I. ĐỌC HIỂU (4,0 điểm)
Đọc đoạn trích:
“Lễ hội Nghinh Ông, một lễ hội truyền thống của ngư dân ven biển từ Quảng Bình đến phía Nam Việt Nam, bao gồm cả Phú Quốc, là một sự kiện quan trọng, biểu trưng cho tín ngưỡng dân gian lâu đời. Đây là lễ hội cầu ngư, cầu cho biển lặng gió hòa, ngư dân gặp nhiều may mắn, làm ăn phát đạt và gia đình được an khang.
Lễ hội Nghinh Ông, được coi là lễ hội nước lớn nhất của ngư dân, có nhiều tên gọi khác nhau như lễ rước cốt Ông, lễ cầu ngư, lễ tế cá Ông, lễ cúng Ông, lễ nghinh Ông Thủy tướng, nhưng tất cả đều dựa trên niềm tin rằng cá Ông là sinh vật thiêng liêng của biển, là vị cứu tinh của những người làm nghề trên biển.
Tín ngưỡng này đã trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống của các thế hệ ngư dân từ xưa đến nay.
Tại Cần Giờ, huyện ven biển duy nhất của Thành phố Hồ Chí Minh, Lễ hội Nghinh Ông được tổ chức thường niên và đã trở thành một sự kiện văn hóa lớn. Ban đầu, lễ hội diễn ra vào tháng Ba âm lịch, nhưng từ năm 1914, lễ hội chuyển sang tháng Tám âm lịch, trùng với mùa đánh bắt bội thu của ngư dân và Tết Trung Thu.
Lễ hội Nghinh Ông Cần Giờ kéo dài ba ngày, từ 15 đến 17 tháng Tám âm lịch, với các hoạt động chính tại di tích Lăng Ông Thủy Tướng, Công viên Văn hóa di tích lịch sử quốc gia Căn cứ Rừng Sác, đình Cần Thạnh và các khu vực trung tâm thị trấn Cần Thạnh. Lễ hội bao gồm các nghi thức truyền thống như rước kiệu, tế lễ, cùng với nhiều hoạt động văn hóa, giải trí.
Tín ngưỡng thờ cá Ông (cá Voi) của ngư dân Cần Giờ gắn liền với nhiều truyền thuyết, trong đó nổi bật là câu chuyện về cá Ông cứu giúp thủy quân của Nguyễn Ánh khi bị quân Tây Sơn truy đuổi. Ngư dân Cần Giờ coi cá Ông là Thần Nam Hải, bảo hộ họ trên biển, và lễ hội Nghinh Ông là dịp để tạ ơn, cầu nguyện cho một mùa đánh bắt mới bội thu, an toàn.
Lễ hội cũng là thời điểm ngư dân nghỉ ngơi, vui chơi sau những ngày lao động vất vả, đồng thời là dịp để tưởng nhớ những người đã có công trong việc phát triển ngư nghiệp, cũng như những ngư dân đã bỏ mình trong lòng biển sâu.
Ngày nay, Lễ hội Nghinh Ông Cần Giờ không chỉ là một sự kiện văn hóa tín ngưỡng mà còn là điểm nhấn du lịch của Thành phố Hồ Chí Minh, thu hút đông đảo người dân và du khách. Với quy mô ngày càng lớn, lễ hội góp phần bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, đồng thời tạo cơ hội giao lưu, kết nối giữa ngư dân và khách thập phương.”
“Lễ hội Nghinh Ông, một lễ hội truyền thống của ngư dân ven biển từ Quảng Bình đến phía Nam Việt Nam, bao gồm cả Phú Quốc, là một sự kiện quan trọng, biểu trưng cho tín ngưỡng dân gian lâu đời. Đây là lễ hội cầu ngư, cầu cho biển lặng gió hòa, ngư dân gặp nhiều may mắn, làm ăn phát đạt và gia đình được an khang.
Lễ hội Nghinh Ông, được coi là lễ hội nước lớn nhất của ngư dân, có nhiều tên gọi khác nhau như lễ rước cốt Ông, lễ cầu ngư, lễ tế cá Ông, lễ cúng Ông, lễ nghinh Ông Thủy tướng, nhưng tất cả đều dựa trên niềm tin rằng cá Ông là sinh vật thiêng liêng của biển, là vị cứu tinh của những người làm nghề trên biển.
Tín ngưỡng này đã trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống của các thế hệ ngư dân từ xưa đến nay.
Tại Cần Giờ, huyện ven biển duy nhất của Thành phố Hồ Chí Minh, Lễ hội Nghinh Ông được tổ chức thường niên và đã trở thành một sự kiện văn hóa lớn. Ban đầu, lễ hội diễn ra vào tháng Ba âm lịch, nhưng từ năm 1914, lễ hội chuyển sang tháng Tám âm lịch, trùng với mùa đánh bắt bội thu của ngư dân và Tết Trung Thu.
Lễ hội Nghinh Ông Cần Giờ kéo dài ba ngày, từ 15 đến 17 tháng Tám âm lịch, với các hoạt động chính tại di tích Lăng Ông Thủy Tướng, Công viên Văn hóa di tích lịch sử quốc gia Căn cứ Rừng Sác, đình Cần Thạnh và các khu vực trung tâm thị trấn Cần Thạnh. Lễ hội bao gồm các nghi thức truyền thống như rước kiệu, tế lễ, cùng với nhiều hoạt động văn hóa, giải trí.
Tín ngưỡng thờ cá Ông (cá Voi) của ngư dân Cần Giờ gắn liền với nhiều truyền thuyết, trong đó nổi bật là câu chuyện về cá Ông cứu giúp thủy quân của Nguyễn Ánh khi bị quân Tây Sơn truy đuổi. Ngư dân Cần Giờ coi cá Ông là Thần Nam Hải, bảo hộ họ trên biển, và lễ hội Nghinh Ông là dịp để tạ ơn, cầu nguyện cho một mùa đánh bắt mới bội thu, an toàn.
