây vô tận” không chỉ nói trong biên độ địa lý mà còn tỏa rộng biên độ của tấm lòng, của tâm hồn, của ý chí những người làm chủ căn hộ. Đó là: “lính đảo canh gần cơn bão xa”. Cơn bão ấy không chỉ là bão thiên nhiên mà còn là bão của những âm mưu đen tối “ngẫm tình nghĩa nhạt nhòa”. Người lính đang neo mình neo căn hộ giữa hai cơn bão: bão tố dễ nhận mặt, bão người khó thay! Đó là lúc hơn bao giờ hết “nhận mặt ngày đang tới - ngắm lưng ngày đang qua - ngắm bất trắc vần vụ” luôn trong tư thế cảnh giác cao độ để giữ vững bảo vệ trọn vẹn lãnh thổ Tổ quốc biên giới hải đảo. Chỉ mấy cử chỉ “nhận mặt” và “ngắm lưng” cũng đủ cho ta thấy sự bình tĩnh kiên định, ý thức cảnh giác cao độ của tư thế người lính. Chỉ một động thái: “chao chân trên thế sự” mà gợi được sự làm chủ trong mọi tình huống vừa chủ động thanh thoát, vừa kiên định vững mạnh, vừa an hòa đàng hoàng, vừa thấu hiểu mạch lạc. Một cái “chao chân” ngỡ như chanh chao thì được định vị lại chắc chắn, cân bằng lại miền tin khi: “vừa hay nhận tin nhà” từ một hậu phương xa mà thật gần trong cánh thư thăm tiếp thêm sức mạnh. Có lẽ khi viết “Căn hộ biển” nhà thơ Hữu Thỉnh hướng tâm thức về đất liền bởi trong căn cốt mỗi người lính đều có một căn cước văn hóa làng. Chính điều này khi vươn xa ra biển khơi thì cội nguồn tiềm ẩn ấy là nền móng bền vững neo giữa biển khơi. Phải chăng “Căn hộ biển” ở đây chính là những nhà giàn trên sóng biển đông dù có “loi thoi” nhưng vững chãi vô cùng với bốn mùa sóng gió.
Khổ thơ cuối chính là cái cột cái vững chắc nâng đỡ cả “Căn hộ biển”: “Quây thử thách làm một căn hộ thép”. Căn hộ ấy của những người lính trẻ tuổi thanh xuân đang trạo rực đang phơi phới đang tung tẩy: “Bốn bề chật chội tuổi thanh xuân”. Căn hộ ấy chính là một bệ phóng, một điểm tựa không chỉ xây bằng vật liệu sắt thép xi măng mà bằng cả vật liệu tâm hồn, ý chí khi: “thở cùng nhịp biển, nghe trăng quẫy” thật lãng mạn thật tươi mới thật sinh động. Tuổi thanh xuân lại gặp mùa xuân trong “Căn hộ biển” với sức xuân, nhịp sóng xuân: “xuân mới loi thoi, én liệng gần” báo tin xuân, dự cảm xuân và khát vọng xuân.
* Giới thiệu khái quát tác giả, tác phẩm
- Hữu Thỉnh (sinh năm 1942) tên thật là Nguyễn Hữu Thỉnh, bút danh khác là Vũ Hữu. Ông là nhà thơ trưởng thành vào thời kì hòa bình. Thơ ông giản dị nhưng vô cùng tinh tế và sâu sắc.
- Căn hộ biển: một trong những thi phẩm đặc sắc của Hữu Thỉnh.
+ Đề tài: Người lính biển.
+ Nhan đề: Căn hộ biển
• Từ căn hộ (không phải là lều bạt chung chiêng giữa nước giữa trời như trong thơ Trần Đăng Khoa viết từ những năm 1980) gợi đến một không gian sống tiện nghi, hiện đại, sang trọng.
• Căn hộ biển: gợi không gian sống hoà hợp giữa con người với thiên nhiên.
⟶ Nhan đề gợi hình dung về đời sống thật là sang (mượn cách nói của Hồ Chí Minh: Cuộc đời cách mạng thật là sang) của các chiến sĩ trên quần đảo Trường Sa.
+ Nhân vật trữ tình: tác giả.
