I. ĐỌC HIỂU (4,0 điểm)
Đọc đoạn trích:
“Trong thời đại công nghệ phát triển mạnh mẽ như hiện nay, tiếng Việt đang có nguy cơ bị lai tạp, với nhiều xu hướng sử dụng thiếu chuẩn mực.
Khi công nghệ số phát triển, xóa nhòa biên giới các quốc gia trên các nền tảng mạng, con người dù ở đâu cũng dễ dàng giao lưu, kết nối qua các công cụ hỗ trợ. Không khó để nhận ra, các ứng dụng trên điện thoại, máy tính, mạng xã hội đang ngày một ảnh hưởng sâu sắc đến hành vi ngôn ngữ của mỗi người. Ðáng quan tâm hiện nay là xu thế giao tiếp ngắn gọn, tối giản, lược bỏ các thành phần câu, pha tạp ngoại ngữ, nhất là tiếng Anh.
Một thói quen sử dụng tiếng Việt đã hình thành không chỉ trên mạng mà ngay trong đời sống hằng ngày. Việc nói tiếng Việt có xen từ tiếng Anh ngày càng được nhiều người coi là bình thường. Một số từ thuần Việt đang dần mất đi, nhường chỗ cho các từ tiếng Anh, thậm chí những từ ghép thuần Việt cũng bị biến thành “nửa nạc nửa mỡ” kiểu như “Thứ high” (Thứ 2), “Thứ bar” (Thứ ba), “xỉu up, xỉu down” (xỉu lên, xỉu xuống)... Từng có một Giáo sư ngôn ngữ phải thốt lên: “Tìm một người trẻ giao tiếp bằng từ ngữ thuần Việt không còn dễ”.
Không chỉ chuyện pha tạp tiếng Anh trong việc sử dụng tiếng Việt, một hiện tượng khác cũng rất đáng lưu tâm, là cách các cư dân mạng dùng tiếng Việt trên mạng xã hội theo những cách thức có chiều hướng làm méo ngôn ngữ mẹ đẻ. Hiện tượng nói lái, viết chệch tiếng Việt trở thành “cơm bữa”, gần như không mấy ai băn khoăn. Chẳng hạn, từ “chị” biến thành “chệ”, “vâng” biến thành “vưng”, “tình yêu” thành “tìn iu”, “ngon” biến thành “nhon”, “yêu thế” biến thành “iu xế”, “không” thành “khum”... Tất nhiên việc nói/viết chệch đi như vậy chỉ nhằm mục đích làm cho không gian chuyện trò dễ thương, vui vẻ thân mật hơn, nhưng nếu không ý thức sâu sắc về điều này thì rất có thể dẫn đến sự méo mó của tiếng Việt, khi thói quen nói và viết như vậy ngày càng trở nên phổ biến.
Có ý kiến cho rằng, việc sử dụng ngôn ngữ lai tạp, có phần thiếu chuẩn mực hiện nay là do tâm lí thích khoe khoang của một số cá nhân tỏ ra mình giỏi ngoại ngữ. Tuy nhiên nếu chỉ nói như vậy là phiến diện, bởi vì ngày nay, việc sử dụng ngoại ngữ (tiếng Anh) đã trở nên bình thường do nhu cầu của đời sống hội nhập.
Ở một số ngành nghề, lĩnh vực, việc đọc tài liệu, xử lí thư từ hay giao tiếp bằng tiếng Anh là yêu cầu hằng ngày. Có những từ tiếng Anh mang tính chất chuyên môn thực ra chỉ áp dụng trong phạm vi công việc ở mức độ hẹp. Ðiều này là dễ hiểu và có thể chấp nhận được. Nhưng một lí do cơ bản khác đến từ các ứng dụng công nghệ hiện nay khuyến khích người sử dụng viết và nói ngắn gọn để tiết kiệm thời gian cũng như dung lượng. Vì thế, người ta không quan tâm đến các câu đầy đủ thành phần cũng như diễn đạt sao cho thuần Việt.
Hành văn không được người sử dụng quan tâm đến sắc thái biểu cảm, chủ yếu là thông tin, dễ dàng chấp nhận câu tối giản. Ðiều này thoạt nhìn có thể thấy sự tiện lợi, nhưng thực chất, chúng ta đang dung túng cho hành vi làm mất đi sự phong phú, tinh tế, uyển chuyển và khoa học của ngôn ngữ mẹ đẻ. Sự nguy hại này cũng đã bộc lộ ít nhiều trong một số sáng tác văn học nghệ thuật gần đây, cũng như trên các tác phẩm báo chí, truyền thông.
Dễ thấy như những cách giật tít sai ngữ pháp, lập lờ ngữ nghĩa nhằm tạo ra một sự chú ý không còn là hiếm. Hoặc trên các nền tảng âm nhạc trực tuyến, xuất hiện ngày càng nhiều những bài hát với lời lẽ pha tạp, tùy tiện, lủng củng trong diễn đạt, thậm chí phản cảm. Thực tế đó phần nào cho thấy cách diễn đạt tiếng Việt tối nghĩa, kiểu văn nói vỉa hè, thô thiển, thể hiện người sáng tạo không có ý thức trân trọng giữ gìn, làm giàu đẹp thêm cho tiếng Việt.”
“Trong thời đại công nghệ phát triển mạnh mẽ như hiện nay, tiếng Việt đang có nguy cơ bị lai tạp, với nhiều xu hướng sử dụng thiếu chuẩn mực.
Khi công nghệ số phát triển, xóa nhòa biên giới các quốc gia trên các nền tảng mạng, con người dù ở đâu cũng dễ dàng giao lưu, kết nối qua các công cụ hỗ trợ. Không khó để nhận ra, các ứng dụng trên điện thoại, máy tính, mạng xã hội đang ngày một ảnh hưởng sâu sắc đến hành vi ngôn ngữ của mỗi người. Ðáng quan tâm hiện nay là xu thế giao tiếp ngắn gọn, tối giản, lược bỏ các thành phần câu, pha tạp ngoại ngữ, nhất là tiếng Anh.
Một thói quen sử dụng tiếng Việt đã hình thành không chỉ trên mạng mà ngay trong đời sống hằng ngày. Việc nói tiếng Việt có xen từ tiếng Anh ngày càng được nhiều người coi là bình thường. Một số từ thuần Việt đang dần mất đi, nhường chỗ cho các từ tiếng Anh, thậm chí những từ ghép thuần Việt cũng bị biến thành “nửa nạc nửa mỡ” kiểu như “Thứ high” (Thứ 2), “Thứ bar” (Thứ ba), “xỉu up, xỉu down” (xỉu lên, xỉu xuống)... Từng có một Giáo sư ngôn ngữ phải thốt lên: “Tìm một người trẻ giao tiếp bằng từ ngữ thuần Việt không còn dễ”.
Không chỉ chuyện pha tạp tiếng Anh trong việc sử dụng tiếng Việt, một hiện tượng khác cũng rất đáng lưu tâm, là cách các cư dân mạng dùng tiếng Việt trên mạng xã hội theo những cách thức có chiều hướng làm méo ngôn ngữ mẹ đẻ. Hiện tượng nói lái, viết chệch tiếng Việt trở thành “cơm bữa”, gần như không mấy ai băn khoăn. Chẳng hạn, từ “chị” biến thành “chệ”, “vâng” biến thành “vưng”, “tình yêu” thành “tìn iu”, “ngon” biến thành “nhon”, “yêu thế” biến thành “iu xế”, “không” thành “khum”... Tất nhiên việc nói/viết chệch đi như vậy chỉ nhằm mục đích làm cho không gian chuyện trò dễ thương, vui vẻ thân mật hơn, nhưng nếu không ý thức sâu sắc về điều này thì rất có thể dẫn đến sự méo mó của tiếng Việt, khi thói quen nói và viết như vậy ngày càng trở nên phổ biến.
Có ý kiến cho rằng, việc sử dụng ngôn ngữ lai tạp, có phần thiếu chuẩn mực hiện nay là do tâm lí thích khoe khoang của một số cá nhân tỏ ra mình giỏi ngoại ngữ. Tuy nhiên nếu chỉ nói như vậy là phiến diện, bởi vì ngày nay, việc sử dụng ngoại ngữ (tiếng Anh) đã trở nên bình thường do nhu cầu của đời sống hội nhập.
Ở một số ngành nghề, lĩnh vực, việc đọc tài liệu, xử lí thư từ hay giao tiếp bằng tiếng Anh là yêu cầu hằng ngày. Có những từ tiếng Anh mang tính chất chuyên môn thực ra chỉ áp dụng trong phạm vi công việc ở mức độ hẹp. Ðiều này là dễ hiểu và có thể chấp nhận được. Nhưng một lí do cơ bản khác đến từ các ứng dụng công nghệ hiện nay khuyến khích người sử dụng viết và nói ngắn gọn để tiết kiệm thời gian cũng như dung lượng. Vì thế, người ta không quan tâm đến các câu đầy đủ thành phần cũng như diễn đạt sao cho thuần Việt.