Lễ hội cũng là thời điểm ngư dân nghỉ ngơi, vui chơi sau những ngày lao động vất vả, đồng thời là dịp để tưởng nhớ những người đã có công trong việc phát triển ngư nghiệp, cũng như những ngư dân đã bỏ mình trong lòng biển sâu.
Ngày nay, Lễ hội Nghinh Ông Cần Giờ không chỉ là một sự kiện văn hóa tín ngưỡng mà còn là điểm nhấn du lịch của Thành phố Hồ Chí Minh, thu hút đông đảo người dân và du khách. Với quy mô ngày càng lớn, lễ hội góp phần bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, đồng thời tạo cơ hội giao lưu, kết nối giữa ngư dân và khách thập phương.”
(Trích Cần Giờ rực rỡ sắc màu: Khám phá lễ hội Nghinh Ông độc đáo - Hàn Mai, theo tcdulichtphcm.vn)
Thực hiện các yêu cầu:
Câu 1 [704881]: Đoạn trích gồm mấy phần? Chỉ ra nội dung của từng phần.
Đoạn trích gồm 3 phần:
- Phần thứ nhất (từ đầu đến từ xưa đến nay): Giới thiệu khái quát về lễ hội Nghinh Ông.
- Phần thứ hai (tiếp đến từ trong lòng biển sâu): Giới thiệu lễ hội Nghinh Ông ở Cần Giờ (địa điểm, thời gian, các hoạt động chính, nguồn gốc và ý nghĩa)
- Phần thứ ba (còn lại): Khẳng định giá trị của lễ hội Nghinh Ông trong đời sống hiện đại.
- Phần thứ nhất (từ đầu đến từ xưa đến nay): Giới thiệu khái quát về lễ hội Nghinh Ông.
- Phần thứ hai (tiếp đến từ trong lòng biển sâu): Giới thiệu lễ hội Nghinh Ông ở Cần Giờ (địa điểm, thời gian, các hoạt động chính, nguồn gốc và ý nghĩa)
- Phần thứ ba (còn lại): Khẳng định giá trị của lễ hội Nghinh Ông trong đời sống hiện đại.
Câu 2 [704882]: Theo đoạn trích, lễ hội Nghinh Ông gắn liền với những mong cầu nào của người dân?
Theo đoạn trích, lễ hội Nghinh Ông gắn liền với những mong cầu của người dân: cầu cho biển lặng gió hòa, ngư dân gặp nhiều may mắn, làm ăn phát đạt và gia đình được an khang; cầu nguyện cho một mùa đánh bắt mới bội thu, an toàn.
Câu 3 [704883]: Tín ngưỡng thờ cá Ông (cá Voi) của ngư dân Cần Giờ gắn liền với nhiều truyền thuyết, trong đó nổi bật là câu chuyện về cá Ông cứu giúp thủy quân của Nguyễn Ánh khi bị quân Tây Sơn truy đuổi. Ngư dân Cần Giờ coi cá Ông là Thần Nam Hải, bảo hộ họ trên biển, và lễ hội Nghinh Ông là dịp để tạ ơn, cầu nguyện cho một mùa đánh bắt mới bội thu, an toàn.
Chỉ ra tác dụng của yếu tố tự sự được sử dụng trong đoạn trích trên.
Chỉ ra tác dụng của yếu tố tự sự được sử dụng trong đoạn trích trên.
- Yếu tố tự sự: câu chuyện về cá Ông cứu giúp thủy quân của Nguyễn Ánh khi bị quân Tây Sơn truy đuổi.)
- Tác dụng của yếu tố tự sự trong đoạn trích:
+ Giải thích nguồn gốc của lễ hội Nghinh Ông; khẳng định giá trị tín ngưỡng, vai trò của cá Ông trong đời sống tâm linh của ngư dân.
+ Thể hiện hiểu biết của người viết về vấn đề thuyết minh.
+ Tạo nên sức hấp dẫn, gây ấn tượng và tăng tính thuyết phục về đối tượng được thuyết minh (lễ hội Nghinh Ông ở Cần Giờ).
- Tác dụng của yếu tố tự sự trong đoạn trích:
+ Giải thích nguồn gốc của lễ hội Nghinh Ông; khẳng định giá trị tín ngưỡng, vai trò của cá Ông trong đời sống tâm linh của ngư dân.
+ Thể hiện hiểu biết của người viết về vấn đề thuyết minh.
+ Tạo nên sức hấp dẫn, gây ấn tượng và tăng tính thuyết phục về đối tượng được thuyết minh (lễ hội Nghinh Ông ở Cần Giờ).
Câu 4 [704884]: Việc liệt kê các tên gọi khác của Lễ hội Nghinh ông trong đoạn trích cho thấy đặc điểm nào ở tác giả đoạn trích?
Việc liệt kê các tên gọi khác của Lễ hội Nghinh ông trong đoạn trích cho thấy tác giả là người:
- Có hiểu biết sâu sắc, am hiểu tường tận về lễ hội Nghinh Ông và tín ngưỡng dân gian của ngư dân ven biển.
- Có thái độ trân trọng, có ý thức lan toả hiểu biết về một nét đẹp trong văn hoá truyền thống của địa phương nói riêng và của dân tộc nói chung.
- Có hiểu biết sâu sắc, am hiểu tường tận về lễ hội Nghinh Ông và tín ngưỡng dân gian của ngư dân ven biển.
- Có thái độ trân trọng, có ý thức lan toả hiểu biết về một nét đẹp trong văn hoá truyền thống của địa phương nói riêng và của dân tộc nói chung.
