I. ĐỌC HIỂU (4,0 điểm)
Đọc văn bản:
MỘT LỜI NHẮC BẢN THÂN BÊN CHIẾC ĐIỆN THOẠI THÔNG MINH
(Hà Nhân)

(1) Thế giới ảo tiến hóa cuồn cuộn, đến giờ đã thành vũ trụ ảo. Vũ trụ ấy cũng dần bao la, vô cùng vô tận và không kém phần bí ẩn với con người hiện đại.

(2) Nhưng vũ trụ ảo ấy, giờ đây dường như đã và đang biến thành vòi rồng hút cạn năng lượng sống của con người.

(3) Cho dù điện thoại thông minh có tính năng báo cho bạn thời lượng bạn bỏ ra cho mạng xã hội mỗi ngày, tăng giảm bao nhiêu phần trăm so với tuần trước, rất ít người nhận ra chứng nghiện mạng của bản thân. Điện thoại đã thành thiết bị bất ly thân. Một đứa trẻ của thế hệ Alpha thường hay cáu kỉnh một cách vô thức vào thời điểm liền sau khi bị dứt khỏi thiết bị kết nối.

(4) Cùng với hậu đại dịch, kết nối không ngừng nghỉ, hội chứng sợ bỏ lỡ đang dần làm suy kiệt năng lượng sống của nhiều người, nhất là người trẻ. Ta có cảm giác biết tất cả mà cũng lơ mơ tất cả. Ta thấy mình bận bịu không dứt ra được mà thực ra không hoàn thành được cụ thể công việc gì. Ta đánh mất trạng thái tận hưởng trọn vẹn khoảnh khắc sự kiện diễn ra vì còn bận quay phim lại hay livestream và ngóng những phản hồi. Ngay cả trò chơi bóng đá, khi lạm dụng công nghệ để mong biến nó thành một trò chơi chính xác, cũng đánh mất đi sự hấp dẫn, đánh mất kí ức và chất liệu để làm nên những huyền thoại, để rồi biến thành câu chuyện khô khan không còn được kể mãi như đã từng nữa. Ngày - đêm không còn sự phân biệt và con người hôm nay sống trên tất cả các múi giờ. Những con người ở những nơi khác nhau, rất xa xôi nhưng lại thường chia sẻ chung một giá trị nào đó gần như đồng thời, xóa nhòa bản sắc.

(5) Vũ trụ ảo đang là dạng vòi rồng hút cạn năng lượng sống với thế giới thực cùng đủ năm giác quan của con người. Những nhân viên công sở mệt nhoài ngay cả khi chưa đến văn phòng vì tiếng “nổ” của tin nhắn, của tệp dữ liệu đổ về trên điện thoại qua các ứng dụng miễn phí. Những hội nhóm học trò rối loạn bởi thông tin vô nghĩa trộn lẫn, đẩy trôi những thông tin thiết yếu. Suy kiệt cả thể chất lẫn tinh thần, nhưng gần như không thể tự mình ngắt kết nối.

(6) Nếu bạn còn nhận ra mình đang bơi trong đại dương thông tin, đang suy kiệt trong những kết nối hút cạn dần năng lượng, bạn hãy nhớ con người còn có thế giới tự nhiên. Thiên nhiên là những vòi rồng, tiếp thêm năng lượng sống cho con người. Bạn có thể tắm nắng, tắm biển, tắm rừng, tắm trong ngọn gió trời. Bạn có thể xây dựng kí ức và huyền thoại dựa trên cả những lầm lạc, sai sót tự nhiên của con người.

(7) Con người vốn và nên bơi trong vũ trụ tự nhiên. Vũ trụ ảo chỉ nên là một dạng thức phương tiện để làm tăng thêm tiện nghi, không nên là một nơi để ta làm suy kiệt và đánh đắm chính mình.
(Theo Hoa học trò, số 1398, ra ngày 19/12/2022)

Thực hiện các yêu cầu:
Câu 1 [704721]: Nêu phương thức biểu đạt chính của đoạn trích.
Phương thức biểu đạt chính của đoạn trích: nghị luận.
Câu 2 [704722]: Theo bài viết, một đứa trẻ thuộc thế hệ Alpha thường có phản ứng ra sao sau khi bị dứt khỏi thiết bị kết nối?
