I. ĐỌC HIỂU (4,0 điểm)
Đọc văn bản:
CAO HƠN SỰ THẬT

(1) Tuần trước, Nhật Bản tưởng niệm tròn 3 năm thảm họa kép động đất - sóng thần tàn phá vùng Đông Bắc của quốc gia này. Tôi giở lại tập sách ảnh, băng đĩa, tài liệu mà những đồng nghiệp Nhật chuyển cho, định trích một đoạn để đăng trên trang mạng cá nhân. Lật giở từng trang, tay chợt ngập ngừng và lòng chùng lại khi nhớ lời dặn của người phóng viên truyền hình ở Marioka, tỉnh Iwate. “Hầu hết hình ảnh trong này đều chưa từng công bố. Anh hãy hứa rằng chỉ dùng làm tư liệu, cho riêng anh. Xin anh đừng đăng lại, đừng phát tán chúng trên các phương tiện truyền thông, hay chỗ đông người”.
(2) Nhớ cách đây 3 năm, nhiều người thực sự ngạc nhiên khi xem cách báo chí, đặc biệt là các kênh truyền hình Nhật Bản đưa tin diễn tiến thảm họa động đất sóng thần. Có rất ít hình ảnh than khóc, bi thương được truyền đi.
(3) Thay vào đó là rất nhiều thông tin hướng dẫn tìm kiếm, những câu chuyện tình người. Người ta biết về thị trấn vùng vịnh Ofunato, Rikuzentakata có hàng ngàn người mất tích. Nhưng người ta còn biết về cây tùng ở Rikuzentakata kiên cường sống sót sau khi một vạt rừng ước chừng bảy vạn cây tùng cổ thụ bị sóng cuốn bật gốc. Biết về một cô gái làm công việc theo dõi và nhận tin về mực nước, sau đó đọc lại trên loa phóng thanh vẫn bám trụ trên một ngôi nhà cho đến phút cuối của đời mình để báo tin giúp mọi người sơ tán chứ không bỏ chạy. Khi đến trước ngôi nhà bị sóng thần cuốn chỉ còn lại khung bê tông, chúng tôi đã không thể cầm được nước mắt khi nghe mọi người kể câu chuyện về cô.
(4) Sự thật là điều mà con người luôn kiếm tìm. Nhưng dường như cuộc sống này còn có ít nhất một điều còn cao hơn sự thật là tình đồng loại. Ta là người, ta yêu đồng loại nên ta biết đồng cảm thay vì hiếu kì trước thảm họa. Ta là một phần của thế giới văn minh, vì ta biết cầu nguyện và tìm mọi cách sẻ chia, giúp đỡ, thay vì để lòng nghi kị, để thù hận che mờ cả khối óc lẫn trái tim. Một cá nhân đã nên thế, mà một quốc gia có trách nhiệm lại càng nên như vậy.
(5) Những ngày đầu tháng Ba có nhiều tin tức buồn về thảm họa hàng không trong khu vực Đông Nam Á. Chuyến bay từ thủ đô Malaysia đến thủ đô Trung Quốc mất tích một cách bí ẩn cùng với hơn hai trăm con người. Tin tức vô vọng thật buồn. Sự thật còn chưa được khám phá thật đáng thất vọng. Nhưng có điều gì đó còn cao hơn cả sự thất vọng. Đã có quá nhiều thông tin đáp ứng sự hiếu kì, và thật hiếm hoi những thông tin cho sự đồng cảm, những câu chuyện về thân phận con người, về những người mẹ mất con, người vợ mất chồng, những đôi lứa chia lìa vì thảm họa, những người cần an ủi và giúp đỡ. Đó không là sự thật đáng để ta “hiếu kì” sao?
(6) Thế giới mạng toàn cầu cuốn ta đi nhanh. Đôi khi bạn và tôi “hãy nghỉ tay một chút”. Dừng lại, để cầu nguyện cho đồng loại, thay vì tiếp tục cuốn đi và kêu gào thất vọng khi sự hiếu kì chưa được thỏa mãn.
(Theo Sống như cây rừng - Hà Nhân, NXB Văn học, 2016)
Thực hiện các yêu cầu:
Câu 1 [704918]: Văn bản đã kết hợp vận dụng các phương thức biểu đạt nào?
Văn bản đã kết hợp vận dụng các phương thức biểu đạt: tự sự, biểu cảm, nghị luận, miêu tả.
(Tự sự: Việc “tôi” nhớ lại lời dặn của người phóng viên truyền hình ở Marioka, tỉnh Iwate; việc báo chí, truyền hình Nhật Bản đưa tin diễn tiến thảm hoạ động đất sóng thần; chuyện cây tùng sống sót sau khi một vạt rừng bị sóng cuốn bật gốc; chuyện cô gái bám trụ trên ngôi nhà cho đến phút cuối để báo tin giúp mọi người sơ tán; chuyện về chuyến bay mất tích;...
Biểu cảm: lòng chùng lại khi nhớ lời dặn của người phóng viên truyền hình; chúng tôi đã không thể cầm được nước mắt khi nghe mọi người kể câu chuyện về cô; Ta là người, ta yêu đồng loại nên ta biết đồng cảm thay vì hiếu kì trước thảm họa.; Đó không là sự thật đáng để ta “hiếu kì” sao?; Tin tức vô vọng thật buồn. Sự thật còn chưa được khám phá thật đáng thất vọng.;...
Nghị luận: dường như cuộc sống này còn có ít nhất một điều còn cao hơn sự thật là tình đồng loại;
Miêu tả: Lật giở từng trang, tay chợt ngập ngừng;...)
Câu 2 [704919]: Theo văn bản, các kênh truyền thông Nhật Bản đã đưa tin diễn tiến thảm họa động đất sóng thần như thế nào?
