I. ĐỌC HIỂU (4,0 điểm)
Đọc đoạn trích:
“Gánh nặng ung thư trên toàn cầu vẫn ngày càng tăng. Năm 2022 toàn cầu có 20 triệu ca mắc ung thư mới và có 9,7 triệu ca tử vong, số người còn sống trong vòng 5 năm sau khi được chẩn đoán mắc ung thư là 53,5 triệu. Nhóm 10 bệnh ung thư phổ biến nhất chiếm 2/3 tổng số ca mắc là: ung thư phổi, vú, đại trực tràng... Dự báo đến năm 2050 sẽ có hơn 35 triệu ca mắc mới, tăng 77% so với năm 2022.
Gánh nặng ung thư toàn cầu đang tăng phản ánh cả quá trình già hoá dân số cũng như những thay đổi trong tiếp xúc với các yếu tố rủi ro. Thuốc lá, rượu và béo phì là những yếu tố chính dẫn đến tỉ lệ mắc ung thư ngày càng tăng, trong khi ô nhiễm không khí vẫn là động lực chính của các yếu tố rủi ro môi trường.
Mặc dù đã có những tiến bộ trong việc phát hiện sớm ung thư và điều trị cũng như chăm sóc bệnh nhân ung thư, nhưng vẫn có sự chênh lệch đáng kể về kết quả điều trị ung thư giữa các giữa các quốc gia, giữa các khu vực có thu nhập cao và thấp trên thế giới.
Tại Việt Nam, số ca mắc và tử vong đang ở mức báo động. Theo thống kê của GLOBOCAN 2022, Việt Nam ghi nhận 180.480 ca mắc mới và 120.184 ca tử vong do ung thư. Việt Nam ở vị trí thứ 20 về tỉ lệ mắc mới tại châu Á, và thứ 101 trên toàn cầu.
Các loại ung thư phổ biến nhất tại Việt Nam hiện nay là, ở nam giới: ung thư gan chiếm tỉ lệ cao nhất (19,7%), tiếp theo là ung thư phổi (17,7%) và ung thư dạ dày (11%); ở nữ giới: ung thư vú chiếm tỉ lệ cao nhất (28,9%), ung thư phổi (8,7%) và ung thư đại trực tràng (8,7%).)
Đây là một gánh nặng lớn đối với cả gia đình bệnh nhân và hệ thống y tế quốc gia. Đặc biệt, một tỉ lệ đáng kể người bệnh chỉ được phát hiện khi bệnh đã tiến triển đến giai đoạn muộn, làm giảm hiệu quả điều trị và tăng chi phí điều trị.
Về gánh nặng kinh tế do ung thư tại Việt Nam cũng là vấn đề lớn, với chi phí điều trị căn bệnh này mỗi năm cũng tiêu tốn hàng trăm triệu USD. Thống kê của Tổ chức Y tế thế giới năm 2021, chi tiêu y tế tại Việt Nam là 173 USD/người, trong đó một tỉ lệ đáng kể dành cho điều trị ung thư.”
“Gánh nặng ung thư trên toàn cầu vẫn ngày càng tăng. Năm 2022 toàn cầu có 20 triệu ca mắc ung thư mới và có 9,7 triệu ca tử vong, số người còn sống trong vòng 5 năm sau khi được chẩn đoán mắc ung thư là 53,5 triệu. Nhóm 10 bệnh ung thư phổ biến nhất chiếm 2/3 tổng số ca mắc là: ung thư phổi, vú, đại trực tràng... Dự báo đến năm 2050 sẽ có hơn 35 triệu ca mắc mới, tăng 77% so với năm 2022.
Gánh nặng ung thư toàn cầu đang tăng phản ánh cả quá trình già hoá dân số cũng như những thay đổi trong tiếp xúc với các yếu tố rủi ro. Thuốc lá, rượu và béo phì là những yếu tố chính dẫn đến tỉ lệ mắc ung thư ngày càng tăng, trong khi ô nhiễm không khí vẫn là động lực chính của các yếu tố rủi ro môi trường.
Mặc dù đã có những tiến bộ trong việc phát hiện sớm ung thư và điều trị cũng như chăm sóc bệnh nhân ung thư, nhưng vẫn có sự chênh lệch đáng kể về kết quả điều trị ung thư giữa các giữa các quốc gia, giữa các khu vực có thu nhập cao và thấp trên thế giới.
Tại Việt Nam, số ca mắc và tử vong đang ở mức báo động. Theo thống kê của GLOBOCAN 2022, Việt Nam ghi nhận 180.480 ca mắc mới và 120.184 ca tử vong do ung thư. Việt Nam ở vị trí thứ 20 về tỉ lệ mắc mới tại châu Á, và thứ 101 trên toàn cầu.
Các loại ung thư phổ biến nhất tại Việt Nam hiện nay là, ở nam giới: ung thư gan chiếm tỉ lệ cao nhất (19,7%), tiếp theo là ung thư phổi (17,7%) và ung thư dạ dày (11%); ở nữ giới: ung thư vú chiếm tỉ lệ cao nhất (28,9%), ung thư phổi (8,7%) và ung thư đại trực tràng (8,7%).)
Đây là một gánh nặng lớn đối với cả gia đình bệnh nhân và hệ thống y tế quốc gia. Đặc biệt, một tỉ lệ đáng kể người bệnh chỉ được phát hiện khi bệnh đã tiến triển đến giai đoạn muộn, làm giảm hiệu quả điều trị và tăng chi phí điều trị.
Về gánh nặng kinh tế do ung thư tại Việt Nam cũng là vấn đề lớn, với chi phí điều trị căn bệnh này mỗi năm cũng tiêu tốn hàng trăm triệu USD. Thống kê của Tổ chức Y tế thế giới năm 2021, chi tiêu y tế tại Việt Nam là 173 USD/người, trong đó một tỉ lệ đáng kể dành cho điều trị ung thư.”