Theo bài viết, một đứa trẻ thuộc thế hệ Alpha thường hay cáu kỉnh một cách vô thức vào thời điểm liền sau khi bị dứt khỏi thiết bị kết nối.
Câu 3 [704723]: Chỉ ra tác dụng phép so sánh được sử dụng trong câu văn: Thiên nhiên là những vòi rồng, tiếp thêm năng lượng sống cho con người.
Tác dụng phép so sánh được sử dụng trong câu văn: Thiên nhiên là những vòi rồng, tiếp thêm năng lượng sống cho con người.
- Góp phần làm cho lời văn sinh động, hấp dẫn, giàu sức gợi hình, gợi cảm.
- Nhấn mạnh vai trò quan trọng của thiên nhiên đối với con người: Hình ảnh những vòi rồng cùng cụm động từ tiếp thêm năng lượng sống tô đậm khả năng tác động mạnh mẽ của thiên nhiên tới con người.
Câu 4 [704724]: Nêu ý nghĩa của việc lặp đi lặp lại diễn đạt: vũ trụ ảo (...) đã và đang biến thành vòi rồng hút cạn năng lượng sống của con người; Vũ trụ ảo đang là dạng vòi rồng hút cạn năng lượng sống với thế giới thực cùng đủ năm giác quan của con người.
Ý nghĩa của việc lặp đi lặp lại diễn đạt: vũ trụ ảo (...) đã và đang biến thành vòi rồng hút cạn năng lượng sống của con người; Vũ trụ ảo đang là dạng vòi rồng hút cạn năng lượng sống với thế giới thực cùng đủ năm giác quan của con người.
- Nhấn mạnh sức tác động thiếu tích cực của vũ trụ ảo đối với con người: đã và đang biến thành vòi rồng hút cạn năng lượng sống của con người; hút cạn năng lượng sống với thế giới thực.
- Cảnh báo những tác động tiêu cực của thế giới ảo đối với con người trong xã hội hiện đại.
Câu 5 [706117]: Anh/Chị có đồng tình với ý kiến cho rằng Vũ trụ ảo chỉ nên là một dạng thức phương tiện để làm tăng thêm tiện nghi, không nên là một nơi để ta làm suy kiệt và đánh đắm chính mình không? Vì sao?
Thí sinh có thể đồng tình/ không đồng tình/ đồng tình một phần với ý kiến cho rằng Vũ trụ ảo chỉ nên là một dạng thức phương tiện để làm tăng thêm tiện nghi, không nên là một nơi để ta làm suy kiệt và đánh đắm chính mình, song cần lí giải ngắn gọn nguyên nhân. Chẳng hạn:
- Tôi đồng tình với ý kiến. Vì chúng ta là những con người thật, đang sống cuộc đời thật với những cảm xúc, suy nghĩ thật. Thế giới ảo, vũ trụ ảo với rất nhiều tiện ích dẫu sao cũng chỉ nên là một phương tiện, cách thức làm cho cuộc sống của con người trong xã hội hiện đại trở nên tốt đẹp hơn. Nếu quá đắm chìm trong thế giới ảo, con người dễ mất đi kết nối với thế giới thực, từ đó dễ mất đi khả năng thích ứng, cơ hội rèn luyện, phát triển bản thân.
Hoặc
- Tôi không đồng tình với ý kiến. Vì vũ trụ ảo thực sự đã, đang mang đến cho chúng ta rất nhiều tiện nghi, tiện ích, cơ hội bên cạnh những thách thức. Nếu không có những tiện nghi ấy, chúng ta sẽ ít nhiều gặp những khó khăn trong hành trình đi đến tương lai.
Hoặc
- Tôi vừa đồng tình vừa không đồng tình với ý kiến cho rằng rằng Vũ trụ ảo chỉ nên là một dạng thức phương tiện để làm tăng thêm tiện nghi, không nên là một nơi để ta làm suy kiệt và đánh đắm chính mình .
- Thí sinh kết hợp lí do ở hai gợi ý trên để trả lời.
II. VIẾT (6,0 điểm)
Câu 6 [704902]: (2,0 điểm)
Viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ), trình bày suy nghĩ của anh/chị về sự cần thiết của việc “ngắt kết nối” với mạng xã hội ở một bộ phận không nhỏ người sử dụng trong xã hội hiện đại.
Đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ về sự cần thiết của việc “ngắt kết nối” với mạng xã hội ở một bộ phận không nhỏ người sử dụng trong xã hội hiện đại có thể được triển khai theo hướng:
- Mạng xã hội: hệ thống thông tin cung cấp cho cộng đồng người sử dụng mạng các dịch vụ lưu trữ, cung cấp, sử dụng, tìm kiếm, chia sẻ và trao đổi thông tin với nhau, bao gồm dịch vụ tạo trang thông tin điện tử cá nhân, diễn đàn, trò chuyện trực tuyến, chia sẻ âm thanh, hình thức dịch vụ tương tự khác. Một số mạng xã hội phổ biến: Facebook, Zalo, Tik Tok, Instagram,...
- Cần thiết “ngắt kết nối” mạng xã hội ở một bộ phận không nhỏ người sử dụng trong xã hội hiện đại vì:
+ Thực tế nhiều người đang để bản thân quá đắm chìm vào thế giới ảo do mạng xã hội tạo ra, bởi đó, xa rời cuộc đời thực, xao nhãng những việc quan trọng đối với chính bản thân mỗi người.
+ Bên cạnh những tác động tích cực, mạng xã hội cũng mang lại một số tác động tiêu cực đến bản thân người sử dụng và cộng đồng xã hội như: gây “nghiện”, tiêu tốn thời gian vào những việc vô bổ; ít nhiều làm phân rã những quan hệ tình cảm đòi hỏi sự gắn kết trực tiếp (tình cảm gia đình, tình yêu, tình bạn,...); ít nhiều gây nên những tổn thương, tác động tâm lí khi trên mạng xã hội thường phổ biến các hình ảnh khoe khoang cuộc sống giàu có, vương giả của một bộ phận người nổi tiếng; tạo không gian “hành nghề” cho các đối tượng lừa đảo khiến nhiều người sử dụng mạng xã hội thiếu tỉnh táo dễ dàng bị mắc lừa;...
+ “Ngắt kết nối” để mỗi người có thời gian, điều kiện,... dành cho những người, những việc quan trọng trong cuộc sống của mình.
- Việc “ngắt kết nối” nên được thực hiện một cách chủ động và linh hoạt, không nên “ngắt kết nối” hoàn toàn...
Câu 7 [704903]: (4,0 điểm)
Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) phân tích đoạn kí sau:
“Khi chiếc điện thoại di động hiện lên hàng chữ NO NETWORK (dấu hiệu báo đã ra ngoài vùng phủ sóng), tôi rơi vào cảm giác cô đơn đến cùng cực. Vốn đã quen với cuộc sống đầy đủ báo, đài, vô tuyến và điện thoại; sự thiếu vắng thông tin làm cho người ta dễ sợ hãi, như một kẻ bị lãng quên. Bên cạnh tôi, anh em trên tàu, mà người ta vẫn gọi là dân bạn, từ dùng chỉ những người không có phương tiện, đi làm trên tàu và hưởng thù lao theo tỉ lệ sản phẩm đánh bắt được, đã ngủ say; chỉ còn “thuyền trưởng” Trần Quốc Dũng đang cầm lái. Dũng năm nay 26 tuổi, quê Bình Định, là con rể ông Bẩy Sót chủ tàu, chỉ vào chiếc máy định vị trước mặt và hướng dẫn cho tôi cách xác định vị trí con tàu. “Giờ đã là cuối vụ cá nên phải đi xa. Nếu là giữa vụ (khoảng tháng 4 dương lịch) thì sẽ đi gần hơn anh ạ. Sớm mai ta sẽ đến khu vực để bủa câu (thả câu)”. Có lẽ trên tàu lúc này chỉ còn 3 vật giúp người ta cảm thấy được gắn bó với đất liền: Ngoài chiếc máy định vị, còn một chiếc máy bộ đàm để liên lạc giữa các tàu trong khu vực và một chiếc radio, nhưng cũng chỉ được dùng để nghe dự báo thời tiết vào lúc 18 giờ 30 phút hàng ngày. “Tàu được trang bị những thứ này lâu chưa?” - “Cũng mới đây thôi, từ khi phát triển nghề đánh bắt xa bờ chúng em mới bắt đầu trang bị những thứ này. Trước đây đi xa chủ yếu phải dựa vào kinh nghiệm, có khi căn cứ vào nước, có khi vào mặt trời, vào trăng sao, thậm chí có khi còn phải chờ để xem cả khói máy bay nữa...”. Nghe vậy, tôi không tránh khỏi cảm giác rùng mình. Nhìn ra ngoài, chưa bao giờ khái niệm trái đất hình cầu lại hiển hiện rõ ràng đến thế. Hút tầm mắt, cả bốn hướng đều mênh mông và vắng ngắt. Trời thì cao vời vợi, còn dưới chân thì...