Hành văn không được người sử dụng quan tâm đến sắc thái biểu cảm, chủ yếu là thông tin, dễ dàng chấp nhận câu tối giản. Ðiều này thoạt nhìn có thể thấy sự tiện lợi, nhưng thực chất, chúng ta đang dung túng cho hành vi làm mất đi sự phong phú, tinh tế, uyển chuyển và khoa học của ngôn ngữ mẹ đẻ. Sự nguy hại này cũng đã bộc lộ ít nhiều trong một số sáng tác văn học nghệ thuật gần đây, cũng như trên các tác phẩm báo chí, truyền thông.
Dễ thấy như những cách giật tít sai ngữ pháp, lập lờ ngữ nghĩa nhằm tạo ra một sự chú ý không còn là hiếm. Hoặc trên các nền tảng âm nhạc trực tuyến, xuất hiện ngày càng nhiều những bài hát với lời lẽ pha tạp, tùy tiện, lủng củng trong diễn đạt, thậm chí phản cảm. Thực tế đó phần nào cho thấy cách diễn đạt tiếng Việt tối nghĩa, kiểu văn nói vỉa hè, thô thiển, thể hiện người sáng tạo không có ý thức trân trọng giữ gìn, làm giàu đẹp thêm cho tiếng Việt.”
(Trích Giữ gìn và bảo vệ tiếng Việt - Vũ Quỳnh Trang, theo nhandan.vn)
Thực hiện các yêu cầu:
Câu 1 [704888]: Đoạn trích gồm mấy phần? Chỉ ra nội dung chính của từng phần.
Đoạn trích gồm 3 phần:
- Phần thứ nhất (từ đầu đến nhất là tiếng Anh): Giới thiệu chung về tình trạng sử dụng tiếng Việt đang bị lai tạp.
- Phần thứ hai (tiếp đến càng trở nên phổ biến): Chỉ ra các biểu hiện của việc sử dụng tiếng Việt sai lệch.
- Phần thứ ba (còn lại): Phân tích nguyên nhân và hậu quả của việc sử dụng tiếng Việt không chuẩn mực.
- Phần thứ nhất (từ đầu đến nhất là tiếng Anh): Giới thiệu chung về tình trạng sử dụng tiếng Việt đang bị lai tạp.
- Phần thứ hai (tiếp đến càng trở nên phổ biến): Chỉ ra các biểu hiện của việc sử dụng tiếng Việt sai lệch.
- Phần thứ ba (còn lại): Phân tích nguyên nhân và hậu quả của việc sử dụng tiếng Việt không chuẩn mực.
Câu 2 [704889]: Tác giả đã sử dụng những bằng chứng nào để minh hoạ cho hành vi sử dụng tiếng Việt pha tạp tiếng Anh?
Những bằng chứng được tác giả sử dụn để minh hoạ cho hành vi sử dụng tiếng Việt pha tạp tiếng Anh:
- Các từ ghép thuần Việt bị biến thành “nửa nạc nửa mỡ” như “Thứ high”, “Thứ bar”, “xỉu up, xỉu down”,...
- Việc nói lái, viết chệch từ tiếng Việt như “chị” thành “chệ”, “vâng” thành “vưng”, “tình yêu” thành “tìn iu”, “ngon” thành “nhon”,...
- Các từ ghép thuần Việt bị biến thành “nửa nạc nửa mỡ” như “Thứ high”, “Thứ bar”, “xỉu up, xỉu down”,...
- Việc nói lái, viết chệch từ tiếng Việt như “chị” thành “chệ”, “vâng” thành “vưng”, “tình yêu” thành “tìn iu”, “ngon” thành “nhon”,...
Câu 3 [704890]: Chỉ ra và nêu tác dụng của sự kết hợp giữa lí lẽ và dẫn chứng trong đoạn trích.
Trong đoạn trích, tác giả đã kết hợp nhuần nhuyễn giữa lí lẽ và dẫn chứng để làm rõ vấn đề sử dụng tiếng Việt pha tạp ngoại ngữ:
- Lí lẽ: Tác giả đưa ra những lập luận chặt chẽ để phân tích nguyên nhân và hậu quả của việc sử dụng tiếng Việt không chuẩn mực (như việc ngôn ngữ ngắn gọn, tối giản, pha tạp ngoại ngữ là hậu quả của sự phát triển công nghệ và hội nhập toàn cầu).
- Dẫn chứng: Các dẫn chứng cụ thể, sinh động đã giúp cho những lập luận của tác giả trở nên thuyết phục hơn (ví dụ về cách nói lái, viết chệch (“chệ” thay cho “chị”, “tìn iu” thay cho “tình yêu”) và các từ tiếng Anh bị đưa vào tiếng Việt (như “Thứ high”, “xỉu up”) làm cụ thể hóa và minh chứng cho những tác động thực tế của hiện tượng này).
⟶ Tác dụng: Sự kết hợp này giúp thuyết phục người đọc nhận thức về hậu quả của việc sử dụng tiếng Việt sai lệch, từ đó nhấn mạnh nguy cơ làm méo mó tiếng Việt đồng thời khơi gợi sự suy nghĩ, trăn trở về vấn đề bảo vệ sự trong sáng của tiếng Việt.
- Lí lẽ: Tác giả đưa ra những lập luận chặt chẽ để phân tích nguyên nhân và hậu quả của việc sử dụng tiếng Việt không chuẩn mực (như việc ngôn ngữ ngắn gọn, tối giản, pha tạp ngoại ngữ là hậu quả của sự phát triển công nghệ và hội nhập toàn cầu).
- Dẫn chứng: Các dẫn chứng cụ thể, sinh động đã giúp cho những lập luận của tác giả trở nên thuyết phục hơn (ví dụ về cách nói lái, viết chệch (“chệ” thay cho “chị”, “tìn iu” thay cho “tình yêu”) và các từ tiếng Anh bị đưa vào tiếng Việt (như “Thứ high”, “xỉu up”) làm cụ thể hóa và minh chứng cho những tác động thực tế của hiện tượng này).
⟶ Tác dụng: Sự kết hợp này giúp thuyết phục người đọc nhận thức về hậu quả của việc sử dụng tiếng Việt sai lệch, từ đó nhấn mạnh nguy cơ làm méo mó tiếng Việt đồng thời khơi gợi sự suy nghĩ, trăn trở về vấn đề bảo vệ sự trong sáng của tiếng Việt.
Câu 4 [704891]: Đoạn trích bộc lộ thái độ nào của người viết trước vấn đề bàn luận?
Tác giả thể hiện thái độ lo lắng, quan ngại sâu sắc trước tình trạng sử dụng tiếng Việt không chuẩn mực hiện nay. Đồng thời, thể hiện sự trân trọng, yêu quý tiếng Việt và mong muốn mọi người cùng chung tay bảo vệ sự trong sáng của ngôn ngữ dân tộc.
Câu 5 [704892]: Anh/ Chị hãy chia sẻ một vài kinh nghiệm để có thể nói đúng, viết đúng, nói hay, viết hay khi sử dụng tiếng Việt.
Thí sinh chia sẻ một vài kinh nghiệm của riêng mình để có thể nói đúng, viết đúng, nói hay, viết hay khi sử dụng tiếng Việt. Chẳng hạn:
- Đọc nhiều sách báo, đặc biệt là những tác phẩm văn học, báo chí chất lượng cao để làm giàu vốn từ và học hỏi cách sử dụng ngôn ngữ.
- Sử dụng từ điển (từ vựng, chính tả,...) để đảm bảo sử dụng đúng từ ngữ.
- Sử dụng các từ ngữ chính xác, phù hợp với ngữ cảnh và không nên lạm dụng các từ ngữ mượn từ ngoại ngữ trừ khi cần thiết.
- Viết nhật kí, bài văn, bình luận... thường xuyên để rèn luyện khả năng diễn đạt.
...
- Đọc nhiều sách báo, đặc biệt là những tác phẩm văn học, báo chí chất lượng cao để làm giàu vốn từ và học hỏi cách sử dụng ngôn ngữ.
- Sử dụng từ điển (từ vựng, chính tả,...) để đảm bảo sử dụng đúng từ ngữ.
- Sử dụng các từ ngữ chính xác, phù hợp với ngữ cảnh và không nên lạm dụng các từ ngữ mượn từ ngoại ngữ trừ khi cần thiết.
- Viết nhật kí, bài văn, bình luận... thường xuyên để rèn luyện khả năng diễn đạt.
...
II. VIẾT (6,0 điểm)
Câu 6 [704893]: (2,0 điểm)
Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về trách nhiệm của những người trẻ hôm nay với biển đảo quê hương.
Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về trách nhiệm của những người trẻ hôm nay với biển đảo quê hương.
Đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ về trách nhiệm của những người trẻ hôm nay với biển đảo quê hương có thể được triển khai theo hướng:
- Nhận thức đúng đắn, đầy đủ về: chủ quyền biển đảo của quê hương; hành vi bành trướng, âm mưu thống trị biển Đông của thế lực ngoại bang; trách nhiệm đối với biển đảo quê hương;...
- Hành động: rèn luyện sức khoẻ thể chất, tinh thần; không ngừng học tập, trau dồi tri thức góp phần giữ gìn, bảo vệ đất nước; tuyên truyền những thông tin đúng đắn về biển đảo quê hương; lên án các hành vi xâm phạm chủ quyền biển đảo đất nước;...
<*> Đoạn văn tham khảo:
Quê hương là gì hở mẹ
Mà cô giáo dạy phải yêu
Những câu thơ thuở nhỏ tôi đã đọc thuộc làu như một con vẹt và thuộc cũng chỉ để thuộc thôi. Cho đến khi lớn lên, ngắm nhìn dải đất hình chữ “S” và biết rằng Hoàng Sa, Trường Sa là phần dấu móc bay bổng tuyệt vời của chữ “S” đó, tôi mới hiểu mình không thể yêu quê hương đất nước này bằng một lời thuộc vẹt. Thực tế, qua nhiều năm diễn ra sự tranh chấp về hải phận trên biển Đông giữa các quốc gia có biển, không phải ai cũng biết Hoàng Sa, Trường Sa thuộc về Việt Nam, không phải ai cũng nhận thấy mình ở đất liền nhưng hoàn toàn có thể góp sức bảo vệ biển đảo. Hãy đừng dửng dưng khi xem một video quảng cáo có đường lưỡi bò của Trung Quốc. Hãy đừng chấp nhận một hình vẽ bản đồ Việt Nam vắng khuyết hai quần đảo máu thịt của quê hương. Mạng xã hội cho phép chúng ta bày tỏ quan điểm của mình, hãy thẳng thắn lên án những điều sai trái đó. Hãy viết một cánh thư gửi ra nơi đảo xa cho các chiến sĩ yêu thương. Một cành đào ngày Tết, những chiếc bánh chưng vuông vắn tuy không có nhiều giá trị vật chất nhưng cũng sẽ làm ấm lòng chiến sĩ. Tôi đã biết có nhiều bạn trẻ say sưa, miệt mài nghiên cứu, chế tạo máy lọc nước biển thành nước ngọt. Có bạn thành công, có bạn chưa thành công nhưng họ khiến tôi phải nghĩ thêm về trách nhiệm của mình với biển đảo quê hương.
- Nhận thức đúng đắn, đầy đủ về: chủ quyền biển đảo của quê hương; hành vi bành trướng, âm mưu thống trị biển Đông của thế lực ngoại bang; trách nhiệm đối với biển đảo quê hương;...
- Hành động: rèn luyện sức khoẻ thể chất, tinh thần; không ngừng học tập, trau dồi tri thức góp phần giữ gìn, bảo vệ đất nước; tuyên truyền những thông tin đúng đắn về biển đảo quê hương; lên án các hành vi xâm phạm chủ quyền biển đảo đất nước;...
<*> Đoạn văn tham khảo:
Quê hương là gì hở mẹ
Mà cô giáo dạy phải yêu
Những câu thơ thuở nhỏ tôi đã đọc thuộc làu như một con vẹt và thuộc cũng chỉ để thuộc thôi. Cho đến khi lớn lên, ngắm nhìn dải đất hình chữ “S” và biết rằng Hoàng Sa, Trường Sa là phần dấu móc bay bổng tuyệt vời của chữ “S” đó, tôi mới hiểu mình không thể yêu quê hương đất nước này bằng một lời thuộc vẹt. Thực tế, qua nhiều năm diễn ra sự tranh chấp về hải phận trên biển Đông giữa các quốc gia có biển, không phải ai cũng biết Hoàng Sa, Trường Sa thuộc về Việt Nam, không phải ai cũng nhận thấy mình ở đất liền nhưng hoàn toàn có thể góp sức bảo vệ biển đảo. Hãy đừng dửng dưng khi xem một video quảng cáo có đường lưỡi bò của Trung Quốc. Hãy đừng chấp nhận một hình vẽ bản đồ Việt Nam vắng khuyết hai quần đảo máu thịt của quê hương. Mạng xã hội cho phép chúng ta bày tỏ quan điểm của mình, hãy thẳng thắn lên án những điều sai trái đó. Hãy viết một cánh thư gửi ra nơi đảo xa cho các chiến sĩ yêu thương. Một cành đào ngày Tết, những chiếc bánh chưng vuông vắn tuy không có nhiều giá trị vật chất nhưng cũng sẽ làm ấm lòng chiến sĩ. Tôi đã biết có nhiều bạn trẻ say sưa, miệt mài nghiên cứu, chế tạo máy lọc nước biển thành nước ngọt. Có bạn thành công, có bạn chưa thành công nhưng họ khiến tôi phải nghĩ thêm về trách nhiệm của mình với biển đảo quê hương.
(Cô Dung Vũ)
Câu 7 [704894]: (4,0 điểm)
Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) phân tích bài thơ sau:
VƯỜN XƯA
(Tế Hanh)
Mảnh vườn xưa cây mỗi ngày mỗi xanh
Bà mẹ già tóc mỗi ngày mỗi bạc
Hai ta ở hai đầu công tác
Có bao giờ cùng trở lại vườn xưa?
Hai ta như ngày nắng tránh ngày mưa
Như mặt trăng mặt trời cách trở
Như sao hôm sao mai không cùng ở
Có bao giờ cùng trở lại vườn xưa?
Hai ta như sen mùa hạ cúc mùa thu
Như tháng mười hồng tháng năm nhãn
Em theo chim em đi về tháng tám
Anh theo chim cùng với tháng ba qua.
Một ngày xuân em trở lại nhà
Nghe mẹ nói anh có về anh hái ổi
Em nhìn lên vòm cây gió thổi
Lá như môi thầm thĩ gọi anh về
Lần sau anh trở lại một ngày hè
Nghe mẹ nói em có về bên giếng giặt
Anh nhìn giếng giếng sâu trong vắt
Nước như gương soi lẻ bóng hình anh
Mảnh vườn xưa cây mỗi ngày mỗi xanh
Bà mẹ già tóc mỗi ngày mỗi bạc
Hai ta ở hai đầu công tác
Có bao giờ cùng trở lại vườn xưa?
1957
Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) phân tích bài thơ sau:
VƯỜN XƯA
(Tế Hanh)
Mảnh vườn xưa cây mỗi ngày mỗi xanh
Bà mẹ già tóc mỗi ngày mỗi bạc
Hai ta ở hai đầu công tác
Có bao giờ cùng trở lại vườn xưa?
Hai ta như ngày nắng tránh ngày mưa
Như mặt trăng mặt trời cách trở
Như sao hôm sao mai không cùng ở
Có bao giờ cùng trở lại vườn xưa?
Hai ta như sen mùa hạ cúc mùa thu
Như tháng mười hồng tháng năm nhãn
Em theo chim em đi về tháng tám
Anh theo chim cùng với tháng ba qua.
Một ngày xuân em trở lại nhà
Nghe mẹ nói anh có về anh hái ổi
Em nhìn lên vòm cây gió thổi
Lá như môi thầm thĩ gọi anh về
Lần sau anh trở lại một ngày hè
Nghe mẹ nói em có về bên giếng giặt
Anh nhìn giếng giếng sâu trong vắt
Nước như gương soi lẻ bóng hình anh
Mảnh vườn xưa cây mỗi ngày mỗi xanh
Bà mẹ già tóc mỗi ngày mỗi bạc
Hai ta ở hai đầu công tác
Có bao giờ cùng trở lại vườn xưa?
1957
(Theo vnu.edu.vn)
Bài văn phân tích bài thơ Vườn xưa (Tế Hanh) có thể triển khai theo nhiều cách, song cần bảo đảm các ý chính:
* Giới thiệu khái quát tác giả, tác phẩm
- Tế Hanh:
+ Một trong những gương mặt xuất sắc của nền văn học Việt Nam hiện đại.
+ Trong nền thơ Việt Nam hiện đại, Tế Hanh thể hiện một tiếng thơ dung dị, khiêm nhường, không rực rỡ, tân kì, không bất ngờ, ào ạt. Thơ ông cũng như con người ông, nhỏ nhẹ và mực thước, vừa đủ để tạo nên dấu ấn riêng. (Nguyễn Hữu Sơn)
- Vườn xưa:
+ Bài thơ được Tế Hanh viết năm 1957 khi ông đang sống và làm việc tại miền Bắc. Năm 1957 miền Bắc đang trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ. Bối cảnh chiến tranh cũng là một trở lực cho nhiều tình cảm, trong đó có tình yêu.