(Trích Gánh nặng ung thư tại Việt Nam ngày càng tăng - Minh Hoàng, theo nhandan.vn)
Thực hiện các yêu cầu:
Câu 1 [701551]: Đoạn trích gồm mấy phần? Chỉ ra nội dung chính của từng phần.
- Phần thứ nhất (từ đầu đến có thu nhập cao và thấp trên thế giới): Gánh nặng ung thư trên toàn cầu.
- Phần thứ hai (còn lại): Gánh nặng ung thư tại Việt Nam.
- Phần thứ hai (còn lại): Gánh nặng ung thư tại Việt Nam.
Câu 2 [701552]: Theo đoạn trích, các loại ung thư phổ biến nhất ở Việt Nam là gì?
Theo đoạn trích, các loại ung thư phổ biến nhất ở Việt Nam là: ở nam giới: ung thư gan chiếm tỉ lệ cao nhất (19,7%), tiếp theo là ung thư phổi (17,7%) và ung thư dạ dày (11%); ở nữ giới: ung thư vú chiếm tỉ lệ cao nhất (28,9%), ung thư phổi (8,7%) và ung thư đại trực tràng (8,7%).).
Câu 3 [701553]: Nêu tác dụng của các dữ liệu được nêu trong đoạn trích.
- Đoạn trích cung cấp nhiều dữ liệu về tình trạng ung thư trên toàn cầu và ở Việt Nam, như:
+ Trên toàn cầu: số ca mắc mới, số ca tử vong năm 2022; số người còn sóng trong vòng 5 năm sau khi được chẩn đoán mắc ung thư; nhóm bệnh ung thư hổ biến nhất; dự báo số ca mắc mới,...
+ Ở Việt Nam: số ca mắc mới, số ca tử vong năm 2022; thứ hạng về tỉ lệ mắc mới của Việt Nam tại châu Á và toàn cầu; các loại ung thư phổ biến; gánh nặng kinh tế do ung thư;...
- Tác dụng của các dữ liệu được nêu trong đoạn trích:
+ Cung cấp thông tin chính xác, phản ánh thực trạng gánh nặng ung thư trên thế giới và ở Việt Nam; từ đó, thể hiện sự tìm tòi, hiểu biết của người viết về vấn đề được thông tin.
+ Cảnh báo về những gánh nặng đáng lo ngại của bệnh ung thư; bộc lộ thái độ cảnh tỉnh của người viết về vấn đề được thông tin.
+ Trên toàn cầu: số ca mắc mới, số ca tử vong năm 2022; số người còn sóng trong vòng 5 năm sau khi được chẩn đoán mắc ung thư; nhóm bệnh ung thư hổ biến nhất; dự báo số ca mắc mới,...
+ Ở Việt Nam: số ca mắc mới, số ca tử vong năm 2022; thứ hạng về tỉ lệ mắc mới của Việt Nam tại châu Á và toàn cầu; các loại ung thư phổ biến; gánh nặng kinh tế do ung thư;...
- Tác dụng của các dữ liệu được nêu trong đoạn trích:
+ Cung cấp thông tin chính xác, phản ánh thực trạng gánh nặng ung thư trên thế giới và ở Việt Nam; từ đó, thể hiện sự tìm tòi, hiểu biết của người viết về vấn đề được thông tin.
+ Cảnh báo về những gánh nặng đáng lo ngại của bệnh ung thư; bộc lộ thái độ cảnh tỉnh của người viết về vấn đề được thông tin.
Câu 4 [701554]: Thuốc lá, rượu và béo phì là những yếu tố chính dẫn đến tỉ lệ mắc ung thư ngày càng tăng, trong khi ô nhiễm không khí vẫn là động lực chính của các yếu tố rủi ro môi trường.
Chỉ ra ý nghĩa của thông tin trên.
Chỉ ra ý nghĩa của thông tin trên.
Thuốc lá, rượu và béo phì là những yếu tố chính dẫn đến tỉ lệ mắc ung thư ngày càng tăng, trong khi ô nhiễm không khí vẫn là động lực chính của các yếu tố rủi ro môi trường.
Ý nghĩa của thông tin trên: Thông tin vừa mang tính chất cảnh báo (các yếu tố cốt lõi dẫn đến tỉ lệ ung thư ngày càng tăng và tình trạng ô nhiễm không khí là một trong động lực chính thúc đẩy sự phát triển của tỉ lệ đó) vừa khuyến cáo mọi người nên tránh xa, hạn chế sử dụng thuốc lá, rượu bia, tăng cường vận động để không mắc chứng béo phì và tích cực góp phần bảo vệ môi trường,...
Ý nghĩa của thông tin trên: Thông tin vừa mang tính chất cảnh báo (các yếu tố cốt lõi dẫn đến tỉ lệ ung thư ngày càng tăng và tình trạng ô nhiễm không khí là một trong động lực chính thúc đẩy sự phát triển của tỉ lệ đó) vừa khuyến cáo mọi người nên tránh xa, hạn chế sử dụng thuốc lá, rượu bia, tăng cường vận động để không mắc chứng béo phì và tích cực góp phần bảo vệ môi trường,...
Câu 5 [701555]: Theo anh/chị căn bệnh ung thư có đáng sợ không? Vì sao?
Thí sinh bày tỏ quan điểm đồng tình/ không đồng tình/ đồng tình một phần; đồng thời lí giải nguyên do. Chẳng hạn:
- Tôi hoàn toàn đồng tình với ý kiến cho rằng ung thư là căn bệnh đáng sợ.
- Bởi lẽ: Nhiều bệnh ung thư có thể huỷ hoại sự sống của con người rất nhanh; gây ảnh hưởng lớn đến tâm lí, tinh thần của người bệnh và người thân; việc điều trị bệnh kéo dài, tiêu tốn rất nhiều tiền của.
Hoặc
- Tôi không đồng tình với ý kiến cho rằng ung thư là căn bệnh đáng sợ.