Câu 5 [704885]: Lễ hội cũng là thời điểm ngư dân nghỉ ngơi, vui chơi sau những ngày lao động vất vả, đồng thời là dịp để tưởng nhớ những người đã có công trong việc phát triển ngư nghiệp, cũng như những ngư dân đã bỏ mình trong lòng biển sâu.
Nhận xét ý nghĩa của Lễ hội Nghinh Ông được thể hiện qua câu văn trên.
Nhận xét ý nghĩa của Lễ hội Nghinh Ông được thể hiện qua câu văn trên.
Lễ hội cũng là thời điểm ngư dân nghỉ ngơi, vui chơi sau những ngày lao động vất vả, đồng thời là dịp để tưởng nhớ những người đã có công trong việc phát triển ngư nghiệp, cũng như những ngư dân đã bỏ mình trong lòng biển sâu.
- Đoạn văn nêu lên ý nghĩa của lễ hội Nghinh Ông đối với ngư dân trong đời sống thực tại (thời điểm ngư dân nghỉ ngơi, vui chơi sau những ngày lao động vất vả) và đối với những người có công trong phát triển ngư nghiệp hay những ngư dân đã bỏ mình nơi biển sâu.
- Những ý nghĩa đó khiến lễ hội Nghinh Ông không chỉ mang đậm giá trị nhân văn mà còn có ý nghĩa giáo dục đối với con người hiện tại, khơi gợi sự kết nối giữa hiện tại với quá khứ.
- Đoạn văn nêu lên ý nghĩa của lễ hội Nghinh Ông đối với ngư dân trong đời sống thực tại (thời điểm ngư dân nghỉ ngơi, vui chơi sau những ngày lao động vất vả) và đối với những người có công trong phát triển ngư nghiệp hay những ngư dân đã bỏ mình nơi biển sâu.
- Những ý nghĩa đó khiến lễ hội Nghinh Ông không chỉ mang đậm giá trị nhân văn mà còn có ý nghĩa giáo dục đối với con người hiện tại, khơi gợi sự kết nối giữa hiện tại với quá khứ.
II. VIẾT (6,0 điểm)
Câu 6 [704886]: (2,0 điểm)
Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về giá trị tinh thần của các lễ hội văn hoá trong đời sống của con người.
Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về giá trị tinh thần của các lễ hội văn hoá trong đời sống của con người.
Đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ về giá trị tinh thần của các lễ hội văn hoá trong đời sống của con người:
- (Với mỗi cá nhân) Lễ hội văn hoá là dịp để mỗi người cầu mong sự may mắn, hạnh phúc và hướng thiện; là hoạt động giúp mỗi con người cân bằng lại cuộc sống (có thời gian nghỉ ngơi, thư giãn sau những chặng làm việc vất vả); kết nối mỗi người với cội nguồn, quê hương, đồng bào,... (lễ hội là dịp để các thế hệ gặp gỡ, chia sẻ và duy trì truyền thống gia đình, dòng họ, làng xóm,...);
- (Với cộng đồng) Lễ hội văn hoá góp phầngìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc (Lễ hội tái hiện các phong tục, tập quán, giá trị lịch sử và bản sắc dân tộc; là phương tiện giáo dục thế hệ trẻ về nguồn cội, tinh thần tự hào dân tộc. Thông qua các nghi lễ, trò chơi dân gian, ẩm thực đặc trưng,... lễ hội giúp con người hiểu rõ hơn về dân tộc mình.);...
- (Với mỗi cá nhân) Lễ hội văn hoá là dịp để mỗi người cầu mong sự may mắn, hạnh phúc và hướng thiện; là hoạt động giúp mỗi con người cân bằng lại cuộc sống (có thời gian nghỉ ngơi, thư giãn sau những chặng làm việc vất vả); kết nối mỗi người với cội nguồn, quê hương, đồng bào,... (lễ hội là dịp để các thế hệ gặp gỡ, chia sẻ và duy trì truyền thống gia đình, dòng họ, làng xóm,...);
- (Với cộng đồng) Lễ hội văn hoá góp phầngìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc (Lễ hội tái hiện các phong tục, tập quán, giá trị lịch sử và bản sắc dân tộc; là phương tiện giáo dục thế hệ trẻ về nguồn cội, tinh thần tự hào dân tộc. Thông qua các nghi lễ, trò chơi dân gian, ẩm thực đặc trưng,... lễ hội giúp con người hiểu rõ hơn về dân tộc mình.);...
Câu 7 [704887]: (4,0 điểm)
Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) phân tích hình tượng nhân vật trữ tình trong bài thơ sau:
TÊN LÀNG
(Y Phương)
Con là con trai của mẹ
Người đàn ông ở làng Hiếu Lễ
Ba mươi tuổi từ mặt trận về
Vội vàng cưới vợ
Ba mốt tuổi tập tành nhà cửa
Rào miếng vườn trồng cây rau
Hạnh phúc xinh xinh nho nhỏ ban đầu
Như mặt trời mới nhô ra khỏi núi
Con là con trai của mẹ
Người đàn ông ở làng Hiếu Lễ
Mang trong người cơn sốt cao nguyên
Mang trên mình vết thương
Ơn cây cỏ quê nhà
Chữa cho con lành lặn
Con là con trai của mẹ
Người đàn ông ở làng Hiếu Lễ
Lần đầu tiên ôm tiếng khóc lên ba
Lần đầu tiên sông núi gọi ông bà
Lần đầu tiên nhóm lửa trên mặt nước
Lần đầu tiên sứ sành rạn nứt
Lần đầu tiên ý nghĩ khôn lên
Ý nghĩ khôn lên nỗi buồn thấm tháp
Bàn chân từng đạp bằng đá sắc
Trở về làng bập bẹ tiếng đầu tiên
Ơi cái làng của mẹ sinh con
Có ngôi nhà xây bằng đá hộc
Có con đường trâu bò vàng đen đi kìn kịt
Có niềm vui lúa chín tràn trề
Có tình yêu tan thành tiếng thác
Vang lên trời
Vọng xuống đất
Cái tên làng Hiếu Lễ của con.
Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) phân tích hình tượng nhân vật trữ tình trong bài thơ sau:
TÊN LÀNG
(Y Phương)
Con là con trai của mẹ
Người đàn ông ở làng Hiếu Lễ
Ba mươi tuổi từ mặt trận về
Vội vàng cưới vợ
Ba mốt tuổi tập tành nhà cửa
Rào miếng vườn trồng cây rau
Hạnh phúc xinh xinh nho nhỏ ban đầu
Như mặt trời mới nhô ra khỏi núi
Con là con trai của mẹ
Người đàn ông ở làng Hiếu Lễ
Mang trong người cơn sốt cao nguyên
Mang trên mình vết thương
Ơn cây cỏ quê nhà
Chữa cho con lành lặn
Con là con trai của mẹ
Người đàn ông ở làng Hiếu Lễ
Lần đầu tiên ôm tiếng khóc lên ba
Lần đầu tiên sông núi gọi ông bà
Lần đầu tiên nhóm lửa trên mặt nước
Lần đầu tiên sứ sành rạn nứt
Lần đầu tiên ý nghĩ khôn lên
Ý nghĩ khôn lên nỗi buồn thấm tháp
Bàn chân từng đạp bằng đá sắc
Trở về làng bập bẹ tiếng đầu tiên
Ơi cái làng của mẹ sinh con
Có ngôi nhà xây bằng đá hộc
Có con đường trâu bò vàng đen đi kìn kịt
Có niềm vui lúa chín tràn trề
Có tình yêu tan thành tiếng thác
Vang lên trời
Vọng xuống đất
Cái tên làng Hiếu Lễ của con.
Bài văn phân tích bài thơ Tên làng (Y Phương) có thể triển khai theo nhiều cách, song cần bảo đảm các ý chính:
* Giới thiệu khái quát tác giả, tác phẩm
- Y Phương (1948 - 2022) tên khai sinh là Hứa Vĩnh Sước, dân tộc Tày; quê ở huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng. Thơ ông thể hiện tâm hồn chân thật, mạnh mẽ và trong sáng, cách tư duy giàu hình ảnh của con người miền núi.
- Tên làng:
+ Bài thơ “Tên làng” được nhà thơ Y Phương sáng tác từ năm 1983 và được Tạp chí Văn nghệ Quân đội trao giải nhất cuộc thi sáng tác thơ năm 1983 - 1984.
+ Chủ đề: Ca ngợi tình yêu gia đình, tình yêu quê hương sâu nặng.
+ Thể thơ: tự do, phù hợp để diễn tả dòng cảm xúc mộc mạc và chân thành của nhân vật trữ tình.
+ Hình tượng nhân vật trữ tình: người đàn ông ở làng Hiếu Lễ - một người con của quê hương.
+ Bố cục: 3 phần.
• Phần một (khổ 1): Giới thiệu khái quát hình tượng nhân vật trữ tình, cũng là nhân vật chính của bài thơ, người đàn ông làng Hiếu Lễ.
• Phần hai (khổ 2 - 4): Cuộc sống của người đàn ông làng Hiếu Lễ trên quê hương mình.
• Phần thứ ba (khổ 5): Tình cảm, cảm xúc của nhân vật trữ tình với quê hương.
* Phân tích hình tượng nhân vật trữ tình
- Khổ một: Giới thiệu khái quát hình tượng nhân vật
+ Quê quán: làng Hiếu Lễ.
+ Tuổi tác: ba mươi tuổi. Trước đây tam thập nhi lập, người đàn ông ba mươi tuổi đã được coi là trưởng thành, có gia đình, có công danh sự nghiệp. Ba mươi tuổi nhân vật trữ tình mới từ mặt trận trở về và vội vàng cưới vợ, vội vàng bắt đầu đời sống gia đình.
⟶ Với lời thơ mang đậm màu sắc tự sự, ngôn ngữ mộc mạc, dung dị, giọng điệu tự nhiên, chân thành, khổ thơ đã phác hoạ đủ để người đọc hình dung hình tượng nhân vật trữ tình: một người đàn ông làng Hiếu Lễ, bởi chiến tranh nên muộn vợ con...
- Khổ hai, ba, bốn: Cuộc sống của người đàn ông làng Hiếu Lễ trên quê hương mình
+ Cuộc sống mới bắt đầu của người đàn ông vào đời muộn: Ba mốt tuổi tập tành nhà cửa, bắt đầu gây dựng cuộc sống giản dị, đơn sơ (rào miếng vườn, trồng cây rau), an yên với hạnh phúc ban đầu. Phép nhân hoá kết hợp so sánh cùng các từ láy trong hai dòng thơ Hạnh phúc xinh xinh nho nhỏ ban đầu/ Như mặt trời mới nhô ra khỏi núi thể hiện một cách chân thực, xúc động niềm hân hoan, cảm giác vui sướng, ấm áp khi được nếm trải, trải nghiệm đời sống gia đình. Hạnh phúc đơn sơ, bé xinh được hữu hình hoá, như thể cầm nằm được trong tay.
+ Cuộc sống với muôn vàn khó khăn trắc trở nhưng luôn được gia đình, quê hương yêu thương, nâng đỡ, bao bọc, chở che:
• Những khó khăn, trắc trở: những di chứng của chiến tranh (mang trong người cơn sốt cao nguyên, mang trên mình vết thương), lần đầu đối diện với những việc gian nan chưa từng trải qua (lần đầu tiên nhóm lửa trên mặt nước), lần đầu đối diện với những va chạm trong đời sống vợ chồng (lần đầu tiên sứ sành rạn nứt),...