+ Chủ đề: nỗi nhớ và tình cảm sâu nặng, tha thiết với quê hương và gia đình, người yêu.
+ Nhan đề: gợi lên hình ảnh mảnh vườn quê hương, nơi ghi dấu nhiều kỉ niệm. Nó cũng biểu trưng cho sự khắc ghi hình ảnh quê hương, gia đình, người thân yêu trong tâm trí người con xa quê.
+ Nhân vật trữ tình: “anh” - một người con xa quê.
+ Thể thơ tám chữ, xen đôi câu bảy và chín chữ.
+ Bố cục:
• Phần thứ nhất (khổ 1): Hình ảnh mảnh vườn xưa - không gian kỉ niệm.
• Phần thứ hai (khổ 2, 3, 4): Vườn xưa - không gian của tình yêu trong xa cách.
• Phần thứ ba (khổ 5): Sự trở lại của hình ảnh mảnh vườn xưa và khao khát trở lại.
* Phân tích bài thơ
- Khổ thứ nhất: Vườn xưa - không gian kỉ niệm và niềm khao khát trở lại của nhân vật trữ tình.
+ Hai dòng đầu:
• Vườn: không gian thiên nhiên của mỗi gia đình, nơi thoáng đãng, xanh mát, mơn mởn sức sống cỏ cây, hoa lá. Hình ảnh vườn xưa - mỗi ngày mỗi xanh gợi vẻ đẹp, mỗi lúc một tươi tốt của mảnh vườn.
• Bà mẹ: là bóng dáng, hiện thân của gia đình. Hình ảnh bà mẹ - tóc mỗi ngày mỗi bạc gợi cảm nhận về bước đi của thời gian, đối lập với hình ảnh vườn mỗi ngày mỗi xanh.
⟶ Hình ảnh quê hương, gia đình rưng rức hiện lên trong nỗi nhớ của nhân vật trữ tình.
+ Hai dòng sau:
• Nêu trực tiếp hoàn cảnh xa cách của hai ta: ở hai đầu công tác.
• Tác giả viết hai ta thay vì anh và em. Điều đó cho phép người đọc nghĩ đến sự gắn bó, gắn kết không gì có thể dời đổi dù anh và em đang xa cách.
• Câu hỏi tu từ (Có bao giờ cùng trở lại vườn xưa?) nhấn vào chữ cùng vừa góp phần nhấn mạnh thực tại xa cách vừa bộc lộ mong muốn, khao khát được gặp lại “em”.
• Không gian vườn xưa trở lại nhưng thay đổi về tính chất. Vườn xưa không chỉ là không gian thiên nhiên, tự nhiên nữa mà đã trở thành không gian kỉ niệm của tình yêu, nơi gặp gỡ, hẹn hò của hai ta.
=> Vườn xưa: không gian của quá khứ đồng hiện trong hiện tại, không gian của tình cảm quê hương, gia đình và tình yêu.
- Khổ thứ hai, ba, tư:
+ Khổ thứ hai, ba:
• Phép liệt kê kết hợp thủ pháp nghệ thuật đối lập (ngày nắng - ngày mưa, mặt trăng - mặt trời, sao hôm - sao mai, sen mùa hạ - cúc mùa thu, tháng mười hồng - tháng năm nhãn, tháng tám - tháng ba) nhấn mạnh khoảng cách, sự xa cách - trở lực duy nhất - giữa “anh” và “em”.
• Phép so sánh kết hợp nghệ thuật trùng lặp cấu trúc câu (như ngày nắng tránh ngày mưa, Như mặt trăng mặt trời cách trở, Như sao hôm sao mai không cùng ở,...; Em theo chim đi về tháng tám, Anh theo chim cùng với tháng ba qua;...) tiếp tục tô đậm sự xa cách, cho hiện thực không được gặp gỡ, quấn quýt của lứa đôi.
• Giọng điệu chan chứa yêu thương, man mác nỗi buồn, nỗi tiếc nuối.
• Hình ảnh thơ mộc mạc, giản dị, gần gũi, thân thuộc (nắng, mưa, sen, cúc, hồng, nhãn,...); ngôn ngữ quen thuộc, đậm màu sắc dân gian được thể hiện qua việc lựa chọn đưa vào lời thơ các hình ảnh mặt trăng, mặt trời, sao hôm, sao mai,... từng xuất hiện trong ca dao:
• Tác giả vẫn viết hai ta thay vì anh và em ⟶ tiếp tục tô đậm sự gắn kết, tình yêu của lứa đôi bất chấp hoàn cảnh xa cách nghìn trùng.
=> Hai khổ thơ gieo vào lòng người đọc nỗi buồn, một chút tiếc nuối cho một tình yêu trong xa cách. Song, nỗi buồn không thể xâm lấn niềm tin vào tình yêu vẫn âm ỉ chất chứa cùng nỗi nhớ thương, bất chấp hoàn cảnh xa cách.
+ Khổ thứ tư: Lời thơ mang đậm màu sắc tự sự, tái hiện hai sự việc không đồng thời diễn ra
• Bốn dòng trước: sự trở về vườn xưa của “em”
o Thời gian: một ngày xuân.
o Dẫu “em” không gặp “anh” tại không gian kỉ niệm nhưng “mẹ” và mảnh vườn xưa đã kết nối, vẫn tiếp tục vun cho tình yêu của hai ta: vòm cây gió thổi và lá như môi thầm thĩ gọi anh về với “em”, bên “em”. Hình ảnh chân thực, tự nhiên vòm cây gió thổi cùng phép so sánh lá như môi và từ láy thầm thĩ không chỉ gợi hình dung về một không gian thoáng đãng, cao rộng, khoáng đạt của khu vườn xinh đẹp và còn khắc sâu nỗi nhớ da diết, tình yêu, khao khát gặp gỡ, gụi gần trong “em”, khắc sâu trong “em” hình ảnh mộc mạc, giản dị, ngây thơ của chàng trai đang say sưa hái ổi.
• Bốn dòng sau: sự trở về vườn xưa của “anh”
o Thời gian: một ngày hè.
o Mảnh vườn tiếp tục kết nối “anh” và “em”: hình ảnh ẩn dụ giếng sâu trong vắt cùng phép so sánh (Nước như gương soi lẻ bóng hình anh) gợi cảm nhận về tình yêu trong trẻo mà sâu sắc, thuỷ chung “anh” vẫn dành trọn cho “em”. Dẫu buổi “em” về bên giếng giặt chẳng có “anh” kề bên múc nước cho “em”, dẫu ngày anh về bên giếng cũng chẳng có “em” cùng soi bóng xuống lòng giếng sâu, dẫu nỗi buồn thấp thoáng bởi cả hai vẫn chẳng thể gặp gỡ song tình yêu “anh” dành cho “em” vẫn vẹn nguyên.
=> Câu chuyện đi về mà chẳng gặp nhau của hai ta man mác nỗi buồn biệt li đằng đẵng song vẫn an ủi người đọc ở tình cảm sâu sắc, thuỷ chung, trọn vẹn.
- Khổ thứ năm: lặp lại nguyên vẹn khổ thơ đầu tiên, khắc sâu nỗi nhớ quê hương, gia đình, người thương và gấp thêm lần nữa ước nguyện được trở lại, được gặp nhau chính tại vườn xưa của nhân vật trữ tình.
* Đánh giá chung
- Bài thơ với ngôn từ, hình ảnh giản dị, mộc mạc nhưng ấn tượng; kết hợp nhuần nhuyễn giữa trữ tình với tự sự; giọng thơ đượm buồn nhưng trong trẻo;... gieo vào lòng người tình cảm yêu mến, ngưỡng mộ tình yêu, sự gắn bó sâu nặng của người con xa quê với quê hương, gia đình, người yêu.
- Vườn xưa thắp lên trong người đọc niềm tin vào sự thuỷ chung, trọn vẹn trong tình yêu. Chỉ cần thuỷ chung và không nguôi niềm khao khát gặp gỡ, gụi gần, mỗi người sẽ đủ sức mạnh để vượt qua trở lực do khoảng cách địa lí mang đến. Thông điệp ấy hệt như lời thơ: Ở hai đầu nỗi nhớ/ Yêu và thương sâu hơn./ Ở hai đầu nỗi nhớ,/ nghĩa tình đằm thắm hơn (Trần Đình Chính).
<*> Tham khảo bài viết:
1. Ai đó đã thật sâu sắc khi nói rằng, tài sản của lớp người đi qua cuộc chiến tranh là nỗi nhớ. Chính vì vậy những bài thơ về đề tài quê hương - nỗi nhớ của các thi sĩ cách mạng có sức sống thật lâu bền. “Vườn xưa” của Tế Hanh là một bài thơ như thế.