- Bởi lẽ: Mỗi chúng ta có thể chủ động phòng ngừa ung thư bằng cách ăn uống, sinh hoạt lành mạnh, hạn chế tiếp xúc với các tác nhân gây hại, hình thành thói quen khám chữa bệnh định kì hằng năm; thêm nữa, hiện nay sự phát triển của Y học với những thành tựu đã đạt được cho phép chúng ta tin vào kết quả chữa trị bệnh ung thư.
Hoặc
- Tôi vừa đồng tình vừa không đồng tình với ý kiến cho rằng ung thư là căn bệnh đáng sợ.
- Thí sinh kết hợp lí do ở hai gợi ý trên để trả lời.
- Tôi hoàn toàn đồng tình với ý kiến cho rằng ung thư là căn bệnh đáng sợ.
- Bởi lẽ: Nhiều bệnh ung thư có thể huỷ hoại sự sống của con người rất nhanh; gây ảnh hưởng lớn đến tâm lí, tinh thần của người bệnh và người thân; việc điều trị bệnh kéo dài, tiêu tốn rất nhiều tiền của.
Hoặc
- Tôi không đồng tình với ý kiến cho rằng ung thư là căn bệnh đáng sợ.
- Bởi lẽ: Mỗi chúng ta có thể chủ động phòng ngừa ung thư bằng cách ăn uống, sinh hoạt lành mạnh, hạn chế tiếp xúc với các tác nhân gây hại, hình thành thói quen khám chữa bệnh định kì hằng năm; thêm nữa, hiện nay sự phát triển của Y học với những thành tựu đã đạt được cho phép chúng ta tin vào kết quả chữa trị bệnh ung thư.
Hoặc
- Tôi vừa đồng tình vừa không đồng tình với ý kiến cho rằng ung thư là căn bệnh đáng sợ.
- Thí sinh kết hợp lí do ở hai gợi ý trên để trả lời.
II. VIẾT (6,0 điểm)
Câu 6 [701556]: (2,0 điểm)
Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về đóng góp của những người trẻ hôm nay trong việc giảm thiểu các đại dịch trên toàn cầu.
Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về đóng góp của những người trẻ hôm nay trong việc giảm thiểu các đại dịch trên toàn cầu.
Đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ về đóng góp của những người trẻ hôm nay trong việc giảm thiểu các đại dịch trên toàn cầu có thể được triển khai theo theo hướng:
- Thế giới đã, đang và sẽ phải đối mặt với các dịch bệnh có sức lây lan trên phạm vi toàn cầu và sự nguy hại ở mọi cấp độ như sởi, cúm mùa, đậu mùa, tả, dịch hạch, Covid-19,... Việc chung tay góp sức để đẩy lùi các đại dịch là trách nhiệm của mỗi người, đặc biệt là người trẻ.
- Đóng góp của những người trẻ hôm nay trong việc giảm thiểu các đại dịch trên toàn cầu:
+ Nhận thức: hiểu biết đúng đắn, đầy đủ về bản chất, mức độ nguy hại của các dịch bệnh; nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của việc tiêm chủng vác-xin phòng ngừa các dịch bệnh; nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng việc tuân thủ các yêu cầu phòng chống dịch bệnh của các cơ quan y tế, cơ quan chức năng;... (dẫn chứng: Trong đại dịch Covid-19, nhiều người từ chối tiêm vác-xin, nhiều người không tuân thủ các quy tắc phòng bệnh,...).
+ Hành động: chủ động nâng cao sức khoẻ để tăng đề kháng của cơ thể bằng việc vận động thể dục thể thao, ăn uống sinh hoạt lành mạnh; tuân thủ nghiêm việc phòng chống dịch bệnh; tuyên truyền tới mọi người ý thức phòng chống dịch bệnh;... (dẫn chứng: nhiều người trẻ yêu thích và thường xuyên duy trì các hoạt động thể thao lành mạnh như chơi cầu lông, bóng bàn, bơi lội,...; tuân thủ giờ giấc học tập, sinh hoạt; bắt đầu từ những hành vi nhỏ như đeo khẩu trang khi tham gia giao thông, trong môi trường khói bụi, rửa tay thường xuyên,...).
- Thế giới đã, đang và sẽ phải đối mặt với các dịch bệnh có sức lây lan trên phạm vi toàn cầu và sự nguy hại ở mọi cấp độ như sởi, cúm mùa, đậu mùa, tả, dịch hạch, Covid-19,... Việc chung tay góp sức để đẩy lùi các đại dịch là trách nhiệm của mỗi người, đặc biệt là người trẻ.
- Đóng góp của những người trẻ hôm nay trong việc giảm thiểu các đại dịch trên toàn cầu:
+ Nhận thức: hiểu biết đúng đắn, đầy đủ về bản chất, mức độ nguy hại của các dịch bệnh; nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của việc tiêm chủng vác-xin phòng ngừa các dịch bệnh; nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng việc tuân thủ các yêu cầu phòng chống dịch bệnh của các cơ quan y tế, cơ quan chức năng;... (dẫn chứng: Trong đại dịch Covid-19, nhiều người từ chối tiêm vác-xin, nhiều người không tuân thủ các quy tắc phòng bệnh,...).
+ Hành động: chủ động nâng cao sức khoẻ để tăng đề kháng của cơ thể bằng việc vận động thể dục thể thao, ăn uống sinh hoạt lành mạnh; tuân thủ nghiêm việc phòng chống dịch bệnh; tuyên truyền tới mọi người ý thức phòng chống dịch bệnh;... (dẫn chứng: nhiều người trẻ yêu thích và thường xuyên duy trì các hoạt động thể thao lành mạnh như chơi cầu lông, bóng bàn, bơi lội,...; tuân thủ giờ giấc học tập, sinh hoạt; bắt đầu từ những hành vi nhỏ như đeo khẩu trang khi tham gia giao thông, trong môi trường khói bụi, rửa tay thường xuyên,...).
Câu 7 [701557]: (4,0 điểm)
Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ), phân tích bài thơ sau:
Yêu quê hương qua từng trang sách nhỏ:
“Ai bảo chăn trâu là khổ?”