+ Hình tượng nhân vật chính trong bài thơ: người lính đảo ⟶ hình tượng nhân vật quen thuộc, xuất hiện nhiều trong thơ ca (Lính đảo hát tình ca trên đảo, Thơ tình người lính biển, Đồng đội tôi trên đảo Thuyền Chài, Đợi mưa trên đảo Sinh Tồn,... - Trần Đăng Khoa, Tổ quốc nhìn từ biển - Nguyễn Việt Chiến,...).
+ Chủ đề: Ngợi ca những người lính đảo.
+ Thể thơ: tự do, rất phù hợp để nhân vật trữ tình bộc lộc tình cảm, cảm xúc một cách phóng khoáng.
+ Bố cục: 3 phần
• Khổ thơ thứ nhất: Hình tượng căn hộ biển.
• Khổ thơ thứ hai, thứ ba: Hình tượng người người lính đảo.
* Phân tích bài thơ
- Khổ thơ thứ nhất: tái hiện “quá trình” xây cất căn hộ biển - không gian sinh hoạt, thực thi nhiệm vụ của những người lính đảo.
+ Động từ quây (mang nghĩa là bao, trấn xung quanh) gắn liền với thực thể đại dương (không gian mênh mông vô cùng vô tận là một cách nói quá nhưng lại mang ý vị hóm hỉnh vừa thể hiện vị thế làm chủ của con người, vừa thể hiện sự giao hoà của con người với thiên nhiên. Không gian đại dương rộng lớn bỗng chốc thu lại bé gọn, xinh xắn, đầm ấm (căn hộ lính). Con người bởi thế không nhỏ bé, đơn độc giữa thiên nhiên mà ngược lại gần gũi, kề cận với thiên nhiên.
+ Các động từ lát, kê, treo, đưa, cõng mô tả động tác xây dựng, kiến thiết của con người từ những “vật liệu”, “nguyên liệu” đặc biệt như biển, gió, mây, thuỷ triều, trăng. Theo đó, một không gian nguy nga, sang trọng mỗi lúc một hiển hiện rõ nét. Không gian ấy không chỉ mang đến cảm nhận về sự sang giàu về vật chất mà còn gây ấn tượng mạnh mẽ về sự đủ đầy ở phương diện tinh thần (mây đến treo tranh lồng tứ hải, thuỷ triều đưa võng cõng trăng lên).
⟶ Đoạn thơ hoàn toàn không có dấu vết của khó khăn, gian khổ, thiếu thốn. Ăm ắp trong lời thơ là cuộc sống giàu có, đời sống phong lưu của những người lính đảo. Hiển nhiên, kiến tạo nên cuộc sống ấy chính là người lính. Họ tuy không hiện diện trực tiếp nhưng là chủ thể của một loạt hành động chủ động nhằm kiến thiết, dựng xây đời sống tươi đẹp giữa biển khơi bao la. Theo đó, con người không bé nhỏ, mong manh, đơn độc mà ngạo nghễ nhưng thân thiện trước thiên nhiên kì vĩ, tươi đẹp, hiền hoà.
- Khổ thơ thứ hai, ba: Hình tượng người lính đảo
+ Khổ thứ hai: phác hoạ hình tượng người lính đảo.
• Dù lãng mạn bao nhiêu, sau cùng nhà thơ vẫn phải đặt những người lính đảo giữa hiện thực đầy gai góc: vô tận, cơn bão xa, bất trắc vần vụ, tình nghĩa nhạt nhoà, thế sự, gia đình,... Các từ ngữ gợi lên một đời thực chênh chao trên biển đảo với những gieo neo, bất trắc có thể gọi tên (biển bao la, cơn bão) và cả những điều không thể gọi tên (tình nghĩa nhạt nhoà với anh bạn láng giềng, bao chuyện đời biến thiên dâu bể nơi đất liền, tình nhà).
• Các động từ: canh, nhận mặt, ngắm, ngẫm, chao chân vừa mô tả hình tượng người lính với nhiệm vụ canh giữ biển trời đất nước thiêng liêng vừa gợi cảm nhận về hình ảnh những con người cũng có bao tâm tư, trăn trở trong tâm trí.
⟶ Hình tượng người lính hiện lên đầy đặn qua những dòng thơ hết sức cô đọng, hàm súc. Ngòi bút của Hữu Thỉnh như một nét cọ, chỉ bằng vài ba nét giản dị nhưng đủ để hoạ lên dáng hình - thần thái, vẻ bề ngoài - nội tâm bên trong của những người lính đảo.
