I. ĐỌC HIỂU (4,0 điểm)
Đọc đoạn trích:
“Từ hơn 2500 năm trước, trong giáo hội của Đức Phật đã hình thành tập quán các nhà sư đi khất thực. Bằng cách nhận đồ cúng dường của mọi người mà không phân biệt, các nhà sư muốn chứng tỏ rằng tất thảy con người đều bình đẳng. Bằng cách nhận đồ cúng dường, các vị còn muốn tạo điều kiện cho mọi người được làm điều thiện. Ai cũng có cơ hội làm phúc làm đức và gửi phúc đức vào trong thiên hạ.
Hồi giáo thì quy định hẳn việc làm từ thiện là một trong năm việc bắt buộc phải làm suốt đời. Không phải nhiều ít tùy tâm mà hẳn hoi thành chỉ tiêu cụ thể: không chỉ người giàu mới làm từ thiện mà ai cũng phải trích ra từ 2,5% đến 10% thu nhập hàng năm để giúp đỡ người nghèo và trẻ mồ côi. Tiền được trao trực tiếp, không nhất thiết phải qua một tổ chức nào. Bố thí là để thực hiện nghĩa vụ tôn giáo và là cách để làm trong sạch số tài sản mà mình kiếm được.
Tinh thần ấy của Hồi giáo, sau mười bốn thế kỉ, đến giờ vẫn còn hiện đại.
Thứ nhất, người ta không thể viện cớ mình không giàu có để không phải làm từ thiện.
Thứ hai, làm từ thiện không phụ thuộc vào thu nhập cao thấp, thấp thì số phần trăm đóng góp ít, cao thì phần trăm nhiều hơn. Nhưng đã có quy định về mức sàn và mức trần, không được thấp hơn 2,5% và không nhất thiết phải cao hơn 10%. Rất thực tế và rất phải chăng, chẳng hạn 2,5% của chị lao công và 10% của các tỉ phú (hoặc ngược lại) là vừa với khả năng đóng góp của từng người.
Thứ ba, tiền là thứ không sạch, có thể là theo nghĩa bóng, nhưng trước hết là về nghĩa đen. Một đồng xu hoặc một tờ giấy bạc có cả triệu bàn tay cầm đến, dính dấp mồ hôi, cả triệu con vi trùng truyền nhiễm. Đồng tiền ấy qua tay bao nhiêu người giàu nghèo, có khi phải đồ mồ hôi và máu, có khi phải dùng đến thủ đoạn, đến những cách thức không hẳn đã trong sạch ngay thẳng. Đấy cũng là lí do Hồi giáo khuyên người ta dứt khoát phải cho bớt đi để làm trong sạch số tiền mà mình kiếm được.
Thứ tư, hãy trao trực tiếp cho người nghèo. Trực tiếp, đấy là sự kết nối giữa những tấm lòng, không cần phải qua trung gian. Sự thành tâm, sự trân trọng, sự sám hối nếu có, đều được bày tỏ một cách thẳng thắn, chính diện. Và hiện đại ở chỗ: trao trực tiếp như thế thì không có cơ hội cho sự rơi vãi hao hụt chấm mút, mà ngôn ngữ thời nay gọi là thất thoát.
Như vậy, làm từ thiện không phải là việc của riêng người giàu. Cũng không phải là việc của riêng tôn giáo. Vô vàn tổ chức từ thiện trên thế giới là không tôn giáo. Cũng không chỉ là việc của các chính phủ. Ngày nay có rất nhiều tổ chức đang rất nỗ lực xóa đói giảm nghèo, đấy là những tổ chức phi chính phủ. Cũng không hẳn là phải hình thành những tổ chức. Ngày nay cũng có nhiều cá nhân tự nguyện đứng ra cải thiện điều kiện sống cho cộng đồng.”
(Trích Từ thiện chẳng đâu xa - Hồ Anh Thái, theo vanvn.vn)
Thực hiện các yêu cầu:
Câu 1 [704904]: Nêu bố cục của đoạn trích.
Bố cục của đoạn trích: ba phần
- Phần thứ nhất (từ đầu đến gọi là thất thoát): Từ thiện ở các tôn giáo và trong xã hội hiện đại.
+ Từ đầu đến gửi phúc đức vào trong thiên hạ: Từ thiện và Phật giáo.
+ Tiếp đến mà mình kiếm được: Từ thiện và Hồi giáo.
+ Tiếp đến gọi là thất thoát: Từ thiện trong xã hội hiện đại.
- Phần thứ hai (còn lại): Lời bình luận về việc làm từ thiện.