Tôi mơ màng nghe chim hót trên cao.
Những ngày trốn học
Đuổi bướm cầu ao
Mẹ bắt được...
Chưa đánh roi nào đã khóc!
Có cô bé nhà bên
Nhìn tôi cười khúc khích...
Cách mạng bùng lên
Rồi kháng chiến trường kì
Quê tôi đầy bóng giặc
Từ biệt mẹ tôi đi
Cô bé nhà bên - (có ai ngờ!)
Cũng vào du kích
Hôm gặp tôi vẫn cười khúc khích
Mắt đen tròn (thương thương quá đi thôi!)
Giữa cuộc hành quân không nói được một lời
Đơn vị đi qua, tôi ngoái đầu nhìn lại...
Mưa đầy trời nhưng lòng tôi ấm mãi...
Hoà bình tôi trở về đây
Với mái trường xưa, bãi mía, luống cày
Lại gặp em
Thẹn thùng nép sau cánh cửa...
Vẫn khúc khích cười khi tôi hỏi nhỏ
- Chuyện chồng con (khó nói lắm anh ơi!)
Tôi nắm bàn tay nhỏ nhắn ngậm ngùi
Em vẫn để yên trong tay tôi nóng bỏng...
Hôm nay nhận được tin em
Không tin được dù đó là sự thật
Giặc bắn em rồi quăng mất xác
Chỉ vì em là du kích, em ơi!
Đau xé lòng anh, chết nửa con người!
Xưa yêu quê hương vì có chim có bướm
Có những ngày trốn học bị đòn roi...
Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất
Có một phần xương thịt của em tôi.
Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ), phân tích bài thơ sau:
QUÊ HƯƠNG
(Giang Nam)
Thuở còn thơ ngày hai buổi đến trườngYêu quê hương qua từng trang sách nhỏ:
“Ai bảo chăn trâu là khổ?”
Tôi mơ màng nghe chim hót trên cao.
Những ngày trốn học
Đuổi bướm cầu ao
Mẹ bắt được...
Chưa đánh roi nào đã khóc!
Có cô bé nhà bên
Nhìn tôi cười khúc khích...
Cách mạng bùng lên
Rồi kháng chiến trường kì
Quê tôi đầy bóng giặc
Từ biệt mẹ tôi đi
Cô bé nhà bên - (có ai ngờ!)
Cũng vào du kích
Hôm gặp tôi vẫn cười khúc khích
Mắt đen tròn (thương thương quá đi thôi!)
Giữa cuộc hành quân không nói được một lời
Đơn vị đi qua, tôi ngoái đầu nhìn lại...
Mưa đầy trời nhưng lòng tôi ấm mãi...
Hoà bình tôi trở về đây
Với mái trường xưa, bãi mía, luống cày
Lại gặp em
Thẹn thùng nép sau cánh cửa...
Vẫn khúc khích cười khi tôi hỏi nhỏ
- Chuyện chồng con (khó nói lắm anh ơi!)
Tôi nắm bàn tay nhỏ nhắn ngậm ngùi
Em vẫn để yên trong tay tôi nóng bỏng...
Hôm nay nhận được tin em
Không tin được dù đó là sự thật
Giặc bắn em rồi quăng mất xác
Chỉ vì em là du kích, em ơi!
Đau xé lòng anh, chết nửa con người!
Xưa yêu quê hương vì có chim có bướm
Có những ngày trốn học bị đòn roi...
Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất
Có một phần xương thịt của em tôi.
1960
(Theo Thơ tình người lính, NXB Phụ nữ, Hà Nội, 1995)
Bài văn phân tích sự kết hợp của yếu tố trữ tình và yếu tố tự sự trong bài thơ “Quê hương” (Giang Nam) có thể triển khai theo nhiều cách, song cần bảo đảm các ý chính:
* Giới thiệu khái quát về nhà thơ Giang Nam, bài thơ “Quê hương”
- Nhà thơ Giang Nam là một trong những gương mặt tiêu biểu của thơ ca Việt Nam thời kì kháng chiến chống đế quốc Mỹ.
- Bài thơ “Quê hương”:
+ Vị trí: Thi phẩm đặc sắc nhất đời thơ Giang Nam, góp phần đính ghim tên tuổi nhà thơ trong tâm trí bạn đọc.
+ Hoàn cảnh sáng tác: Ra đời năm 1960, khi ông hay tin vợ và con gái mình bị giặc bắt và giết hại. Thật may, đó chỉ là một thông tin nhầm lẫn. Sau đó hai năm (năm 1962), Giang Nam biết tin vợ con ông còn sống nhưng phải đến tận năm 1973 ông mới được đoàn tụ với vợ con.
+ Đề tài: quê hương đất nước (đề tài quen thuộc trong thơ ca Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975: “Tây Tiến”, “Mắt người Sơn Tây” - Quang Dũng, “Đồng chí” - Chính Hữu, “Nhớ” - Hồng Nguyên, “Việt Bắc” - Tố Hữu, “Đất nước” - Nguyễn Đình Thi, “Mặt đường khát vọng” - Nguyễn Khoa Điềm,...)
+ Thể thơ: tự do, rất phù hợp để nhân vật trữ tình bộc lộc tình cảm, cảm xúc một cách phóng khoáng.
+ Nhân vật trong bài thơ: Hình ảnh “cô bé nhà bên” trong bài thơ có nguyên mẫu từ chính người vợ của Giang Nam nhưng cũng là ảnh chiếu của biết bao nữ du kịch mà ông đã gặp trong đời hoạt động cách mạng của mình.