Vườn của Tế Hanh tràn ngập sắc xanh của các loài cây dân dã: cây mỗi ngày mỗi xanh, có sen mùa hạ, cúc mùa thu, tháng mười hồng, tháng năm nhãn, có vòm ổi và có cả giếng nước sâu trong vắt... Một bức tranh trong trẻo và đầy chất quê, rung lên bao nhiêu sợi tơ thương mến trong cung đàn tha thiết mang tên gọi quê hương.
Có nơi đâu cho ta cảm giác bình yên, dễ chịu hơn góc vườn nhà, nơi mà những loài cây như bầu bạn. Góc vườn ấy, không gian ấy không tĩnh tại mà luôn sống động, song hành cùng sự sống: có nắng, có mưa; có chim bay đi, bay về giữa tháng ba, tháng tám; có gió thổi trên những vòm cây làm rung rinh cành lá.
Và ở “Vườn xưa”, hình ảnh khu vườn hiện lên luôn gắn với hình ảnh người mẹ già:
Bà mẹ già tóc mỗi ngày mỗi bạc
Hình ảnh này đối lập với hình ảnh “cây mỗi ngày mỗi xanh” ở trên.
Sự đối lập của hình ảnh thơ làm hiện lên thực tại, cây ngày càng tươi xanh còn tóc mẹ thì bạc rồi. Câu thơ mang tính khái quát cao về không gian, thời gian và quy luật đời người. Theo thời gian, cây cỏ thiên nhiên vẫn trường tồn bởi quy luật tuần hoàn mà đời người thì hữu hạn, ngắn ngủi. Biết là không thể thoát khỏi quy luật ấy mà sao lòng vẫn chạnh buồn. Càng buồn hơn là sự xa cách và trắc trở của đôi lứa:
Hai ta ở hai đầu công tác
Có bao giờ cùng trở lại vườn xưa.
Vậy ra, nhớ vườn xưa là cái cớ, người mẹ già là tâm điểm để nỗi nhớ xoay vòng. Từ không gian vườn nhỏ bé mở ra không gian khác: không gian xa cách của đôi lứa: ngày nắng, ngày mưa mặt trăng, mặt trời Sao Hôm, Sao Mai, sen mùa hạ, cúc mùa thu, hồng tháng mười, nhãn tháng năm...
Một chuỗi các chi tiết, hình ảnh liên tưởng, ẩn dụ sống động tuôn chảy trên cái nền đối lập chỉ để nói lên một sự thật éo le: em và anh tưởng chừng không bao giờ hội ngộ.
Tế Hanh thật tài hoa khi đưa chất liệu của thiên nhiên vào thơ một cách nhuần nhị, đặc biệt là việc vận dụng câu tục ngữ về thời tiết “tháng tám chim qua, tháng ba chim về”. Tất cả chỉ để nói lên khoảng cách tưởng gần mà xa, tưởng xa mà vẫn có sợi dây ràng buộc.
Hoàn cảnh thực tế “ở hai đầu công tác” với những trở ngại của chiến tranh nên sự xa cách kéo dài từ góc vườn đến hai đầu nhung nhớ. Nơi anh và em đang lao động, chiến đấu vì những nhiệm vụ chung. Cũng có thời điểm giữa khoảng thời gian xa cách, em và anh được trở lại nhà, trở lại vườn xưa nhưng luôn là sự trở về lỗi nhịp.
Nhà thơ đã tái hiện lại cả không gian hai mùa xuân, hạ và người mẹ là nhân vật trung gian chứng kiến nghịch cảnh của đôi lứa. Nhưng sự cách trở về không gian, thời gian không làm phai nhạt tình cảm thủy chung, son sắt.
Bài thơ khép lại bằng sự lặp lại khổ thơ đầu:
Một câu hỏi khắc khoải và da diết “có bao giờ cùng trở lại vườn xưa?”. Trở lại vườn xưa là trở lai một khoảng trời thân thuộc, nơi hai ta đã cùng ở, cùng có những kỉ niệm êm đềm.
Từ một góc vườn ở một làng quê, từ một nỗi nhớ một mảnh đất, “Vườn xưa” của Tế Hanh đã mở ra một không gian lớn. Đó là không gian của nỗi nhớ nhung, gợi lên những tình cảm vừa chân thành vừa da diết của tình yêu - tình yêu đối với quê hương,với những người thân thuộc, với người mình mong nhớ.
Vườn xưa xa cách cả không gian, thời gian nhưng không bi lụy, mềm yếu. Nó đủ tạo ra sự day dứt, gợi lên khoảng cách vời vợi nhưng đầy khao khát yêu thương, khắc khoải hạnh phúc ấm nồng.
2. Một nét phong cách thơ Tế Hanh là cảm xúc chân thực và cách diễn đạt cũng rất chân thực bằng ngôn ngữ giản dị, tự nhiên và rất giàu hình ảnh. Thơ ông là một tiếng nói nhỏ nhẹ, hiền lành, bình dị mà tha thiết nên rất dễ đi vào lòng độc giả một cách tự nhiên và sâu sắc.
Có thể lấy bài thơ “Vườn xưa” trên đây làm một ví dụ tiêu biểu.
Đây là một bài thơ chủ yếu là tám tiếng, có đôi câu bảy và chín tiếng xen cài vào. Khổ thứ nhất được lập lại thành khổ thứ sáu. Trong sáu khổ thơ, tình yêu đôi lứa, tình mẹ con, tình quê hương hòa quyện vào nhau.
Nổi bật hơn cả, bài thơ là một khúc tình ca với nhân vật chính là hai ta: anh và em. Đôi lứa này do ở hai đầu công tác nên luôn phải cách biệt nhau. Họ cùng nuối tiếc nhớ thương ngày tháng đã qua và chung một lời tự hỏi: “Có bao giờ cùng trở lại vườn xưa?”
Ý tưởng vừa nói cũng được thể hiện ngay trong khổ thơ mở đầu:
Mảnh vườn xưa cây mỗi ngày mỗi xanh
Bà mẹ già tóc mỗi ngày mỗi bạc
Hai ta ở hai đầu công tác
Có bao giờ cùng trở lại vườn xưa?
Hai câu đầu đặt theo lối đối sách bộc lộ sức mạnh của thời gian. Chính thời gian đã làm cho cây cối ngày mỗi xanh thêm, tốt tươi, sầm uất thêm. Cũng chính thời gian đã làm tóc bà mẹ mỗi ngày mỗi bạc thêm, xơ xác, già nua thêm. Đó là quy luật tự nhiên không sao thay đổi được. Hai câu sau nêu lên hoàn cảnh cách biệt của đôi lứa và bày tỏ một ước mơ, một hi vọng được gặp lại, được “cùng trở lại vườn xưa”.
Cũng chính sức mạnh của thời gian đã làm ước mơ hi vọng nói trên của lứa đôi này trở nên xa xôi khó thực hiện, có bao giờ mà cứ tưởng như chẳng bao giờ. Câu thơ này được lặp lại đến những ba lần cũng chính là tình điệu chủ yếu của bài thơ.
Bởi thế hai khổ thơ tiếp đó chẳng qua là tác giả minh họa cho rõ thêm tình điệu vừa nói bằng các phép so sánh:
Hai ta như ngày nắng tránh ngày mưa
Như mặt trăng mặt trời cách trở
Như sao Hôm sao Mai không cùng ở
Có bao giờ cùng trở lại vườn xưa?
Hai ta như sen mùa hạ cúc mùa thu
Như tháng mười hồng tháng năm nhãn
Em theo chim em đi về tháng tám
Anh theo chim cùng với tháng ba qua.
Rất nhiều phép so sánh đã được sử dụng ở đây để không những nhấn mạnh vào sự xa cách của đôi lứa mà còn thể hiện một cách sinh động tài tình trạng thái của tâm hồn, một trạng thái bất an, bứt rứt, băn khoăn của con người trong tình huống muốn gặp lại người thương nhưng thật khó. Cái khó đó chẳng khác nào ngày nắng/ngày mưa, mặt trăng/mặt trời, sao Hôm/sao Mai, sen mùa hạ/cúc mùa thu, tháng mười hồng/tháng năm nhãn, đi về tháng tám/tháng ba qua. Nhà thơ đã so sánh cái khó đó cùng các hiện tượng trong vũ trụ phải chăng muốn ngầm nói đó là quy luật, là định mệnh... Cách so sánh ví von trên đậm chất dân gian đặc biệt là hai câu cuối khổ thơ sau: “Em theo chim em đi về tháng tám. Anh theo chim cùng với tháng ba qua” khiến độc giả không khỏi nghĩ đến lời tục ngữ: “Tháng tám chim qua/ tháng ba chim về”.
Đoạn tiếp đó thật ra cũng chỉ để làm rõ đoạn trên:
Một ngày xuân em trở lại nhà
Nghe mẹ nói anh có về hái ổi
Em nhìn lên vòm cây gió thổi
Lá như môi thầm thĩ gọi anh về.