• Luôn được gia đình, quê hương bao bọc, nâng đỡ, chỉ bảo: cây cỏ quê nhà chữa lành các vết thương từ chiến trường; rưng rưng trước hạnh phúc làm cha, được nghe tiếng khóc, tiếng gọi của con (lần đầu tiên ôm tiếng khóc lên ba, lần đầu tiên sông núi gọi ông bà), học những bài học đầu tiên trên đường đời ở chính quê hương mình (trở về làng bập bẹ tiếng đầu tiên)...
• Để rồi mỗi ngày một dạn dày, trưởng thành, đầy nếm trải: ý nghĩ khôn lên, nỗi buồn thấm tháp.
⟶ Thể thơ tự do; lời thơ mộc mạc, giản dị; giọng điệu tự nhiên, chân thành; sử dụng thành công các biện pháp tu từ (phép điệp, phép đối, phép liệt kê, ẩn dụ,...);... khắc hoạ thành công hình tượng nhân vật người đàn ông làng Hiếu Lễ hồn nhiên, giàu tình cảm, luôn yêu kính, biết ơn gia đình, quê hương,...
+ Khổ năm: Tình cảm, cảm xúc của nhân vật trữ tình với quê hương
• Phép điệp kết hợp nghệ thuật liệt kê (ngôi nhà xây bằng đá hộc, con đường trâu bò vàng đen đi kìn kịt, lúa chín tràn trề, tình yêu tan thành tiếng thác) bộc lộ tình yêu, niềm tự hào chan chứa trong lòng nhân vật trữ tình về quê hương - một quê hương không chỉ giàu có, trù phú mà còn đong đầy tình cảm thương yêu.
• Việc lặp đi lặp lại hai câu thơ Con là con trai của mẹ/ Người đàn ông ở làng Hiếu Lễ suốt dọc bài thơ cùng câu kết Cái tên làng Hiếu Lễ của con thể hiện ý thức sâu sắc của người đàn ông về cội nguồn và bộc lộ tình yêu, niềm tự hào dành cho quê hương. (Liên hệ: Nói với con - Y Phương, Cây hai ngàn lá - Pờ Sảo Mìn,...)
* Đánh giá chung
- Hình tượng nhân vật người đàn ông làng Hiếu Lễ được khắc hoạ đậm nét qua thể thơ tự do; những dòng thơ đậm màu sắc tự sự; giọng thơ hồn nhiên, chân thành như nước suối trên nguồn, như cỏ cây hoa lá trên núi; ngôn ngữ, hình ảnh giản dị, mộc mạc, gần gũi, đời thường;...
- Bài thơ khắc hoạ đậm nét hình tượng người đàn ông ở làng Hiếu Lễ - tác giả Y Phương - một người con luôn biết ơn gia đình, quê hương đã nuôi nấng, dạy dỗ, bao bọc, chở che mình suốt cuộc đời.
Hơn hết, hình tượng nhân vật trữ tình trong bài thơ chính là đại diện cho những người con của làng quê Việt Nam luôn gần gũi và gắn bó máu thịt với gia đình, làng quê và đất nước.
<*> Tham khảo bài viết:
Bài thơ là lời tự sự của một người con - người lính lớn lên từ làng Hiếu Lễ (Trùng Khánh) để rồi theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc ra mặt trận chiến đấu; cho đến khi cuộc chiến tranh kết thúc người lính trở về thì đã:
... ba mươi tuổi từ mặt trận trở về
Vội vàng cưới vợ
Ở miền núi, con trai, con gái thường sớm được dựng vợ gả chồng. Thường thì ở cái tuổi ba mươi họ đã sòn sòn hai - ba con! Bởi vậy cũng dễ hiểu khi nhà thơ dùng cụm từ “vội vàng cưới vợ”, việc đầu tiên là cưới vợ đã nếu không sẽ muộn mất... Bằng lối biểu đạt thể thơ tự do nên cấu tứ bài thơ khá phóng khoáng, dễ biểu lộ cảm xúc:
Ba mốt tuổi tập tành nhà cửa
Rào miếng vườn trồng cây rau
Hạnh phúc xinh xinh nho nhỏ ban đầu
Như mặt trời mới nhô ra khỏi núi...
Đã ngoài ba mươi, chàng trai mới tập tành mọi chuyện, từ rào vườn trồng rau, sửa sang nhà cửa và cảm nhận hạnh phúc “xinh xinh nho nhỏ”, sự cảm nhận thật tinh tế, thật sinh động hữu hình! Vì chẳng ai có thể nhìn được “hạnh phúc xinh xinh” như thế nào; nhà thơ dùng điệp từ để khẳng định hạnh phúc “xinh xinh nho nhỏ” như thể nó là một vật thể nằm trong bàn tay và hạnh phúc ấy đầy hình ảnh: “Như mặt trời mới nhô ra khỏi núi”... Nếu một lần bạn nhìn thấy mặt trời đỏ rực, tròn trịa đậu trên ngọn núi bạn sẽ cảm nhận được vẻ đẹp thiên nhiên ấy rực rỡ và ngập tràn ước vọng, niềm vui của một ngày mới!
Anh tự hào mình là đứa con của mẹ; đứa con của làng Hiếu Lễ. Người mẹ đã sinh ra anh, hay cũng chính là Đất Mẹ Hiếu Lễ đã nuôi anh khôn lớn, chở che anh đến ngày trở về; chữa cho anh lành lặn vết thương ở chiến trường và những cơn sốt rét những ngày ở rừng. Anh biết ơn mẹ, ơn quê hương và cả những cây cỏ ở quê nhà - những cây thuốc nam quý hiếm chỉ có ở vùng núi đá:
Con là con trai của mẹ
Người đàn ông ở làng Hiếu Lễ
Mang trong mình cơn sốt cao nguyên
Mang trên mình vết thương
Ơn cỏ cây quê nhà
Chữa cho con lành lặn...