* Phân tích sự kết hợp giữa yếu tố trữ tình và yếu tố tự sự trong bài thơ
- Yếu tố trữ tình và yếu tố tự sự trong bài thơ
+ Yếu tố tự sự: “Quê hương” kể cho người đọc một câu chuyện chan chứa yêu thương nhưng thấm đượm nỗi buồn đau mất mát
• Nhân vật: Bài thơ là câu chuyện tình yêu giữa “tôi” và “cô bé nhà bên”
• Chuỗi sự việc: Diễn biến câu chuyện giữa “tôi” và “em” xoay quanh các sự việc, sự kiện được trần thuật theo mạch thời gian:
o Thuở còn thơ, “tôi” là một cậu bé ham chơi, tinh nghịch ngợm nhưng cũng rất sợ đòn: những ngày trốn học/ đuổi bướm bị mẹ bắt được chưa đánh roi nào đã khóc. Mỗi lần như thế, “em” - “cô bé nhà bên” luôn hồn nhiên cười khúc khích.
o Khi cách mạng bùng lên, “tôi” đi kháng chiến, “em” cũng vào du kích và thật tình cờ, hai người đã gặp nhau giữa cuộc hành quân.
o Hoà bình, “tôi” trở về quê nhà, gặp “em”, hỏi “em” chuyện chồng con, “em” vẫn cười khúc khích nhưng tay để yên trong tay tôi nóng bỏng.
o “Hôm nay”, “tôi” bất ngờ nhận được tin dữ: Giặc bắn em rồi quăng mất xác.
⟶ Cốt truyện bao gồm chuỗi sự việc, sự kiện và các chi tiết đặc sắc, hấp dẫn, có những chi tiết, sự việc được đẩy đến cao trào, lôi cuốn người đọc.
+ Yếu tố trữ tình: “Quê hương” là một bài thơ trữ tình thấm đượm tình cảm, cảm xúc của “tôi”
• Chủ đề: tình yêu quê hương đất nước quyện trong tình yêu đôi lứa.
• Nhân vật trữ tình: “tôi” - một người lính
• Cảm hứng chủ đạo: nỗi đau, nỗi xúc động cực đỉnh trong nhân vật trữ tình khi nghe tin người con gái yêu thương nơi quê nhà bị giặc giết hại
• Biểu hiện cụ thể của yếu tố trữ tình trong bài thơ:
o Mạch cảm xúc: yêu thương trong trẻo thuở còn thơ - niềm thương mến, luyến lưu khi bất ngờ gặp nhau trên chặng đường hành quân - yêu thương chớm nở trong ngày hoà bình gặp lại - nỗi đau khi nghe tin “em” bị giặc giết - nỗi thương nhớ thuỷ chung
o Giọng điệu: vui tươi, hồn nhiên, trong trẻo (khi kể lại kỉ niệm tuổi thơ); lưu luyến, bịn rịn (khi nhớ lại kỉ niệm gặp nhau trên đường hành quân); xao xuyến, bâng khuâng, đầy khao khát yêu thương (trong ngày “tôi” trở lại quê nhà và gặp “em”); đau đớn, xót xa cực đỉnh (khi nghe tin “em” bị giặc giết); man mác nhớ thương (trong hiện tại không còn em)
o Ngôn ngữ, hình ảnh: giàu sức gợi (yêu quê hương, tôi mơ màng, cười khúc khích, mắt đen tròn, lòng tôi ấm mãi, nắm bàn tay nhỏ nhắn ngậm ngùi, tay tôi nóng bỏng, Đau xé lòng anh, chết nửa con người!,...)
o Biện pháp tu từ: phép chêm xem ((có ai ngờ!), (thương thương quá đi thôi!), phép đối (Mưa đầy trời nhưng lòng tôi ấm mãi; Xưa yêu quê hương... - Nay yêu quê hương...);...
+ Sự đan xen giữa yếu tố trữ tình và yếu tố tự sự:
• Trữ tình và tự sự không tách biệt mà quyện hoà suốt dọc bài thơ.
• Tự sự trở thành cái cớ để nhân vật trữ tình bộc lộ tình cảm, cảm xúc, để khai triển, nâng đỡ mạch cảm xúc.
• Trữ tình nảy nở và neo đậu vào từng sự việc, sự kiện diễn ra trong mạch tự sự.
- Ý nghĩa sự kết hợp giữa yếu tố trữ tình và yếu tố tự sự trong bài thơ
+ Tự sự đóng vai trò dẫn dắt, khai triển các sự việc, tạo nên cơn cớ để nhân vật trữ tình trải lòng. Diễn biến của chuỗi tự sự xoay quanh những kỉ niệm giữa “tôi” và “em” từ thuở bé thơ đến khoảnh khắc hiện tại chứng tỏ tình cảm sâu nặng, thuỷ chung “tôi” dành cho “em”.
+ Trữ tình làm cho mạch tự sự không khô cứng, thuần tuý kể việc mà thấm đượm cảm xúc, giúp nhân vật trữ tình bộc bạch tâm tư, nỗi lòng một cách chân thực, tự nhiên, cảm động, lay động lòng người.
+ Sự kết hợp giữa tự sự và trữ tình làm nên sức hấp dẫn đặc biệt của bài thơ, tạo nên một câu chuyện tình yêu thời chiến tuy buồn thương nhưng lãng mạn, nên thơ. (Liên hệ: “Núi đôi” (Vũ Cao), “Đồi tím hoa sim” (Hữu Loan),...)
* Đánh giá chung
- “Quê hương” là thi phẩm đặc biệt thành công trong sự kết hợp giữa tự sự và trữ tình.
- Sự kết hợp giữa tự sự và trữ tình trong bài thơ góp phần khẳng định tài năng nghệ thuật thơ ca của Giang Nam; góp thêm một tiếng thơ độc đáo trong mảng đề tài quê hương đất nước.
<*> Tham khảo bài viết:
“Bài thơ “Quê hương” ra đời vào năm 1960, khi cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ ngày càng trở nên khốc liệt, trở thành một trong những biểu tượng đẹp đẽ về tình yêu cá nhân hòa trong tình yêu Tổ quốc. Những câu thơ đẹp giản dị và gần gũi ấy đã đánh thức những vùng kí ức bình yên, trong sáng trong tâm hồn người đọc, để rồi đưa người đọc đến với tình yêu đất nước rộng lớn hơn qua sự hi sinh của nữ chiến sĩ du kích: “Xưa yêu quê hương vì có chim, có bướm/ Có những ngày trốn học bị đòn roi/ Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất/ Có một phần xương thịt của em tôi”.