Câu 2 [704905]: Theo đoạn trích, việc nhận đồ cúng dường của nhà sư có ý nghĩa gì?
Theo đoạn trích, việc nhận đồ cúng dường của nhà sư có hai ý nghĩa: Bằng cách nhận đồ cúng dường của mọi người mà không phân biệt, các nhà sư muốn chứng tỏ rằng tất thảy con người đều bình đẳng. Bằng cách nhận đồ cúng dường, các vị còn muốn tạo điều kiện cho mọi người được làm điều thiện.
Câu 3 [704906]: Người viết thể hiện thái độ như thế nào khi bàn về những quy định làm từ thiện của Hồi giáo?
Người viết thể hiện thái độ đồng tình, ủng hộ với những quy định làm từ thiện của Hồi giáo (làm từ thiện là một trong năm việc bắt buộc phải làm suốt đời; Tiền được trao trực tiếp, không nhất thiết phải qua một tổ chức nào).
Những từ ngữ gián tiếp bộc lộ quan điểm đồng tình: quy định hẳn, Không phải nhiều ít tùy tâm mà hẳn hoi thành chỉ tiêu, từ thiện cách để làm trong sạch số tài sản mà mình kiếm được.
Câu 4 [704907]: Cụm từ tinh thần ấy của Hồi giáo (in đậm) trong đoạn trích nghĩa là gì?
Cụm từ tinh thần ấy của Hồi giáo (in đậm) trong đoạn trích nghĩa là tinh thần coi việc làm từ thiện là việc bắt buộc phải thực hiện suốt đời, là nghĩa vụ phải thực hiện theo quy định trong Hồi giáo.
Câu 5 [704908]: Anh/ Chị có đồng tình với ý kiến cho rằng: làm từ thiện không phải là việc của riêng người giàu không? Vì sao?
Tôi hoàn toàn đồng tình với ý kiến cho rằng: làm từ thiện không phải là việc của riêng người giàu. Vì cốt lõi của từ thiện là xuất phát từ tâm, giá trị vật chất không quan trọng bằng tình cảm, thái độ khi chúng ta san sẻ với những người khó khăn hơn mình. Nếu chúng ta vẫn thành tâm san sẻ trong khả năng của chúng ta thì ngay cả khi thứ ta trao đi ít có giá trị vật chất, tấm lòng thiện nguyện của ta vẫn đáng trân quý.
II. VIẾT (6,0 điểm)
Câu 6 [704909]: (2,0 điểm)
Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh chị về ý nghĩa đích thực của hoạt động từ thiện.
Đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ về ý nghĩa đích thực của hoạt động từ thiện có thể được triển khai theo hướng:
- Tạo điều kiện cho mọi người có cơ hội làm việc thiện, làm điều tử tế.
- Động viên người có hoàn cảnh khó khăn, kém may mắn ở cả hai phương diện vật chất và tinh thần.
- Gắn kết tình người, giúp xã hội trở nên tốt đẹp hơn; có ý nghĩa giáo dục với con người trong xã hội hiện đại mà sự vô cảm đang là một “căn bệnh” đáng lo ngại.
(- Từ thiện nên được thực hiện một cách hình thức hoặc/và vì mục đích thiếu trong sáng như quảng cáo cho bản thân, rửa tiền,...).
Câu 7 [704910]: (4,0 điểm)
Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) phân tích đoạn trích truyện kí sau:
“Trần Quyết Định sinh năm 1958 tại làng Nguyệt Lãng, Minh Khai, Vũ Thư, Thái Bình. Năm 1977 nhập ngũ, chiến đấu tại chiến trường biên giới Campuchia. Ngày 29/12/1978, gia đình nhận được giấy báo tử “đã anh dũng hi sinh tại biên giới Tây Nam” do Chính uỷ Lê Minh Châu ký. Thế nhưng hơn 9 tháng sau, vào ngày 31/12/1979, Trần Quyết Định khoác ba lô lù lù trở về. Nguyên nhân sự nhầm lẫn này là do trong một trận đánh tại cao điểm 62 ở Tân Biên (Tây Ninh), Định bị thương nặng, được điều chuyển qua nhiều Quân Y viện chữa trị và khi khỏi bệnh, ra viện thì đơn vị đã sang chiến đấu bên chiến trường nước bạn. Thực ra, chuyện nhầm lẫn như vậy không phải là chuyện lạ trong chiến tranh. Thế nhưng một người lính thất lạc đơn vị, từ cõi chết trở về bằng xương bằng thịt đã vấp phải sự quan liêu của cả một hệ thống cơ quan chính sách nên mười năm trời đằng đẵng hết vào Nam, ra Bắc, hết lên tỉnh, xuống huyện, lên đến tận Thủ đô chỉ để làm một việc đơn giản hãy cho tôi “thủ tục để làm người còn sống” mà không được.