+ Khổ thứ ba: tập trung tô đậm vẻ đẹp tuổi trẻ của những người lính đảo.
• Từ thanh xuân gieo ấn tượng về tuổi trẻ, sức trẻ ở những người lính đảo. Câu thơ bốn bề chật chội tuổi thanh xuân gợi sức lực, sức khoẻ, sức sống, nhiệt huyết căng tràn trong những chàng trai trẻ tuổi. Bốn bể mêng mang tưởng chừng vô cùng vô tận mà vẫn không đủ để chứa, đựng sức sống, nhiệt huyết tuổi trẻ.
• Câu thơ Quây thử thách làm một căn hộ thép tô đậm ý chí, nghị lực kiên gan, phi thường. Bao khó khăn, gian khổ nơi đầu sóng ngọn gió không những không thể làm nhụt chí người lính, ngược lại càng tôi luyện cho con người thêm kiên gan, bền chí.
• Các chi tiết thở cùng nhịp biển, nghe trăng quẫy là sự hoà nhịp, hoà điệu của các chiến sĩ hải đảo với biển trời bao la. Cảm hứng lãng mạn, bay bổng đã cất cánh, vút bay cùng ăm ắp niềm tin, niềm hi vọng vào cuộc sống, sự sống bình yên, tươi mới của quê hương đất nước. Và thanh xuân, tuổi trẻ mỗi chàng trai như cũng đang hoà vào nhịp xuân phơi phới của đất nước quê hương (xuân mới loi thoi, én liệng gần).
+ Bắt đầu ba khổ thơ là ba dòng thơ được viết bởi cùng một cấu trúc câu: Quây... làm căn hộ..., mỗi lần lặp lại là một lần biến đổi, tăng tiến (đại dương - vô tận - thử thách) Cấu trúc nhấn mạnh tâm thế chủ động, ý chí kiên cường,... của những người lính đảo trong công cuộc bảo vệ chủ quyền biển đảo quê hương.
(Liên hệ: Tổ quốc nhìn từ biển - Nguyễn Việt Chiến, Đợi mưa trên đảo Sinh Tồn - Trần Đăng Khoa ⟶ tương đồng: đều viết về biển đảo quê hương, ca ngượi vẻ đẹp của những người lính biển, khơi gợi lòng tự hào dân tộc, ý thức bảo vệ chủ quyền biển đảo,...)
=> Hình tượng người lính mạnh mẽ, chủ động, dũng cảm, kiên cường nhưng cũng rất lãng mạn, lạc quan, trẻ trung, đầy tin tưởng,...
* Đánh giá chung
- Căn hộ biển là thi phẩm có tứ thơ độc đáo; ngôn ngữ, hình ảnh đặc sắc, giàu sức gợi;... Bài thơ vừa là lời ngợi ca những người lính nơi hải đảo xa xôi, vừa khơi gợi, bồi đắp tình yêu quê hương đất nước, nhận thức trách nhiệm của mỗi người dân Việt Nam đối với Tổ quốc.
Căn hộ biển như một cột mốc chủ quyền, cắm xuống lòng biển khơi khối yêu nước của hết thảy nhân dân Việt Nam.
- Liên hệ: Trách nhiệm của thế hệ trẻ trong việc bảo vệ và xây dựng Tổ quốc hôm nay.
<*> Tham khảo bài viết:
Nhà thơ Hữu Thỉnh là người có nhiều thành công viết về đề tài người lính. Ông cũng là tác giả của trường ca “Biển” như một bản giao hưởng dào dạt cuộn sóng trên biển Đông. Thơ ông nhiều trực cảm, sâu sắc giàu suy tưởng đã khái quát thành những ý tưởng để từ đó thổn thức và lan tỏa cộng hưởng với bao đồng cảm, bao sẻ chia, bao lắng đọng. Nhà thơ đã chưng cất, đã xây nên đã định vị vững chắc một “Căn hộ biển” như một cột mốc thép cắm xuống biển khơi, quy tụ và sum suê, ấm áp một nét thân quen của quê nhà của ngàn đời thôn Việt.