Nhà thơ Giang Nam, tên khai sinh là Nguyễn Sung, sinh ngày 2/2/1929, quê quán: xã Ninh Bình, huyện Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa. Ông tham gia hoạt động cách mạng từ năm 17 tuổi, bắt đầu làm công tác tuyên truyền, văn nghệ tại ban thông tin xã. Sau đó ông được điều về làm việc ở Ty Thông tin Khánh Hòa vì tổ chức nhận thấy ông có năng khiếu văn chương.

Sau Hiệp định Giơnevơ (1954), hai miền chia cắt, ông xung phong ở lại miền nam chiến đấu. Trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ, ông từng trải qua các vị trí: Phó Trưởng Ban Tuyên huấn Tỉnh ủy Khánh Hòa, Phó Tổng Thư kí Hội Văn nghệ giải phóng, Tổng Biên tập báo Văn nghệ Giải phóng. Sau ngày đất nước thống nhất (1975), Giang Nam trở thành Ủy viên Thường vụ Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khóa II, III; đại biểu Quốc hội khóa VI, Tổng Biên tập Tuần báo Văn nghệ (1978 - 1980). Năm 1984, ông được điều về công tác tại tỉnh Phú Khánh, trở thành Chủ tịch Hội Văn nghệ tỉnh (1984 - 1989), rồi Phó Chủ tịch UBND tỉnh Khánh Hòa (1989 - 1993) cho đến khi nghỉ hưu.
Cả sự nghiệp văn học của mình, ông viết nhiều thể loại: thơ, trường ca, truyện, truyện kí, hồi kí văn học..., nhưng nhiều nhất vẫn là thơ và trường ca với hơn mười tập, trong đó đặc sắc nhất là bài thơ “Quê hương”, sau này được lấy làm tên tập thơ xuất bản năm 1965. Đề tài của ông viết khá đa dạng, nhưng tập trung nhất vẫn là chiến tranh cách mạng và cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc cả trong thời chiến và thời bình. Ông đã nhận được nhiều giải thưởng văn học danh giá ở cấp Trung ương và địa phương, trong đó có Giải thưởng Nhà nước về văn học, nghệ thuật đợt I (năm 2001) cho ba tập thơ “Quê hương”, “Hạnh phúc từ nay” và “Thành phố chưa dừng bước chân”.
[...]
Ông kể: “Đó là một buổi chiều năm 1960, đồng chí Phó Bí thư Tỉnh ủy gọi tôi lên, hỏi thăm với thái độ đặc biệt ân cần khiến tôi linh cảm có chuyện bất thường. Quả nhiên sau đó anh thông báo, cơ sở cho biết vợ và con gái tôi bị địch bắt và đã bị chúng thủ tiêu. Trời như sập xuống đầu tôi. Tối hôm đó, dưới chân núi Hòn Dù, cách thành phố Nha Trang chừng bốn chục cây số, bên ngọn đèn dầu tù mù, trong vòng một tiếng, tôi viết xong bài thơ “Quê hương”, hầu như không gạch xóa, sửa chữa một chữ nào.
Những kỉ niệm cũ, tình yêu ban đầu e ấp vụng dại, những giận hờn và buổi chia tay đầy nước mắt, vợ và con tôi đều khóc... hiện ra trên đầu ngọn bút. Vừa viết, nước mắt tôi vừa trào ra. Về sau mới biết, tin vợ và con gái tôi bị thủ tiêu không chính xác. Vợ tôi bị bắt ở Biên Hòa, địch giam kín trong khám Chí Hòa, chúng giấu kĩ thông tin. Trong số tù chính trị, nhiều người bị thủ tiêu cho nên tổ chức mới nhầm vợ con tôi cũng đã bị giết hại. Năm 1962, do mình đấu tranh dữ quá, chúng buộc phải đem ra xử công khai. Đó là vụ án chính trị duy nhất ở Sài Gòn bấy giờ và lúc ấy tôi mới được biết”.
Trong văn học Việt Nam thời chiến tranh có hai bài thơ nổi tiếng, “Núi đôi” của Vũ Cao và “Quê hương” của Giang Nam viết về sự li biệt giữa người chồng bộ đội và vợ/ người yêu, một ở miền bắc, một ở miền nam. Cả hai bài thơ, nhân vật nữ đều là du kích bị kẻ thù giết hại. Nhưng “cô bé nhà bên” trong bài thơ Quê hương đã còn sống, vì tin bị địch thủ tiêu là do nhầm lẫn. Tuy nhiên, chiến tranh và tù đày đã chia cách nhà thơ Giang Nam với vợ và cô con gái, phải sau 15 năm ròng (1958 - 1973) gia đình ông mới được đoàn tụ.”
* Giới thiệu khái quát về nhà thơ Giang Nam, bài thơ “Quê hương”
- Nhà thơ Giang Nam là một trong những gương mặt tiêu biểu của thơ ca Việt Nam thời kì kháng chiến chống đế quốc Mỹ.
- Bài thơ “Quê hương”:
+ Vị trí: Thi phẩm đặc sắc nhất đời thơ Giang Nam, góp phần đính ghim tên tuổi nhà thơ trong tâm trí bạn đọc.
+ Hoàn cảnh sáng tác: Ra đời năm 1960, khi ông hay tin vợ và con gái mình bị giặc bắt và giết hại. Thật may, đó chỉ là một thông tin nhầm lẫn. Sau đó hai năm (năm 1962), Giang Nam biết tin vợ con ông còn sống nhưng phải đến tận năm 1973 ông mới được đoàn tụ với vợ con.
+ Đề tài: quê hương đất nước (đề tài quen thuộc trong thơ ca Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975: “Tây Tiến”, “Mắt người Sơn Tây” - Quang Dũng, “Đồng chí” - Chính Hữu, “Nhớ” - Hồng Nguyên, “Việt Bắc” - Tố Hữu, “Đất nước” - Nguyễn Đình Thi, “Mặt đường khát vọng” - Nguyễn Khoa Điềm,...)