Lần sau anh trở lại một ngày hè
Nghe mẹ nói em có về bên giếng giặt
Anh nhìn giếng, giếng sâu trong vắt
Nước như gương soi lẻ bóng hình anh.
Phép trùng lặp, phép đối xứng được sử dụng nhiều trong bài thơ này đặc biệt là hai khổ thơ trên đây: một ngày xuân, một ngày hè, em trở lại, anh trở lại, em nhìn lên ngọn cây, anh nhìn giếng, lá như môi, nước như giếng... Hai khổ thơ ghi lại những kỉ niệm cũ của hai người để cho thấy là họ khó có thể gặp nhau. Bởi lẽ tuy cả hai người đều đã có lần trở về vườn xưa nhưng kẻ về trước, người về sau chứ không được cùng về một lúc để được gặp nhau. Những hình ảnh anh hái ổi, lá như môi, em bên giếng giặt, nước như gương soi lẻ bóng hình anh... vừa trẻ trung chân thực vừa hồn nhiên gần gũi biết bao. Thấp thoáng trong bài thơ luôn có hình ảnh bà mẹ. Tuy nhà thơ rất kiệm lời về bà (hai lần “tóc mỗi ngày mỗi bạc” và hai lần nghe mẹ nói) nhưng độc giả vẫn hình dung ra được một cụ bà hiền từ nhân hậu. Bà cũng chính là người làm chứng cho cuộc tình của lứa đôi này, một cuộc tình thủy chung, tuy đẹp mà buồn. Những phút giây họ đã quấn quýt bên nhau chan hòa hạnh phúc lứa đôi và cả những phút giây từng người đã về đây nhớ thương tiếc nuối: nhìn lên ngọn cây gió thổi, nhìn giếng, giếng sâu trong vắt đều có mặt bà. Bà mẹ già như một ngọn lửa nhỏ nhen nhóm ít nhiều cũng làm ấm lại lòng của cô gái, của chàng trai và làm nồng ấm cả bài thơ xinh xắn.
Sau cùng, tác giả lặp lại khổ thơ đầu để kết thúc bài thơ:
Mảnh vườn xưa cây mỗi ngày mỗi xanh
Bà mẹ già tóc mỗi ngày mỗi bạc
Hai ta ở hai đầu công tác
Có bao giờ cùng trở lại vườn xưa?
Vẫn là một lời tự hỏi đầy khát khao tha thiết của sự bâng khuâng khắc khoải muốn được “cùng trở lại vườn xưa” với người yêu. Vườn xưa, nhan đề bài thơ, phải đâu chỉ là một khu vườn nhỏ đầy “hoa lá, rất đậm hương và rộn tiếng chim” (Từ ấy, Tố Hữu) mà đây có thể là một khung cảnh, một thời khoảng trăng mật của tuổi thanh niên, một thời êm đềm nồng đượm. Trước quy luật khắc nghiệt của thời gian, tất cả rồi đều sẽ tàn phai kể cả hạnh phúc của người làm chứng cho năm tháng hạnh phúc kia. Ngọn sóng thời gian sẽ cuốn hút tất cả đúng như một thi sĩ nào đó viết:
Mây của trời rồi gió sẽ mang đi
Như đã nói, “Vườn xưa” đúng là một bài thơ hay của Tế Hanh, một bài thơ khá tiêu biểu cho nét phong cách thơ ông: cảm xúc rất chân thực mà cách diễn đạt cũng rất chân thực, bằng ngôn ngữ giản dị, tự nhiên và rất giàu hình ảnh như đã nêu lên ở phần đầu bài viết này.
* Giới thiệu khái quát tác giả, tác phẩm
- Tế Hanh:
+ Một trong những gương mặt xuất sắc của nền văn học Việt Nam hiện đại.
+ Trong nền thơ Việt Nam hiện đại, Tế Hanh thể hiện một tiếng thơ dung dị, khiêm nhường, không rực rỡ, tân kì, không bất ngờ, ào ạt. Thơ ông cũng như con người ông, nhỏ nhẹ và mực thước, vừa đủ để tạo nên dấu ấn riêng. (Nguyễn Hữu Sơn)
- Vườn xưa:
+ Bài thơ được Tế Hanh viết năm 1957 khi ông đang sống và làm việc tại miền Bắc. Năm 1957 miền Bắc đang trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ. Bối cảnh chiến tranh cũng là một trở lực cho nhiều tình cảm, trong đó có tình yêu.
+ Chủ đề: nỗi nhớ và tình cảm sâu nặng, tha thiết với quê hương và gia đình, người yêu.
+ Nhan đề: gợi lên hình ảnh mảnh vườn quê hương, nơi ghi dấu nhiều kỉ niệm. Nó cũng biểu trưng cho sự khắc ghi hình ảnh quê hương, gia đình, người thân yêu trong tâm trí người con xa quê.
+ Nhân vật trữ tình: “anh” - một người con xa quê.
+ Thể thơ tám chữ, xen đôi câu bảy và chín chữ.
+ Bố cục:
• Phần thứ nhất (khổ 1): Hình ảnh mảnh vườn xưa - không gian kỉ niệm.
• Phần thứ hai (khổ 2, 3, 4): Vườn xưa - không gian của tình yêu trong xa cách.
• Phần thứ ba (khổ 5): Sự trở lại của hình ảnh mảnh vườn xưa và khao khát trở lại.
* Phân tích bài thơ
- Khổ thứ nhất: Vườn xưa - không gian kỉ niệm và niềm khao khát trở lại của nhân vật trữ tình.
+ Hai dòng đầu:
• Vườn: không gian thiên nhiên của mỗi gia đình, nơi thoáng đãng, xanh mát, mơn mởn sức sống cỏ cây, hoa lá. Hình ảnh vườn xưa - mỗi ngày mỗi xanh gợi vẻ đẹp, mỗi lúc một tươi tốt của mảnh vườn.
• Bà mẹ: là bóng dáng, hiện thân của gia đình. Hình ảnh bà mẹ - tóc mỗi ngày mỗi bạc gợi cảm nhận về bước đi của thời gian, đối lập với hình ảnh vườn mỗi ngày mỗi xanh.
⟶ Hình ảnh quê hương, gia đình rưng rức hiện lên trong nỗi nhớ của nhân vật trữ tình.
+ Hai dòng sau:
• Nêu trực tiếp hoàn cảnh xa cách của hai ta: ở hai đầu công tác.
• Tác giả viết hai ta thay vì anh và em. Điều đó cho phép người đọc nghĩ đến sự gắn bó, gắn kết không gì có thể dời đổi dù anh và em đang xa cách.
• Câu hỏi tu từ (Có bao giờ cùng trở lại vườn xưa?) nhấn vào chữ cùng vừa góp phần nhấn mạnh thực tại xa cách vừa bộc lộ mong muốn, khao khát được gặp lại “em”.
• Không gian vườn xưa trở lại nhưng thay đổi về tính chất. Vườn xưa không chỉ là không gian thiên nhiên, tự nhiên nữa mà đã trở thành không gian kỉ niệm của tình yêu, nơi gặp gỡ, hẹn hò của hai ta.
=> Vườn xưa: không gian của quá khứ đồng hiện trong hiện tại, không gian của tình cảm quê hương, gia đình và tình yêu.
- Khổ thứ hai, ba, tư:
+ Khổ thứ hai, ba:
• Phép liệt kê kết hợp thủ pháp nghệ thuật đối lập (ngày nắng - ngày mưa, mặt trăng - mặt trời, sao hôm - sao mai, sen mùa hạ - cúc mùa thu, tháng mười hồng - tháng năm nhãn, tháng tám - tháng ba) nhấn mạnh khoảng cách, sự xa cách - trở lực duy nhất - giữa “anh” và “em”.
• Phép so sánh kết hợp nghệ thuật trùng lặp cấu trúc câu (như ngày nắng tránh ngày mưa, Như mặt trăng mặt trời cách trở, Như sao hôm sao mai không cùng ở,...; Em theo chim đi về tháng tám, Anh theo chim cùng với tháng ba qua;...) tiếp tục tô đậm sự xa cách, cho hiện thực không được gặp gỡ, quấn quýt của lứa đôi.
• Giọng điệu chan chứa yêu thương, man mác nỗi buồn, nỗi tiếc nuối.
• Hình ảnh thơ mộc mạc, giản dị, gần gũi, thân thuộc (nắng, mưa, sen, cúc, hồng, nhãn,...); ngôn ngữ quen thuộc, đậm màu sắc dân gian được thể hiện qua việc lựa chọn đưa vào lời thơ các hình ảnh mặt trăng, mặt trời, sao hôm, sao mai,... từng xuất hiện trong ca dao:
... Mặt trăng sánh với mặt trời
Sao hôm sánh với sao mai chằng chằng...