Tứ thơ vững chãi qua những trục cảm xúc bắt đầu từ “quây đại dương” đến “quây vô tận” và “quây thử thách”. Câu thơ như neo lại, như thẳm sâu mà cứ nâng dần lên từ cụ thể đến khái quát qua góc nhìn, góc cảm của một người lính, người trong cuộc. Bắt đầu từ “Quây đại dương làm một căn hộ biển” cái từ “quây” vừa thôn dã lại có gì gần gụi ôm trọn vòng tay lại vừa thân thiết đồng lòng, vật liệu “Căn hộ biển” này cũng rất đặc biệt: “lát biển làm sân - kê gió làm thềm”. Hữu Thỉnh rất tài hoa, lung linh, linh hoạt chuyển đổi từ ảo sang thật, từ mộng mơ sang hiện tại. Tần số tâm tình luôn thường trực trong ông khi: “mây đến treo tranh lồng tứ hải - thủy triều đưa võng cõng trăng lên”. Đó là một căn hộ như trong cổ tích, đẹp đến nao lòng. Cái chất lãng mạn tâm hồn người lính hòa cùng thiên nhiên chưng cất một “Căn hộ biển” vững chải trước bao thử thách; Và nhà thơ đã mở cánh cửa tâm hồn mời ta khám phá những chủ nhân của căn hộ độc đáo này.
Từ “quây đại dương” đến “quây vô tận” không chỉ nói trong biên độ địa lý mà còn tỏa rộng biên độ của tấm lòng, của tâm hồn, của ý chí những người làm chủ căn hộ. Đó là: “lính đảo canh gần cơn bão xa”. Cơn bão ấy không chỉ là bão thiên nhiên mà còn là bão của những âm mưu đen tối “ngẫm tình nghĩa nhạt nhòa”. Người lính đang neo mình neo căn hộ giữa hai cơn bão: bão tố dễ nhận mặt, bão người khó thay! Đó là lúc hơn bao giờ hết “nhận mặt ngày đang tới - ngắm lưng ngày đang qua - ngắm bất trắc vần vụ” luôn trong tư thế cảnh giác cao độ để giữ vững bảo vệ trọn vẹn lãnh thổ Tổ quốc biên giới hải đảo. Chỉ mấy cử chỉ “nhận mặt” và “ngắm lưng” cũng đủ cho ta thấy sự bình tĩnh kiên định, ý thức cảnh giác cao độ của tư thế người lính. Chỉ một động thái: “chao chân trên thế sự” mà gợi được sự làm chủ trong mọi tình huống vừa chủ động thanh thoát, vừa kiên định vững mạnh, vừa an hòa đàng hoàng, vừa thấu hiểu mạch lạc. Một cái “chao chân” ngỡ như chanh chao thì được định vị lại chắc chắn, cân bằng lại miền tin khi: “vừa hay nhận tin nhà” từ một hậu phương xa mà thật gần trong cánh thư thăm tiếp thêm sức mạnh. Có lẽ khi viết “Căn hộ biển” nhà thơ Hữu Thỉnh hướng tâm thức về đất liền bởi trong căn cốt mỗi người lính đều có một căn cước văn hóa làng. Chính điều này khi vươn xa ra biển khơi thì cội nguồn tiềm ẩn ấy là nền móng bền vững neo giữa biển khơi. Phải chăng “Căn hộ biển” ở đây chính là những nhà giàn trên sóng biển đông dù có “loi thoi” nhưng vững chãi vô cùng với bốn mùa sóng gió.
Khổ thơ cuối chính là cái cột cái vững chắc nâng đỡ cả “Căn hộ biển”: “Quây thử thách làm một căn hộ thép”. Căn hộ ấy của những người lính trẻ tuổi thanh xuân đang trạo rực đang phơi phới đang tung tẩy: “Bốn bề chật chội tuổi thanh xuân”. Căn hộ ấy chính là một bệ phóng, một điểm tựa không chỉ xây bằng vật liệu sắt thép xi măng mà bằng cả vật liệu tâm hồn, ý chí khi: “thở cùng nhịp biển, nghe trăng quẫy” thật lãng mạn thật tươi mới thật sinh động. Tuổi thanh xuân lại gặp mùa xuân trong “Căn hộ biển” với sức xuân, nhịp sóng xuân: “xuân mới loi thoi, én liệng gần” báo tin xuân, dự cảm xuân và khát vọng xuân.
Hà Tĩnh, ngày 13 tháng 12 năm 2023
N.N.P
(Theo Nguyễn Ngọc Phú, Thơ chọn và lời bình: Căn hộ biển, vanhocnghethuathatinh.org.vn)