+ Thể thơ: tự do, rất phù hợp để nhân vật trữ tình bộc lộc tình cảm, cảm xúc một cách phóng khoáng.
+ Nhân vật trong bài thơ: Hình ảnh “cô bé nhà bên” trong bài thơ có nguyên mẫu từ chính người vợ của Giang Nam nhưng cũng là ảnh chiếu của biết bao nữ du kịch mà ông đã gặp trong đời hoạt động cách mạng của mình.
* Phân tích sự kết hợp giữa yếu tố trữ tình và yếu tố tự sự trong bài thơ
- Yếu tố trữ tình và yếu tố tự sự trong bài thơ
+ Yếu tố tự sự: “Quê hương” kể cho người đọc một câu chuyện chan chứa yêu thương nhưng thấm đượm nỗi buồn đau mất mát
• Nhân vật: Bài thơ là câu chuyện tình yêu giữa “tôi” và “cô bé nhà bên”
• Chuỗi sự việc: Diễn biến câu chuyện giữa “tôi” và “em” xoay quanh các sự việc, sự kiện được trần thuật theo mạch thời gian:
o Thuở còn thơ, “tôi” là một cậu bé ham chơi, tinh nghịch ngợm nhưng cũng rất sợ đòn: những ngày trốn học/ đuổi bướm bị mẹ bắt được chưa đánh roi nào đã khóc. Mỗi lần như thế, “em” - “cô bé nhà bên” luôn hồn nhiên cười khúc khích.
o Khi cách mạng bùng lên, “tôi” đi kháng chiến, “em” cũng vào du kích và thật tình cờ, hai người đã gặp nhau giữa cuộc hành quân.
o Hoà bình, “tôi” trở về quê nhà, gặp “em”, hỏi “em” chuyện chồng con, “em” vẫn cười khúc khích nhưng tay để yên trong tay tôi nóng bỏng.
o “Hôm nay”, “tôi” bất ngờ nhận được tin dữ: Giặc bắn em rồi quăng mất xác.
⟶ Cốt truyện bao gồm chuỗi sự việc, sự kiện và các chi tiết đặc sắc, hấp dẫn, có những chi tiết, sự việc được đẩy đến cao trào, lôi cuốn người đọc.
+ Yếu tố trữ tình: “Quê hương” là một bài thơ trữ tình thấm đượm tình cảm, cảm xúc của “tôi”
• Chủ đề: tình yêu quê hương đất nước quyện trong tình yêu đôi lứa.
• Nhân vật trữ tình: “tôi” - một người lính
• Cảm hứng chủ đạo: nỗi đau, nỗi xúc động cực đỉnh trong nhân vật trữ tình khi nghe tin người con gái yêu thương nơi quê nhà bị giặc giết hại
• Biểu hiện cụ thể của yếu tố trữ tình trong bài thơ:
o Mạch cảm xúc: yêu thương trong trẻo thuở còn thơ - niềm thương mến, luyến lưu khi bất ngờ gặp nhau trên chặng đường hành quân - yêu thương chớm nở trong ngày hoà bình gặp lại - nỗi đau khi nghe tin “em” bị giặc giết - nỗi thương nhớ thuỷ chung
o Giọng điệu: vui tươi, hồn nhiên, trong trẻo (khi kể lại kỉ niệm tuổi thơ); lưu luyến, bịn rịn (khi nhớ lại kỉ niệm gặp nhau trên đường hành quân); xao xuyến, bâng khuâng, đầy khao khát yêu thương (trong ngày “tôi” trở lại quê nhà và gặp “em”); đau đớn, xót xa cực đỉnh (khi nghe tin “em” bị giặc giết); man mác nhớ thương (trong hiện tại không còn em)
o Ngôn ngữ, hình ảnh: giàu sức gợi (yêu quê hương, tôi mơ màng, cười khúc khích, mắt đen tròn, lòng tôi ấm mãi, nắm bàn tay nhỏ nhắn ngậm ngùi, tay tôi nóng bỏng, Đau xé lòng anh, chết nửa con người!,...)
o Biện pháp tu từ: phép chêm xem ((có ai ngờ!), (thương thương quá đi thôi!), phép đối (Mưa đầy trời nhưng lòng tôi ấm mãi; Xưa yêu quê hương... - Nay yêu quê hương...);...
+ Sự đan xen giữa yếu tố trữ tình và yếu tố tự sự:
• Trữ tình và tự sự không tách biệt mà quyện hoà suốt dọc bài thơ.
• Tự sự trở thành cái cớ để nhân vật trữ tình bộc lộ tình cảm, cảm xúc, để khai triển, nâng đỡ mạch cảm xúc.
• Trữ tình nảy nở và neo đậu vào từng sự việc, sự kiện diễn ra trong mạch tự sự.
- Ý nghĩa sự kết hợp giữa yếu tố trữ tình và yếu tố tự sự trong bài thơ
+ Tự sự đóng vai trò dẫn dắt, khai triển các sự việc, tạo nên cơn cớ để nhân vật trữ tình trải lòng. Diễn biến của chuỗi tự sự xoay quanh những kỉ niệm giữa “tôi” và “em” từ thuở bé thơ đến khoảnh khắc hiện tại chứng tỏ tình cảm sâu nặng, thuỷ chung “tôi” dành cho “em”.
+ Trữ tình làm cho mạch tự sự không khô cứng, thuần tuý kể việc mà thấm đượm cảm xúc, giúp nhân vật trữ tình bộc bạch tâm tư, nỗi lòng một cách chân thực, tự nhiên, cảm động, lay động lòng người.
+ Sự kết hợp giữa tự sự và trữ tình làm nên sức hấp dẫn đặc biệt của bài thơ, tạo nên một câu chuyện tình yêu thời chiến tuy buồn thương nhưng lãng mạn, nên thơ. (Liên hệ: “Núi đôi” (Vũ Cao), “Đồi tím hoa sim” (Hữu Loan),...)