Đã 10 năm nay, Trần Quyết Định sống trong sự nghi kị về những “khuất tất” của bản lí lịch. Có người còn nói thẳng, hay là anh đào ngũ. Những điều ong, tiếng ve đã khiến Định day dứt, đau khổ. Anh đã nhiều lần vào tận miền Nam để tìm nhưng đơn vị liên tục thay đổi địa điểm đóng quân. Ngày đó, việc đi lại rất khó khăn. Đã có lần Định tìm đến nghĩa trang 1Đ, xã Thạch Biên (Tân Biên). Anh rùng mình khi thấy ngôi mộ số 2, hàng 5 tấm bia ghi rõ: Trần Quyết Định... Hi sinh ngày... Quê quán Nguyệt Lãng, Minh Khai, Vũ Thư, Thái Bình. Một cảm giác lành lạnh sống lưng. Định quỳ xuống khấn: “Người bạn vô danh dưới mộ ơi! Nấm mồ này lẽ ra người ta đã chôn cất tôi. Nhưng ở đời còn có sự rủi may, nhầm lẫn. Sự nhầm lẫn rủi ro đã làm bao nhiêu người phải vất vả, oan ức, khổ đau. Bố mẹ gia đình bạn biết ở đâu mà tìm, dù chỉ là tìm đúng nắm xương của con mình đem về an táng nơi quê cha đất tổ... Còn tôi, may mà cũng chẳng may. Hẳn như phải nằm yên dưới nơi lạnh lẽo bạn nằm, chắc bố mẹ, anh em và cả tôi nữa chẳng phải long đong, lặn lội hết nơi này đến nơi khác... Hỡi người bạn vô danh, bạn sống khôn, chết thiêng hãy phù hộ cho tôi tránh được mọi rủi ro, phiền toái trong việc làm thủ tục để được nhận là một người còn sống”.
(Kì I: Số phận bi hài của một người lính, trích Thủ tục để làm người còn sống - Minh Chuyên, theo dantri.com.vn)
Bài văn phân tích đoạn trích truyện kí có thể triển khai theo nhiều cách, song cần bảo đảm các ý chính:
* Giới thiệu khái quát tác giả, tác phẩm
- Minh Chuyên là một trong những cây bút truyện kí xuất sắc của văn học đương đại, là người có những đóng góp giá trị cho văn học và điện ảnh Việt Nam với nhiều tác phẩm viết về hậu quả mà chiến tranh để lại trên đất nước ta.
- Thủ tục để làm người còn sống
+ Là một trong những truyện kí đặc sắc của Minh Chuyên, in trên báo Văn nghệ số 19, tháng 5/1988; một trong những tác phẩm xuất sắc nhất, tạo một “cơn địa chấn bàng hoàng” trong đời sống xã hội (cùng với những Lời khai của bị can - Trần Huy Quang, Người đàn bà quỳ - Nguyễn Văn Ba, Tiếng hú những con tàu - Nguyễn Thị Vân Anh, Con đường có máu chảy - Trần Quang Quý, Tiếng đất - Hoàng Hữu Các, Cái đêm hôm ấy đêm gì - Phùng Gia Lộc,...).
+ Thể loại: truyện kí.
+ Nhân vật chính: Trần Quyết Định, một người lính trở về quê sau khi gia đình nhận được giấy báo tử đã anh dũng hi sinh tại biên giới Tây Nam. Ông đã phải vào Nam ra Bắc, đi khắp nơi hoàn thiện “thủ tục để làm người còn sống” mà không được. Nhà văn Minh Chuyên đã đồng hành cùng với Trần Quyết Định và sau gần sáu tháng trời với mười lăm cuộc họp lớn nhỏ từ địa phương đến Trung ương, có những cuộc họp lên đến mười bảy thành phần tham dự; hàng trăm biên bản đã được lập, hàng chục bản tường trình được viết và cũng ngần đó bản thông báo được các cơ quan chức năng gửi đi; tác giả đã từng có ý định rạch bụng mình để minh chứng sự thật, cuối cùng Trần Quyết Định cũng được “làm người còn sống”.
+ Truyện kí “như một quả bom” này đã gây cho Minh Chuyên nhiều khốn đốn nhưng nó đã đặt nền tảng cho một nhà văn viết kí giàu tiềm năng, dốc lòng cho một lí tưởng dùng ngòi bút để bảo vệ những thân phận thấp hèn, đấu tranh cho công bằng và khắc họa những số phận bi thương của người lính sau chiến tranh.