Giờ đây, người con trai ấy cũng bắt đầu được làm cha, được rưng rưng nghe tiếng khóc thơ trẻ, được va chạm với cuộc sống khắc nghiệt của đời thường... để rồi cuộc sống đã dạy anh khôn hơn trong ý nghĩ, bên cạnh niềm hạnh phúc xinh xinh đã bắt đầu “sứ sành rạn vỡ” dẫn tới “nỗi buồn thấm tháp”:
... lần đầu tiên ốm tiếng khóc lên ba
Lần đầu tiên nhóm lửa trên mặt nước
Lần đầu tiên sứ sành rạn vỡ
Lần đầu tiên ý nghĩ khôn lên
Ý nghĩ khôn lên nỗi buồn thấm tháp ...
Những câu thơ như bức tranh tả thực, dù bạn đọc khó tính đến mấy thì vẫn hình dung ra hình ảnh của người cha ngượng nghịu bế con trẻ, sung sướng nghe con khóc; lần đầu tiên gặp phải những khó khăn, thiếu thốn ban đầu, vất vả lo toan cho cuộc sống gia đình đã làm nảy sinh ra cái bất hòa, bắt đầu sứ sành rạn vỡ... Từ những nỗi lo không tưởng ấy, nhà thơ đã ví von cuộc sống ban đầu chẳng khác gì nhóm lửa trên mặt nước. Đây là lối ví von khá độc đáo và rất giàu hình ảnh đối lập: Lửa và nước. Tuy nhiên, cái khó bó cái khôn; sự va chạm của vợ chồng đã làm cho ý nghĩ của anh khôn hơn, trưởng thành hơn. Vì hạnh phúc đâu phải dễ kiếm tìm, đâu phải thảm hoa trải sẵn cho những đôi lứa, dẫu người lính ấy đã từng: “Bàn chân từng đạp bằng đá sắc”... đến ngày trở về thì lại: “trở về làng bập bẹ tiếng đầu tiên”... Đời người, ai chẳng trải qua bước thăng trầm khốn khó, những trải nghiệm đầu tiên cho một hạnh phúc lâu bền chính là thử thách để con người ta “bập bẹ”, nghĩa là phải tập đi vào cuộc sống đầy cam go và cũng đầy hy vọng cho những người có bản lĩnh đặt niềm tin ở tương lai.
Ơi cái làng của mẹ sinh con
Có ngôi nhà xây bằng đá hộc
...
Có tình yêu tan thành tiếng thác
Vang lên trời
Vọng xuống đât
Cái tên làng Hiếu Lễ của con.
Khổ thơ cuối nhà thơ đã thể hiện lòng biết ơn của mình đối với mảnh đất Hiếu Lễ: Nơi ấy có người mẹ đã nuôi anh lớn khôn, ngôi làng với nếp nhà xây bằng đá hộc, có con đường mòn khấp khểnh mỗi sớm chiều đàn bò vàng đen kìn kịt về chuồng, có những mảnh ruộng như bậc thang lên cổng trời mùa vàng trĩu bông, có tình yêu đích thực của đời người, tình yêu ấy hẳn rất mạnh mẽ mới có thể làm tan tành tiếng thác, vang đến trời, vọng xuống đất. Cái tên làng Hiếu Lễ thân thương ấy đã cho anh rất nhiều và thật nhiều... Bài thơ tạo cảm giác lắng sâu cho người đọc, nhất là những người con xa quê. Một niềm tự hào, một nỗi nhớ đến nao lòng, từ lối mòn về làng cho đến cỏ cây, hoa lá..., mọi thứ đều hướng thiện, đều toát lên vẻ đẹp của một làng quê biên ải. Bài thơ “Tên làng” của nhà thơ Y Phương chắc chắn đã nói hộ rất nhiều tấm lòng và hay ở chỗ: Chân thực, sinh động và vô cùng tinh tế.
* Giới thiệu khái quát tác giả, tác phẩm
- Y Phương (1948 - 2022) tên khai sinh là Hứa Vĩnh Sước, dân tộc Tày; quê ở huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng. Thơ ông thể hiện tâm hồn chân thật, mạnh mẽ và trong sáng, cách tư duy giàu hình ảnh của con người miền núi.
- Tên làng:
+ Bài thơ “Tên làng” được nhà thơ Y Phương sáng tác từ năm 1983 và được Tạp chí Văn nghệ Quân đội trao giải nhất cuộc thi sáng tác thơ năm 1983 - 1984.
+ Chủ đề: Ca ngợi tình yêu gia đình, tình yêu quê hương sâu nặng.
+ Thể thơ: tự do, phù hợp để diễn tả dòng cảm xúc mộc mạc và chân thành của nhân vật trữ tình.
+ Hình tượng nhân vật trữ tình: người đàn ông ở làng Hiếu Lễ - một người con của quê hương.
+ Bố cục: 3 phần.
• Phần một (khổ 1): Giới thiệu khái quát hình tượng nhân vật trữ tình, cũng là nhân vật chính của bài thơ, người đàn ông làng Hiếu Lễ.
• Phần hai (khổ 2 - 4): Cuộc sống của người đàn ông làng Hiếu Lễ trên quê hương mình.
• Phần thứ ba (khổ 5): Tình cảm, cảm xúc của nhân vật trữ tình với quê hương.
* Phân tích hình tượng nhân vật trữ tình
- Khổ một: Giới thiệu khái quát hình tượng nhân vật
+ Quê quán: làng Hiếu Lễ.
+ Tuổi tác: ba mươi tuổi. Trước đây tam thập nhi lập, người đàn ông ba mươi tuổi đã được coi là trưởng thành, có gia đình, có công danh sự nghiệp. Ba mươi tuổi nhân vật trữ tình mới từ mặt trận trở về và vội vàng cưới vợ, vội vàng bắt đầu đời sống gia đình.