(Ca dao)
Có điều, trong ca dao, các hình ảnh trăng sao ấy gắn liền với nỗi tuyệt vọng trong tình cảnh lỡ duyên của lứa đôi còn trong lời thơ của Tế Hanh, nó chỉ gợi lên trắc trở do khoảng cách địa lí, do tính chất công việc (hai ta ở hai đầu công tác) chứ không phải do hai ta chẳng còn tình cảm dành cho nhau.• Tác giả vẫn viết hai ta thay vì anh và em ⟶ tiếp tục tô đậm sự gắn kết, tình yêu của lứa đôi bất chấp hoàn cảnh xa cách nghìn trùng.
=> Hai khổ thơ gieo vào lòng người đọc nỗi buồn, một chút tiếc nuối cho một tình yêu trong xa cách. Song, nỗi buồn không thể xâm lấn niềm tin vào tình yêu vẫn âm ỉ chất chứa cùng nỗi nhớ thương, bất chấp hoàn cảnh xa cách.
+ Khổ thứ tư: Lời thơ mang đậm màu sắc tự sự, tái hiện hai sự việc không đồng thời diễn ra
• Bốn dòng trước: sự trở về vườn xưa của “em”
o Thời gian: một ngày xuân.
o Dẫu “em” không gặp “anh” tại không gian kỉ niệm nhưng “mẹ” và mảnh vườn xưa đã kết nối, vẫn tiếp tục vun cho tình yêu của hai ta: vòm cây gió thổi và lá như môi thầm thĩ gọi anh về với “em”, bên “em”. Hình ảnh chân thực, tự nhiên vòm cây gió thổi cùng phép so sánh lá như môi và từ láy thầm thĩ không chỉ gợi hình dung về một không gian thoáng đãng, cao rộng, khoáng đạt của khu vườn xinh đẹp và còn khắc sâu nỗi nhớ da diết, tình yêu, khao khát gặp gỡ, gụi gần trong “em”, khắc sâu trong “em” hình ảnh mộc mạc, giản dị, ngây thơ của chàng trai đang say sưa hái ổi.
• Bốn dòng sau: sự trở về vườn xưa của “anh”
o Thời gian: một ngày hè.
o Mảnh vườn tiếp tục kết nối “anh” và “em”: hình ảnh ẩn dụ giếng sâu trong vắt cùng phép so sánh (Nước như gương soi lẻ bóng hình anh) gợi cảm nhận về tình yêu trong trẻo mà sâu sắc, thuỷ chung “anh” vẫn dành trọn cho “em”. Dẫu buổi “em” về bên giếng giặt chẳng có “anh” kề bên múc nước cho “em”, dẫu ngày anh về bên giếng cũng chẳng có “em” cùng soi bóng xuống lòng giếng sâu, dẫu nỗi buồn thấp thoáng bởi cả hai vẫn chẳng thể gặp gỡ song tình yêu “anh” dành cho “em” vẫn vẹn nguyên.
=> Câu chuyện đi về mà chẳng gặp nhau của hai ta man mác nỗi buồn biệt li đằng đẵng song vẫn an ủi người đọc ở tình cảm sâu sắc, thuỷ chung, trọn vẹn.
- Khổ thứ năm: lặp lại nguyên vẹn khổ thơ đầu tiên, khắc sâu nỗi nhớ quê hương, gia đình, người thương và gấp thêm lần nữa ước nguyện được trở lại, được gặp nhau chính tại vườn xưa của nhân vật trữ tình.
* Đánh giá chung
- Bài thơ với ngôn từ, hình ảnh giản dị, mộc mạc nhưng ấn tượng; kết hợp nhuần nhuyễn giữa trữ tình với tự sự; giọng thơ đượm buồn nhưng trong trẻo;... gieo vào lòng người tình cảm yêu mến, ngưỡng mộ tình yêu, sự gắn bó sâu nặng của người con xa quê với quê hương, gia đình, người yêu.
- Vườn xưa thắp lên trong người đọc niềm tin vào sự thuỷ chung, trọn vẹn trong tình yêu. Chỉ cần thuỷ chung và không nguôi niềm khao khát gặp gỡ, gụi gần, mỗi người sẽ đủ sức mạnh để vượt qua trở lực do khoảng cách địa lí mang đến. Thông điệp ấy hệt như lời thơ: Ở hai đầu nỗi nhớ/ Yêu và thương sâu hơn./ Ở hai đầu nỗi nhớ,/ nghĩa tình đằm thắm hơn (Trần Đình Chính).
<*> Tham khảo bài viết:
1. Ai đó đã thật sâu sắc khi nói rằng, tài sản của lớp người đi qua cuộc chiến tranh là nỗi nhớ. Chính vì vậy những bài thơ về đề tài quê hương - nỗi nhớ của các thi sĩ cách mạng có sức sống thật lâu bền. “Vườn xưa” của Tế Hanh là một bài thơ như thế.
Vườn của Tế Hanh tràn ngập sắc xanh của các loài cây dân dã: cây mỗi ngày mỗi xanh, có sen mùa hạ, cúc mùa thu, tháng mười hồng, tháng năm nhãn, có vòm ổi và có cả giếng nước sâu trong vắt... Một bức tranh trong trẻo và đầy chất quê, rung lên bao nhiêu sợi tơ thương mến trong cung đàn tha thiết mang tên gọi quê hương.
Có nơi đâu cho ta cảm giác bình yên, dễ chịu hơn góc vườn nhà, nơi mà những loài cây như bầu bạn. Góc vườn ấy, không gian ấy không tĩnh tại mà luôn sống động, song hành cùng sự sống: có nắng, có mưa; có chim bay đi, bay về giữa tháng ba, tháng tám; có gió thổi trên những vòm cây làm rung rinh cành lá.
Và ở “Vườn xưa”, hình ảnh khu vườn hiện lên luôn gắn với hình ảnh người mẹ già:
Bà mẹ già tóc mỗi ngày mỗi bạc
Hình ảnh này đối lập với hình ảnh “cây mỗi ngày mỗi xanh” ở trên.
Sự đối lập của hình ảnh thơ làm hiện lên thực tại, cây ngày càng tươi xanh còn tóc mẹ thì bạc rồi. Câu thơ mang tính khái quát cao về không gian, thời gian và quy luật đời người. Theo thời gian, cây cỏ thiên nhiên vẫn trường tồn bởi quy luật tuần hoàn mà đời người thì hữu hạn, ngắn ngủi. Biết là không thể thoát khỏi quy luật ấy mà sao lòng vẫn chạnh buồn. Càng buồn hơn là sự xa cách và trắc trở của đôi lứa:
Hai ta ở hai đầu công tác
Có bao giờ cùng trở lại vườn xưa.
Vậy ra, nhớ vườn xưa là cái cớ, người mẹ già là tâm điểm để nỗi nhớ xoay vòng. Từ không gian vườn nhỏ bé mở ra không gian khác: không gian xa cách của đôi lứa: ngày nắng, ngày mưa mặt trăng, mặt trời Sao Hôm, Sao Mai, sen mùa hạ, cúc mùa thu, hồng tháng mười, nhãn tháng năm...
Một chuỗi các chi tiết, hình ảnh liên tưởng, ẩn dụ sống động tuôn chảy trên cái nền đối lập chỉ để nói lên một sự thật éo le: em và anh tưởng chừng không bao giờ hội ngộ.
Tế Hanh thật tài hoa khi đưa chất liệu của thiên nhiên vào thơ một cách nhuần nhị, đặc biệt là việc vận dụng câu tục ngữ về thời tiết “tháng tám chim qua, tháng ba chim về”. Tất cả chỉ để nói lên khoảng cách tưởng gần mà xa, tưởng xa mà vẫn có sợi dây ràng buộc.
Hoàn cảnh thực tế “ở hai đầu công tác” với những trở ngại của chiến tranh nên sự xa cách kéo dài từ góc vườn đến hai đầu nhung nhớ. Nơi anh và em đang lao động, chiến đấu vì những nhiệm vụ chung. Cũng có thời điểm giữa khoảng thời gian xa cách, em và anh được trở lại nhà, trở lại vườn xưa nhưng luôn là sự trở về lỗi nhịp.
Nhà thơ đã tái hiện lại cả không gian hai mùa xuân, hạ và người mẹ là nhân vật trung gian chứng kiến nghịch cảnh của đôi lứa. Nhưng sự cách trở về không gian, thời gian không làm phai nhạt tình cảm thủy chung, son sắt.
Bài thơ khép lại bằng sự lặp lại khổ thơ đầu:
Một câu hỏi khắc khoải và da diết “có bao giờ cùng trở lại vườn xưa?”. Trở lại vườn xưa là trở lai một khoảng trời thân thuộc, nơi hai ta đã cùng ở, cùng có những kỉ niệm êm đềm.
Từ một góc vườn ở một làng quê, từ một nỗi nhớ một mảnh đất, “Vườn xưa” của Tế Hanh đã mở ra một không gian lớn. Đó là không gian của nỗi nhớ nhung, gợi lên những tình cảm vừa chân thành vừa da diết của tình yêu - tình yêu đối với quê hương,với những người thân thuộc, với người mình mong nhớ.