* Đánh giá chung
- “Quê hương” là thi phẩm đặc biệt thành công trong sự kết hợp giữa tự sự và trữ tình.
- Sự kết hợp giữa tự sự và trữ tình trong bài thơ góp phần khẳng định tài năng nghệ thuật thơ ca của Giang Nam; góp thêm một tiếng thơ độc đáo trong mảng đề tài quê hương đất nước.
<*> Tham khảo bài viết:
“Bài thơ “Quê hương” ra đời vào năm 1960, khi cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ ngày càng trở nên khốc liệt, trở thành một trong những biểu tượng đẹp đẽ về tình yêu cá nhân hòa trong tình yêu Tổ quốc. Những câu thơ đẹp giản dị và gần gũi ấy đã đánh thức những vùng kí ức bình yên, trong sáng trong tâm hồn người đọc, để rồi đưa người đọc đến với tình yêu đất nước rộng lớn hơn qua sự hi sinh của nữ chiến sĩ du kích: “Xưa yêu quê hương vì có chim, có bướm/ Có những ngày trốn học bị đòn roi/ Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất/ Có một phần xương thịt của em tôi”.
Nhà thơ Giang Nam, tên khai sinh là Nguyễn Sung, sinh ngày 2/2/1929, quê quán: xã Ninh Bình, huyện Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa. Ông tham gia hoạt động cách mạng từ năm 17 tuổi, bắt đầu làm công tác tuyên truyền, văn nghệ tại ban thông tin xã. Sau đó ông được điều về làm việc ở Ty Thông tin Khánh Hòa vì tổ chức nhận thấy ông có năng khiếu văn chương.

Sau Hiệp định Giơnevơ (1954), hai miền chia cắt, ông xung phong ở lại miền nam chiến đấu. Trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ, ông từng trải qua các vị trí: Phó Trưởng Ban Tuyên huấn Tỉnh ủy Khánh Hòa, Phó Tổng Thư kí Hội Văn nghệ giải phóng, Tổng Biên tập báo Văn nghệ Giải phóng. Sau ngày đất nước thống nhất (1975), Giang Nam trở thành Ủy viên Thường vụ Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khóa II, III; đại biểu Quốc hội khóa VI, Tổng Biên tập Tuần báo Văn nghệ (1978 - 1980). Năm 1984, ông được điều về công tác tại tỉnh Phú Khánh, trở thành Chủ tịch Hội Văn nghệ tỉnh (1984 - 1989), rồi Phó Chủ tịch UBND tỉnh Khánh Hòa (1989 - 1993) cho đến khi nghỉ hưu.
Cả sự nghiệp văn học của mình, ông viết nhiều thể loại: thơ, trường ca, truyện, truyện kí, hồi kí văn học..., nhưng nhiều nhất vẫn là thơ và trường ca với hơn mười tập, trong đó đặc sắc nhất là bài thơ “Quê hương”, sau này được lấy làm tên tập thơ xuất bản năm 1965. Đề tài của ông viết khá đa dạng, nhưng tập trung nhất vẫn là chiến tranh cách mạng và cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc cả trong thời chiến và thời bình. Ông đã nhận được nhiều giải thưởng văn học danh giá ở cấp Trung ương và địa phương, trong đó có Giải thưởng Nhà nước về văn học, nghệ thuật đợt I (năm 2001) cho ba tập thơ “Quê hương”, “Hạnh phúc từ nay” và “Thành phố chưa dừng bước chân”.
[...]
Ông kể: “Đó là một buổi chiều năm 1960, đồng chí Phó Bí thư Tỉnh ủy gọi tôi lên, hỏi thăm với thái độ đặc biệt ân cần khiến tôi linh cảm có chuyện bất thường. Quả nhiên sau đó anh thông báo, cơ sở cho biết vợ và con gái tôi bị địch bắt và đã bị chúng thủ tiêu. Trời như sập xuống đầu tôi. Tối hôm đó, dưới chân núi Hòn Dù, cách thành phố Nha Trang chừng bốn chục cây số, bên ngọn đèn dầu tù mù, trong vòng một tiếng, tôi viết xong bài thơ “Quê hương”, hầu như không gạch xóa, sửa chữa một chữ nào.
Những kỉ niệm cũ, tình yêu ban đầu e ấp vụng dại, những giận hờn và buổi chia tay đầy nước mắt, vợ và con tôi đều khóc... hiện ra trên đầu ngọn bút. Vừa viết, nước mắt tôi vừa trào ra. Về sau mới biết, tin vợ và con gái tôi bị thủ tiêu không chính xác. Vợ tôi bị bắt ở Biên Hòa, địch giam kín trong khám Chí Hòa, chúng giấu kĩ thông tin. Trong số tù chính trị, nhiều người bị thủ tiêu cho nên tổ chức mới nhầm vợ con tôi cũng đã bị giết hại. Năm 1962, do mình đấu tranh dữ quá, chúng buộc phải đem ra xử công khai. Đó là vụ án chính trị duy nhất ở Sài Gòn bấy giờ và lúc ấy tôi mới được biết”.
Trong văn học Việt Nam thời chiến tranh có hai bài thơ nổi tiếng, “Núi đôi” của Vũ Cao và “Quê hương” của Giang Nam viết về sự li biệt giữa người chồng bộ đội và vợ/ người yêu, một ở miền bắc, một ở miền nam. Cả hai bài thơ, nhân vật nữ đều là du kích bị kẻ thù giết hại. Nhưng “cô bé nhà bên” trong bài thơ Quê hương đã còn sống, vì tin bị địch thủ tiêu là do nhầm lẫn. Tuy nhiên, chiến tranh và tù đày đã chia cách nhà thơ Giang Nam với vợ và cô con gái, phải sau 15 năm ròng (1958 - 1973) gia đình ông mới được đoàn tụ.”
(Trích Vĩnh biệt tác giả bài thơ Quê hương nổi tiếng - Hữu Việt, theo nhandan.vn)