- Đoạn trích: mở đầu tác phẩm Thủ tục để làm người còn sống.
* Phân tích đoạn trích truyện kí
- Về nội dung
+ Nhân vật chính: là nhân vật có thật
• Tên tuổi: Trần Quyết Định, sinh năm 1958.
• Quê quán: làng Nguyệt Lãng, Minh Khai, Vũ Thư, Thái Bình.
⟶ Lai lịch rõ ràng, tạo ấn tượng về người thật việc thật.
+ Sự việc gắn liền với nhân vật:
• Sự việc thứ nhất: Năm 1977, ông Định nhập ngũ, chiến đấu tại chiến trường biên giới Campuchia. Cuối năm 1978, gia đình ông Định nhận được giấy báo tử, thông tin ông Định đã hi sinh tại biên giới Tây Nam. Cuối năm 1979, ông Định lại khoác ba lô trở về quê nhà.
Lí do nhầm lẫn: trong một trận đánh tại cao điểm 62 ở Tân Biên (Tây Ninh), Định bị thương nặng, được điều chuyển qua nhiều Quân Y viện chữa trị và khi khỏi bệnh, ra viện thì đơn vị đã sang chiến đấu bên chiến trường nước bạn.
⟶ Trong bối cảnh chiến tranh, những nhầm lẫn như thế này không hiếm gặp.
• Sự việc thứ hai: Khi trở về quê hương, suốt mười năm trời, dù vào Nam ra Bắc, lên tỉnh xuống huyện nhiều lần, ông Định không thể hoàn tất thủ tục “để làm người còn sống”.
Lí do được tác giả Minh Chuyên gọi tên ngắn gọn nhưng rõ ràng, dõng dạc: sự quan liêu của cả một hệ thống cơ quan chính sách.
Hậu quả của chuỗi sự việc: Suốt mười năm, ông Trần Quyết Định sống trong sự nghi kị về những “khuất tất” của bản lí lịch, có người nói ông đào ngũ, ông không thể trở lại cuộc sống bình thường như bao người bình thường. ⟶ Hoá ra, may mắn sống sót trở về lại bắt đầu cho một chuỗi những gian lao, vất vả, chỉ để chứng minh mình “còn sống”. Việc thực mà như bịa, đầy phi lí và khiến bất cứ ai khi đọc cũng có cảm giác nghẹt thở, thậm chí bất bình, phẫn nộ cùng cực. Thật khó có thể hình dung giữa cuộc đời thực lại xảy ra một chuyện nực cười. Một chuyện tưởng chừng chỉ cần giải quyết chừng đầu một vài ngày thế nhưng lại kéo dài đằng đẵng cả... chục năm!
• Sự việc thứ ba: Trong suốt mười năm, Trần Quyết Định vào tận miền Nam để tìm lại đơn vị nhưng đơn vị liên tục thay đổi địa điểm đóng quân; có lần ông tìm đến nghĩa trang 1Đ, xã Thạch Biên (Tân Biên) và rùng mình khi thấy ngôi mộ số 2, hàng 5 tấm bia ghi rõ: Trần Quyết Định... Hi sinh ngày... Quê quán Nguyệt Lãng, Minh Khai, Vũ Thư, Thái Bình. ⟶ Sự việc được tái hiện không một lời bình phẩm nhưng lại khiến người đọc có cảm giác xót xa vô hạn. Trần Quyết Định đang còn sống nhưng tên ông lại được gắn trên bia. Vậy người đang nằm dưới nấm mồ kia là ai, bao nhiêu tuổi, quê quán ở đâu? Và thế là ít nhất, trong sự việc này, có hai con người đang trong nghịch cảnh éo le vô hạn.
=> Chuỗi sự việc được thuật kể một cách rõ ràng, chi tiết, tuần tự theo tiến trình thời gian, tạo nên một mạch truyện lô-gích, giúp người đọc hình dung rõ diễn biến câu chuyện một cách chân thực. Đi liền với nhận thức về tình cảnh éo le mà ông Trần Quyết Định đang gặp phải là cảm giác xót xa, đắng đót trước tình cảnh trớ trêu của một người lính bước ra từ chiến tranh. Hoá ra, sống sót sau trận chiến không phải là điều hoàn toàn may mắn. Những cắc cớ liền sau đó khiến người đọc nghĩ đến một dạng nỗi đau thời hậu chiến, một kiểu “nỗi buồn chiến tranh” (Bảo Ninh). Hẳn nhiên, càng xót xa trước tình cảnh của ông Định bao nhiêu, người đọc càng phẫn nộ trước sự quan liêu của cả một hệ thống cơ quan chính sách một thời bấy nhiêu. Tính chất quan liêu ấy đã đoạ đày những thân phận nhỏ bé như ông Định không phải một ngày, hai ngày, một năm, hai năm mà cả chục năm trời. Chiến tranh kết thúc nhưng cuộc chiến của con người với những cái xấu xa, ti tiện trong cuộc đời vẫn còn là một hành trình thật dài và gian nan.