Đêm đầu tiên trôi qua trong vô vàn những cảm giác mới lạ: nhớ nhung, kiêu hãnh, tò mò, háo hức, rờn rợn, phấp phỏng... giữa tiếng máy nổ đều đều và mùi dầu nồng nặc...”
(Trích Những “thợ săn” trên biển - Lương Ngọc An, theo vanvn.vn)
Bài văn phân tích đoạn kí trích từ Những “thợ săn” trên biển (Lương Ngọc An) có thể triển khai theo nhiều cách, song cần bảo đảm các ý chính:
* Giới thiệu khái quát tác giả, tác phẩm
- Lương Ngọc An là một trong những gương mặt tiêu biểu, một trong những cây bút tài hoa của nền văn học Việt Nam đương đại.
- Trích đoạn:
+ Được rút từ bài kí Những “thợ săn” trên biển. Bài kí viết về công cuộc mưu sinh của những người lao động miền biển. Bài kí đoạt giải Nhất Cuộc thi Bút kí Báo Lao động.
+ Đoạn trích tập trung thể hiện những cảm xúc, suy nghĩ của người viết trong một trải nghiệm thực tế cùng với những người “thợ săn” trên biển cả mênh mông.
* Phân tích đoạn kí
- Nội dung:
+ Cuộc sống, công cuộc mưu sinh của những người dân lao động miền biển:
• Bối cảnh:
o Không gian: biển khơi mênh mông, vắng lặng, xa đất liền, mất kết nối internet với đất liền (chiếc điện thoại di động hiện lên hàng chữ NO NETWORK).
o Thời gian: đêm (thời điểm “dân bạn” đã ngủ say, “Sớm mai ta sẽ đến khu vực để bủa câu (thả câu)”,
⟶ Bối cảnh gợi hình dung về sự nhỏ bé, đơn độc của con người giữa đại dương bao la; gợi cảm giác về sự chông chênh, đầy bất trắc, rủi ro.
• Trong đoạn trích, công cuộc mưu sinh của con người không được miêu tả ở thời điểm những người dân chài lao động mà ở thời điểm đêm vắng lặng, khi họ đang chìm vào giấc ngủ say. Lúc này, chỉ có Trần Quốc Dũng, “thuyền trưởng” của con tàu đang cầm lái.
Mọi ấn tượng về công cuộc mưu sinh của những người dân lao động miền biển được tập trung gợi tả ở việc bị “ngắt kết nối”, hoàn toàn thiếu vắng thông tin của con tàu đối với đất liền. Mọi sự kết nối thu vào ba đồ vật nhỏ bé, thô mộc: Ngoài chiếc máy định vị, còn một chiếc máy bộ đàm để liên lạc giữa các tàu trong khu vực và một chiếc radio, nhưng cũng chỉ được dùng để nghe dự báo thời tiết vào lúc 18 giờ 30 phút hàng ngày.  Đặt trong thời đại khoa học công nghệ hiện đại, khi con người được thụ hưởng rất nhiều thành tựu từ những tiến bộ của thời đại cách mạng công nghiệp 4.0, ba vật dụng kết nối kia là minh chứng cho thấy những khó khăn, thiếu thốn và hình ảnh con tàu đánh cá chưa thực sự hiện đại.
Chi tiết lời chia sẻ của thuyền trưởng “Cũng mới đây thôi, từ khi phát triển nghề đánh bắt xa bờ chúng em mới bắt đầu trang bị những thứ này. Trước đây đi xa chủ yếu phải dựa vào kinh nghiệm, có khi căn cứ vào nước, có khi vào mặt trời, vào trăng sao, thậm chí có khi còn phải chờ để xem cả khói máy bay nữa...” càng tô đậm cho sự thô sơ của con tàu cũng như các trang thiết bị đánh bắt xa bờ trên con tàu. Sự thô mộc ấy hẳn sẽ không khiến cho các con tàu đi xa được ra biển lớn cũng như không giúp các ngư dân đánh bắt được nhiều cá to, có giá trị kinh tế cao. Theo đó, cuộc sống của ngư dân hẳn sẽ không được giàu có, sung túc dù họ luôn vất vả, cực nhọc để mưu sinh trên biển khơi bao la.