⟶ Với lời thơ mang đậm màu sắc tự sự, ngôn ngữ mộc mạc, dung dị, giọng điệu tự nhiên, chân thành, khổ thơ đã phác hoạ đủ để người đọc hình dung hình tượng nhân vật trữ tình: một người đàn ông làng Hiếu Lễ, bởi chiến tranh nên muộn vợ con...
- Khổ hai, ba, bốn: Cuộc sống của người đàn ông làng Hiếu Lễ trên quê hương mình
+ Cuộc sống mới bắt đầu của người đàn ông vào đời muộn: Ba mốt tuổi tập tành nhà cửa, bắt đầu gây dựng cuộc sống giản dị, đơn sơ (rào miếng vườn, trồng cây rau), an yên với hạnh phúc ban đầu. Phép nhân hoá kết hợp so sánh cùng các từ láy trong hai dòng thơ Hạnh phúc xinh xinh nho nhỏ ban đầu/ Như mặt trời mới nhô ra khỏi núi thể hiện một cách chân thực, xúc động niềm hân hoan, cảm giác vui sướng, ấm áp khi được nếm trải, trải nghiệm đời sống gia đình. Hạnh phúc đơn sơ, bé xinh được hữu hình hoá, như thể cầm nằm được trong tay.
+ Cuộc sống với muôn vàn khó khăn trắc trở nhưng luôn được gia đình, quê hương yêu thương, nâng đỡ, bao bọc, chở che:
• Những khó khăn, trắc trở: những di chứng của chiến tranh (mang trong người cơn sốt cao nguyên, mang trên mình vết thương), lần đầu đối diện với những việc gian nan chưa từng trải qua (lần đầu tiên nhóm lửa trên mặt nước), lần đầu đối diện với những va chạm trong đời sống vợ chồng (lần đầu tiên sứ sành rạn nứt),...
• Luôn được gia đình, quê hương bao bọc, nâng đỡ, chỉ bảo: cây cỏ quê nhà chữa lành các vết thương từ chiến trường; rưng rưng trước hạnh phúc làm cha, được nghe tiếng khóc, tiếng gọi của con (lần đầu tiên ôm tiếng khóc lên ba, lần đầu tiên sông núi gọi ông bà), học những bài học đầu tiên trên đường đời ở chính quê hương mình (trở về làng bập bẹ tiếng đầu tiên)...
• Để rồi mỗi ngày một dạn dày, trưởng thành, đầy nếm trải: ý nghĩ khôn lên, nỗi buồn thấm tháp.
⟶ Thể thơ tự do; lời thơ mộc mạc, giản dị; giọng điệu tự nhiên, chân thành; sử dụng thành công các biện pháp tu từ (phép điệp, phép đối, phép liệt kê, ẩn dụ,...);... khắc hoạ thành công hình tượng nhân vật người đàn ông làng Hiếu Lễ hồn nhiên, giàu tình cảm, luôn yêu kính, biết ơn gia đình, quê hương,...
+ Khổ năm: Tình cảm, cảm xúc của nhân vật trữ tình với quê hương
• Phép điệp kết hợp nghệ thuật liệt kê (ngôi nhà xây bằng đá hộc, con đường trâu bò vàng đen đi kìn kịt, lúa chín tràn trề, tình yêu tan thành tiếng thác) bộc lộ tình yêu, niềm tự hào chan chứa trong lòng nhân vật trữ tình về quê hương - một quê hương không chỉ giàu có, trù phú mà còn đong đầy tình cảm thương yêu.
• Việc lặp đi lặp lại hai câu thơ Con là con trai của mẹ/ Người đàn ông ở làng Hiếu Lễ suốt dọc bài thơ cùng câu kết Cái tên làng Hiếu Lễ của con thể hiện ý thức sâu sắc của người đàn ông về cội nguồn và bộc lộ tình yêu, niềm tự hào dành cho quê hương. (Liên hệ: Nói với con - Y Phương, Cây hai ngàn lá - Pờ Sảo Mìn,...)
* Đánh giá chung
- Hình tượng nhân vật người đàn ông làng Hiếu Lễ được khắc hoạ đậm nét qua thể thơ tự do; những dòng thơ đậm màu sắc tự sự; giọng thơ hồn nhiên, chân thành như nước suối trên nguồn, như cỏ cây hoa lá trên núi; ngôn ngữ, hình ảnh giản dị, mộc mạc, gần gũi, đời thường;...
- Bài thơ khắc hoạ đậm nét hình tượng người đàn ông ở làng Hiếu Lễ - tác giả Y Phương - một người con luôn biết ơn gia đình, quê hương đã nuôi nấng, dạy dỗ, bao bọc, chở che mình suốt cuộc đời.
Hơn hết, hình tượng nhân vật trữ tình trong bài thơ chính là đại diện cho những người con của làng quê Việt Nam luôn gần gũi và gắn bó máu thịt với gia đình, làng quê và đất nước.
<*> Tham khảo bài viết:
Bài thơ là lời tự sự của một người con - người lính lớn lên từ làng Hiếu Lễ (Trùng Khánh) để rồi theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc ra mặt trận chiến đấu; cho đến khi cuộc chiến tranh kết thúc người lính trở về thì đã:
... ba mươi tuổi từ mặt trận trở về
Vội vàng cưới vợ
Ở miền núi, con trai, con gái thường sớm được dựng vợ gả chồng. Thường thì ở cái tuổi ba mươi họ đã sòn sòn hai - ba con! Bởi vậy cũng dễ hiểu khi nhà thơ dùng cụm từ “vội vàng cưới vợ”, việc đầu tiên là cưới vợ đã nếu không sẽ muộn mất... Bằng lối biểu đạt thể thơ tự do nên cấu tứ bài thơ khá phóng khoáng, dễ biểu lộ cảm xúc:
Ba mốt tuổi tập tành nhà cửa
Rào miếng vườn trồng cây rau
Hạnh phúc xinh xinh nho nhỏ ban đầu
Như mặt trời mới nhô ra khỏi núi...