Vườn xưa xa cách cả không gian, thời gian nhưng không bi lụy, mềm yếu. Nó đủ tạo ra sự day dứt, gợi lên khoảng cách vời vợi nhưng đầy khao khát yêu thương, khắc khoải hạnh phúc ấm nồng.
(Theo Nhất Mạt Hương, Vườn xưa, baophunuthudo.vn)
2. Một nét phong cách thơ Tế Hanh là cảm xúc chân thực và cách diễn đạt cũng rất chân thực bằng ngôn ngữ giản dị, tự nhiên và rất giàu hình ảnh. Thơ ông là một tiếng nói nhỏ nhẹ, hiền lành, bình dị mà tha thiết nên rất dễ đi vào lòng độc giả một cách tự nhiên và sâu sắc.
Có thể lấy bài thơ “Vườn xưa” trên đây làm một ví dụ tiêu biểu.
Đây là một bài thơ chủ yếu là tám tiếng, có đôi câu bảy và chín tiếng xen cài vào. Khổ thứ nhất được lập lại thành khổ thứ sáu. Trong sáu khổ thơ, tình yêu đôi lứa, tình mẹ con, tình quê hương hòa quyện vào nhau.
Nổi bật hơn cả, bài thơ là một khúc tình ca với nhân vật chính là hai ta: anh và em. Đôi lứa này do ở hai đầu công tác nên luôn phải cách biệt nhau. Họ cùng nuối tiếc nhớ thương ngày tháng đã qua và chung một lời tự hỏi: “Có bao giờ cùng trở lại vườn xưa?”
Ý tưởng vừa nói cũng được thể hiện ngay trong khổ thơ mở đầu:
Mảnh vườn xưa cây mỗi ngày mỗi xanh
Bà mẹ già tóc mỗi ngày mỗi bạc
Hai ta ở hai đầu công tác
Có bao giờ cùng trở lại vườn xưa?
Hai câu đầu đặt theo lối đối sách bộc lộ sức mạnh của thời gian. Chính thời gian đã làm cho cây cối ngày mỗi xanh thêm, tốt tươi, sầm uất thêm. Cũng chính thời gian đã làm tóc bà mẹ mỗi ngày mỗi bạc thêm, xơ xác, già nua thêm. Đó là quy luật tự nhiên không sao thay đổi được. Hai câu sau nêu lên hoàn cảnh cách biệt của đôi lứa và bày tỏ một ước mơ, một hi vọng được gặp lại, được “cùng trở lại vườn xưa”.
Cũng chính sức mạnh của thời gian đã làm ước mơ hi vọng nói trên của lứa đôi này trở nên xa xôi khó thực hiện, có bao giờ mà cứ tưởng như chẳng bao giờ. Câu thơ này được lặp lại đến những ba lần cũng chính là tình điệu chủ yếu của bài thơ.
Bởi thế hai khổ thơ tiếp đó chẳng qua là tác giả minh họa cho rõ thêm tình điệu vừa nói bằng các phép so sánh:
Hai ta như ngày nắng tránh ngày mưa
Như mặt trăng mặt trời cách trở
Như sao Hôm sao Mai không cùng ở
Có bao giờ cùng trở lại vườn xưa?
Hai ta như sen mùa hạ cúc mùa thu
Như tháng mười hồng tháng năm nhãn
Em theo chim em đi về tháng tám
Anh theo chim cùng với tháng ba qua.
Rất nhiều phép so sánh đã được sử dụng ở đây để không những nhấn mạnh vào sự xa cách của đôi lứa mà còn thể hiện một cách sinh động tài tình trạng thái của tâm hồn, một trạng thái bất an, bứt rứt, băn khoăn của con người trong tình huống muốn gặp lại người thương nhưng thật khó. Cái khó đó chẳng khác nào ngày nắng/ngày mưa, mặt trăng/mặt trời, sao Hôm/sao Mai, sen mùa hạ/cúc mùa thu, tháng mười hồng/tháng năm nhãn, đi về tháng tám/tháng ba qua. Nhà thơ đã so sánh cái khó đó cùng các hiện tượng trong vũ trụ phải chăng muốn ngầm nói đó là quy luật, là định mệnh... Cách so sánh ví von trên đậm chất dân gian đặc biệt là hai câu cuối khổ thơ sau: “Em theo chim em đi về tháng tám. Anh theo chim cùng với tháng ba qua” khiến độc giả không khỏi nghĩ đến lời tục ngữ: “Tháng tám chim qua/ tháng ba chim về”.
Đoạn tiếp đó thật ra cũng chỉ để làm rõ đoạn trên:
Một ngày xuân em trở lại nhà
Nghe mẹ nói anh có về hái ổi
Em nhìn lên vòm cây gió thổi
Lá như môi thầm thĩ gọi anh về.
Lần sau anh trở lại một ngày hè
Nghe mẹ nói em có về bên giếng giặt
Anh nhìn giếng, giếng sâu trong vắt
Nước như gương soi lẻ bóng hình anh.
Phép trùng lặp, phép đối xứng được sử dụng nhiều trong bài thơ này đặc biệt là hai khổ thơ trên đây: một ngày xuân, một ngày hè, em trở lại, anh trở lại, em nhìn lên ngọn cây, anh nhìn giếng, lá như môi, nước như giếng... Hai khổ thơ ghi lại những kỉ niệm cũ của hai người để cho thấy là họ khó có thể gặp nhau. Bởi lẽ tuy cả hai người đều đã có lần trở về vườn xưa nhưng kẻ về trước, người về sau chứ không được cùng về một lúc để được gặp nhau. Những hình ảnh anh hái ổi, lá như môi, em bên giếng giặt, nước như gương soi lẻ bóng hình anh... vừa trẻ trung chân thực vừa hồn nhiên gần gũi biết bao. Thấp thoáng trong bài thơ luôn có hình ảnh bà mẹ. Tuy nhà thơ rất kiệm lời về bà (hai lần “tóc mỗi ngày mỗi bạc” và hai lần nghe mẹ nói) nhưng độc giả vẫn hình dung ra được một cụ bà hiền từ nhân hậu. Bà cũng chính là người làm chứng cho cuộc tình của lứa đôi này, một cuộc tình thủy chung, tuy đẹp mà buồn. Những phút giây họ đã quấn quýt bên nhau chan hòa hạnh phúc lứa đôi và cả những phút giây từng người đã về đây nhớ thương tiếc nuối: nhìn lên ngọn cây gió thổi, nhìn giếng, giếng sâu trong vắt đều có mặt bà. Bà mẹ già như một ngọn lửa nhỏ nhen nhóm ít nhiều cũng làm ấm lại lòng của cô gái, của chàng trai và làm nồng ấm cả bài thơ xinh xắn.
Sau cùng, tác giả lặp lại khổ thơ đầu để kết thúc bài thơ:
Mảnh vườn xưa cây mỗi ngày mỗi xanh
Bà mẹ già tóc mỗi ngày mỗi bạc
Hai ta ở hai đầu công tác
Có bao giờ cùng trở lại vườn xưa?
Vẫn là một lời tự hỏi đầy khát khao tha thiết của sự bâng khuâng khắc khoải muốn được “cùng trở lại vườn xưa” với người yêu. Vườn xưa, nhan đề bài thơ, phải đâu chỉ là một khu vườn nhỏ đầy “hoa lá, rất đậm hương và rộn tiếng chim” (Từ ấy, Tố Hữu) mà đây có thể là một khung cảnh, một thời khoảng trăng mật của tuổi thanh niên, một thời êm đềm nồng đượm. Trước quy luật khắc nghiệt của thời gian, tất cả rồi đều sẽ tàn phai kể cả hạnh phúc của người làm chứng cho năm tháng hạnh phúc kia. Ngọn sóng thời gian sẽ cuốn hút tất cả đúng như một thi sĩ nào đó viết:
Mây của trời rồi gió sẽ mang đi
(Hoài Khanh)
Tất cả chỉ còn là hoài niệm. Một lần hoài niệm là một lần được sống lại tuy không trọn vẹn như hương sắc thuở ban đầu. Hoa đã thành hoa khô. Bướm đã là bướm ép nhưng dẫu sao đó vẫn là quà tặng dành cho những ai là người nhân hậu thủy chung.Như đã nói, “Vườn xưa” đúng là một bài thơ hay của Tế Hanh, một bài thơ khá tiêu biểu cho nét phong cách thơ ông: cảm xúc rất chân thực mà cách diễn đạt cũng rất chân thực, bằng ngôn ngữ giản dị, tự nhiên và rất giàu hình ảnh như đã nêu lên ở phần đầu bài viết này.
(Theo Trần Ngọc Hưởng, vannghelongan.vn)