+ Cái “tôi” của người viết:
• Bên cạnh việc phản chiếu cuộc sống gieo neo của ngư dân trên biển, đoạn trích cũng bộc lộ rất nhiều cảm xúc, suy tư của người viết về những gì đang “mắt thấy tai nghe”, những trải nghiệm thực tế mà tác giả đang trải qua: tôi rơi vào cảm giác cô đơn đến cùng cực; sự thiếu vắng thông tin làm cho người ta dễ sợ hãi, như một kẻ bị lãng quên; tôi không tránh khỏi cảm giác rùng mình; Trời thì cao vời vợi, còn dưới chân thì...;...
• Các từ ngữ, câu văn bộc lộ cảm xúc, suy nghĩ của tác giả cho thấy một phức hợp cảm xúc phong phú, phức tạp đang diễn ra trong nội tâm của chính người viết mà chính ông đã bộc bạch: vô vàn những cảm giác mới lạ: nhớ nhung, kiêu hãnh, tò mò, háo hức, rờn rợn, phấp phỏng...
⟶ Cái “tôi” của người viết: nhạy cảm, giàu cảm xúc (thể hiện ở sự đa dạng trong các sắc thái cảm xúc của tác giả); dũng cảm dấn thân trong nghề nghiệp (để có được bài kí này, tác giả đã trực tiếp tham gia vào chuyến đánh bắt xa bờ của các ngư dân); giàu tình cảm (thấu hiểu, yêu thương, sẻ chia với nỗi vất vả, khó nhọc của những người đi biển);...
- Hình thức nghệ thuật
+ Kết hợp nhuần nhuyễn giữa yếu tố trữ tình và yếu tố tự sự:
• Tự sự: kể lại một khoảnh khắc trên biển của các ngư dân trong đêm giữa đại dương bao la; ngoài nhân vật trữ tình “tôi”, đoạn kí còn có các nhân vật như “thuyền trưởng” Trần Quốc Dũng, những người “dân bạn” làm thuê trên các con tàu,...
• Trữ tình: cảm giác cô đơn trước biển khơi bao la, rợn ngợp, cảm giác sợ hãi,... (tôi rơi vào cảm giác cô đơn đến cùng cực; tôi không tránh khỏi cảm giác rùng mình) sự thấu hiểu, xúc cảm yêu thương, có phần ái ngại, xót xa... của người viết trước công cuộc mưu sinh đầy gian truân của những người dân lao động miền biển được thể hiện trực tiếp qua các từ ngữ, câu văn giàu sức biểu cảm (Trời thì cao vời vợi, còn dưới chân thì...
• Tự sự trở thành cái cớ để người viết bộc lộ cảm xúc, suy nghĩ; trữ tình làm cho những ghi chép chứa đựng tình cảm, cảm xúc, khiến đoạn kí trở nên sinh động, hấp dẫn;...
+ Yếu tố phi hư cấu:
• Yếu tố phi hư cấu được mang đến từ sự xuất hiện của “người thực việc thực” (“thuyền trưởng” Trần Quốc Dũng, 26 tuổi, quê Bình Định, là con rể ông Bẩy Sót chủ tàu; thời điểm cuối vụ cá nên con tàu phải đi xa),...
• Yếu tố phi hư cấu khiến cho những ghi chép của người viết trở nên chân thực, sinh động, hấp dẫn, từ đó tạo sự tin cậy đối với người đọc, khơi gợi xúc cảm thấu hiểu, đồng điệu ở người đọc đối với công cuộc mưu sinh đầy gieo neo của những người dân đi biển.
* Đánh giá chung
- Đoạn kí không quá dài nhưng để lại trong lòng người đọc những ấn tượng sâu sắc về cuộc sống còn đầy vất vả, gian truân của những người dân lao động miền biển; từ đó khơi thắp lên trong người đọc tình cảm yêu thương, cảm phục những người “thợ săn” trên biển.
- Đoạn kí góp phần làm phong phú thêm cho đề tài biển đảo trong văn học Việt Nam, từ đó gieo nhân lên trong mỗi người đọc tình yêu quê hương đất nước.