Đã ngoài ba mươi, chàng trai mới tập tành mọi chuyện, từ rào vườn trồng rau, sửa sang nhà cửa và cảm nhận hạnh phúc “xinh xinh nho nhỏ”, sự cảm nhận thật tinh tế, thật sinh động hữu hình! Vì chẳng ai có thể nhìn được “hạnh phúc xinh xinh” như thế nào; nhà thơ dùng điệp từ để khẳng định hạnh phúc “xinh xinh nho nhỏ” như thể nó là một vật thể nằm trong bàn tay và hạnh phúc ấy đầy hình ảnh: “Như mặt trời mới nhô ra khỏi núi”... Nếu một lần bạn nhìn thấy mặt trời đỏ rực, tròn trịa đậu trên ngọn núi bạn sẽ cảm nhận được vẻ đẹp thiên nhiên ấy rực rỡ và ngập tràn ước vọng, niềm vui của một ngày mới!
Anh tự hào mình là đứa con của mẹ; đứa con của làng Hiếu Lễ. Người mẹ đã sinh ra anh, hay cũng chính là Đất Mẹ Hiếu Lễ đã nuôi anh khôn lớn, chở che anh đến ngày trở về; chữa cho anh lành lặn vết thương ở chiến trường và những cơn sốt rét những ngày ở rừng. Anh biết ơn mẹ, ơn quê hương và cả những cây cỏ ở quê nhà - những cây thuốc nam quý hiếm chỉ có ở vùng núi đá:
Con là con trai của mẹ
Người đàn ông ở làng Hiếu Lễ
Mang trong mình cơn sốt cao nguyên
Mang trên mình vết thương
Ơn cỏ cây quê nhà
Chữa cho con lành lặn...
Giờ đây, người con trai ấy cũng bắt đầu được làm cha, được rưng rưng nghe tiếng khóc thơ trẻ, được va chạm với cuộc sống khắc nghiệt của đời thường... để rồi cuộc sống đã dạy anh khôn hơn trong ý nghĩ, bên cạnh niềm hạnh phúc xinh xinh đã bắt đầu “sứ sành rạn vỡ” dẫn tới “nỗi buồn thấm tháp”:
... lần đầu tiên ốm tiếng khóc lên ba
Lần đầu tiên nhóm lửa trên mặt nước
Lần đầu tiên sứ sành rạn vỡ
Lần đầu tiên ý nghĩ khôn lên
Ý nghĩ khôn lên nỗi buồn thấm tháp ...
Những câu thơ như bức tranh tả thực, dù bạn đọc khó tính đến mấy thì vẫn hình dung ra hình ảnh của người cha ngượng nghịu bế con trẻ, sung sướng nghe con khóc; lần đầu tiên gặp phải những khó khăn, thiếu thốn ban đầu, vất vả lo toan cho cuộc sống gia đình đã làm nảy sinh ra cái bất hòa, bắt đầu sứ sành rạn vỡ... Từ những nỗi lo không tưởng ấy, nhà thơ đã ví von cuộc sống ban đầu chẳng khác gì nhóm lửa trên mặt nước. Đây là lối ví von khá độc đáo và rất giàu hình ảnh đối lập: Lửa và nước. Tuy nhiên, cái khó bó cái khôn; sự va chạm của vợ chồng đã làm cho ý nghĩ của anh khôn hơn, trưởng thành hơn. Vì hạnh phúc đâu phải dễ kiếm tìm, đâu phải thảm hoa trải sẵn cho những đôi lứa, dẫu người lính ấy đã từng: “Bàn chân từng đạp bằng đá sắc”... đến ngày trở về thì lại: “trở về làng bập bẹ tiếng đầu tiên”... Đời người, ai chẳng trải qua bước thăng trầm khốn khó, những trải nghiệm đầu tiên cho một hạnh phúc lâu bền chính là thử thách để con người ta “bập bẹ”, nghĩa là phải tập đi vào cuộc sống đầy cam go và cũng đầy hy vọng cho những người có bản lĩnh đặt niềm tin ở tương lai.
Ơi cái làng của mẹ sinh con
Có ngôi nhà xây bằng đá hộc
...
Có tình yêu tan thành tiếng thác
Vang lên trời
Vọng xuống đât
Cái tên làng Hiếu Lễ của con.
Khổ thơ cuối nhà thơ đã thể hiện lòng biết ơn của mình đối với mảnh đất Hiếu Lễ: Nơi ấy có người mẹ đã nuôi anh lớn khôn, ngôi làng với nếp nhà xây bằng đá hộc, có con đường mòn khấp khểnh mỗi sớm chiều đàn bò vàng đen kìn kịt về chuồng, có những mảnh ruộng như bậc thang lên cổng trời mùa vàng trĩu bông, có tình yêu đích thực của đời người, tình yêu ấy hẳn rất mạnh mẽ mới có thể làm tan tành tiếng thác, vang đến trời, vọng xuống đất. Cái tên làng Hiếu Lễ thân thương ấy đã cho anh rất nhiều và thật nhiều... Bài thơ tạo cảm giác lắng sâu cho người đọc, nhất là những người con xa quê. Một niềm tự hào, một nỗi nhớ đến nao lòng, từ lối mòn về làng cho đến cỏ cây, hoa lá..., mọi thứ đều hướng thiện, đều toát lên vẻ đẹp của một làng quê biên ải. Bài thơ “Tên làng” của nhà thơ Y Phương chắc chắn đã nói hộ rất nhiều tấm lòng và hay ở chỗ: Chân thực, sinh động và vô cùng tinh tế.
(Theo Đoàn Ngọc Minh, “Tên làng” - bài thơ hay của nhà thơ Y Phương, https://baocaobang.vn/)