+ Cảm xúc, suy nghĩ của nhân vật chính trước tình cảnh éo le của bản thân chủ yếu được tập trung thể hiện ở đoạn văn thứ hai, qua các chi tiết:
Những điều ong, tiếng ve đã khiến Định day dứt, đau khổ.; Anh rùng mình khi thấy ngôi mộ...; Một cảm giác lành lạnh sống lưng; lời cầu khấn: “Còn tôi, may mà cũng chẳng may. Hẳn như phải nằm yên dưới nơi lạnh lẽo bạn nằm, chắc bố mẹ, anh em và cả tôi nữa chẳng phải long đong, lặn lội hết nơi này đến nơi khác...”;... ⟶ Những câu văn trần thuật với các từ ngữ miêu tả trực tiếp cảm xúc của con người (day dứt, đau khổ, rùng mình, cảm giác lành lạnh sống lưng, may mà cũng không may...) đã tái hiện chân thực, rõ nét tâm trạng đau khổ xen nỗi oan ức, tủi cực, đi kèm nỗi bất lực,... của nhân vật Trần Quyết Định.
• Ông không chỉ cảm thương cho chính mình mà còn chia sẻ với người đồng đội đang nằm yên dưới nơi lạnh lẽo kia: “Bố mẹ gia đình bạn biết ở đâu mà tìm, dù chỉ là tìm đúng nắm xương của con mình đem về an táng nơi quê cha đất tổ...”. ⟶ Lời khấn chất chứa đầy trăn trở cùng nỗi xót xa cho tình cảnh éo le của cả hai người.
• Ông khấn xin người bạn vô danh “sống khôn, chết thiêng hãy phù hộ cho tôi tránh được mọi rủi ro, phiền toái trong việc làm thủ tục để được nhận là một người còn sống” ⟶ Có lẽ phía sau lời khấn này là nỗi ai oán, cám cảnh trước hiện thực trớ trêu mà mình đang phải đối diện: Có ai ngờ đâu việc may mắn sống sót sau trận chiến lại khiến ông cơ cực, bao năm ròng vào Nam ra Bắc để chứng minh mình còn sống, mình ngay thật thế này!
- Về hình thức
+ Đoạn trích là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa hư cấu và phi hư cấu.
• Tính chất phi hư cấu được thể hiện qua sự xác thực về con người, sự việc diễn ra gắn liền với nhân vật Trần Quyết Định, bối cảnh không gian, thời gian cụ thể,...
• Tính chất hư cấu được thể hiện đậm nét qua các chi tiết miêu tả cảm xúc, suy nghĩ, tâm trạng của nhân vật Trần Quyết Định.
+ Việc lựa chọn chi tiết, sắp xếp sự việc theo trình tự thời gian tuy ngắn gọn, cô đọng nhưng có sức gieo truyền trong người đọc nhiều ngẫm ngợi, nghĩ suy. Hiện thực đã tự lên tiếng buộc đọc giả phải thức dậy trong mình nhiều xúc cảm đồng điệu.
+ Sự đan xen giữa lời trần thuật trong đoạn trích với lời khấn cầu của nhân vật trước ngôi mộ mang tên mình khiến câu chuyện về Trần Quyết Định được tái hiện đầy cảm xúc.
* Đánh giá chung
- Đoạn trích ngắn gọn, văn phong giản dị, chân thật nhưng giàu xúc cảm đã dẫn dắt người đọc bước vào tác phẩm với một tâm thế háo hức chờ đợi những gì đang, sắp, sẽ còn xảy đến với nhân vật. Cảm giác sẵn sàng đồng hành cùng nhân vật trong hành trình hoàn thành “thủ tục để làm người còn sống” có lẽ xuất hiện ở hầu hết bạn đọc bởi chính đoạn mở đầu này.
- Đoạn trích nói riêng và tác phẩm nói chung góp vào dòng mạch văn học Việt Nam hiện đại một góc nhìn mới về nỗi đau của con người thời hậu chiến. Đoạn trích cũng đưa đến thông điệp rõ ràng: Làm thế nào để những con người nhỏ bé đã dành cả thanh xuân cho Tổ quốc, khi trở về được hạnh phúc trong cuộc sống bình yên?