Theo văn bản, các kênh truyền thông Nhật Bản đã đưa tin diễn tiến thảm họa động đất sóng thần theo cách:
- Có rất ít hình ảnh than khóc, bi thương được truyền đi.
- Thay vào đó là rất nhiều thông tin hướng dẫn tìm kiếm, những câu chuyện tình người.
Câu 3 [704920]: Chỉ ra tình cảm, thái độ của người viết được thể hiện trong đoạn (5).
Tình cảm, thái độ của người viết được thể hiện trong đoạn (5):
- Đau xót, băn khoăn, buồn, tuyệt vọng trước sự việc chuyến bay từ thủ đô Malaysia đến thủ đô Trung Quốc mất tích một cách bí ẩn cùng với hơn hai trăm con người; thất vọng bởi chưa tìm ra sự thật về vụ việc.
- Cảm giác cao hơn cả sự thất vọng - có lẽ là nỗi đau lòng, cảm giác đổ vỡ, mất niềm tin vào điều tốt đẹp - khi có quá nhiều người hiếu kì thay vì đồng cảm với nỗi đau của đồng loại.
Câu 4 [704921]: Nhận xét các dẫn chứng được nêu trong văn bản.
Các dẫn chứng được nêu trong văn bản: phong phú về số lượng, gồm đủ chuyện quá khứ (cách đây 3 năm) - hiện tại (những ngày đầu tháng Ba); chuyện cảm động (tình người ở Nhật Bản trong thảm hoạ động đất sóng thần) - chuyện đau lòng (sự hiếu kì đến vô cảm của con người trước vụ việc máy bay mất tích).
Câu 5 [704922]: Nêu một bài học mà anh/ chị nhận được từ bài viết.
Một bài học nhận được từ bài viết: Hãy biết đồng cảm với nỗi đau của nhân loại hoặc Trong hoàn cảnh đau thương, hãy gieo nhân, lan toả những điều tốt đẹp, tích cực để nỗi đau bị chìm lấp;...
II. VIẾT (6,0 điểm)
Câu 6 [704923]: (2,0 điểm)
Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/ chị về ý nghĩa của tình đồng loại.
Đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ về ý nghĩa của tình đồng loại có thể được triển khai theo hướng:
- Tình đồng loại là tình cảm dành cho nhau của các cá thể trong cùng một giống loài. Một cách bản năng, giống loài nào trong vũ trụ cũng có tình đồng loại. (Xem các thước phim về thế giới động vật trên truyền hình, mạng internet, chúng ta có thể kiểm chứng điều này...)
Tình đồng loại giữa người với người là tình cảm yêu thương tự nhiên giữa con người với nhau, không phân biệt quốc gia, sắc tộc, tôn giáo,...; được biểu hiện ở sự lắng nhận, thấu hiểu, cảm thông, chia sẻ,... với nhau trong mọi hoàn cảnh, đặc biệt ở những tình huống khó khăn, bất trắc (như thảm hoạ thiên tai, chiến tranh,...) Dẫn chứng: Quân đội Việt Nam tham gia hoạt động gìn giữ hoà bình Liên hợp quốc; triển khai Bệnh viện dã chiến cấp 2 số 1 với 63 cán bộ, nhân viên quân y cùng các trang, thiết bị y tế tại Phái bộ Nam Sudan; sự tương trợ, bao bọc lẫn nhau của nhân dân ta trong đại dịch Covid-19, trong cơn bão Yagi lịch sử;...
- Ý nghĩa của tình đồng loại:
+ Là đặc tính căn bản của con người: nhân tính, tính thiện (Nhân chi sơ, tính bản thiện), thể hiện tính người bản năng, tự nhiên;
+ Có giá trị kết nối, gắn kết người với người, tạo nên một cộng đồng nhân loại gắn bó, yêu thương nhau, có thể cùng nhau vượt qua mọi trở lực, bất trắc; góp phần củng cố niềm tin của con người vào sự sống, vào cuộc đời; góp phần tạo dựng một thế giới đại đồng, một sự sống tươi đẹp;...
Câu 7 [704924]: (4,0 điểm) Phân tích bài thơ sau: 
DÙ NĂM DÙ THÁNG
(Hoàng Phủ Ngọc Tường)
Anh hái cành phù dung trắng
Cho em niềm vui cầm tay
Màu hoa như màu ánh nắng
Buổi chiều chợt tím không hay
Nhìn hoa bâng khuâng anh nói:
- Mới thôi, mà đã một ngày

Ruộng cấy người trông cơn mưa
Ruộng gặt người trông cơn nắng
Chăm lo cánh đồng tình yêu
Anh đếm từng vầng trăng sáng
Thiết tha anh nói cùng trăng
- Mới thôi, đã tròn một tháng

Mùa xuân lên đồi cỏ thơm
Mùa hạ nhìn trời mây khói
Thu tím chân cầu tím núi
Đông xa ngày trắng mưa dầm
Nhìn trời ngẩn ngơ anh nói:
- Mới thôi, mà đã một năm

Rồi sẽ một ngày trắng tóc
Nhưng lòng anh vẫn khôn nguôi
Thời gian sao mà xuẩn ngốc
- Mới thôi, đã một đời người

Dù năm dù tháng em ơi
Tim anh chỉ đập một đời
Nhưng trái tim mang vĩnh cửu
Trong từng hạt máu đỏ tươi
(Theo Tuyển tập Thơ Việt Nam 1975 - 2000, tập 3, NXB Hội Nhà văn, 2001)
Bài văn phân tích bài thơ Dù năm dù tháng (Hoàng Phủ Ngọc Tường) có thể triển khai theo nhiều cách, song cần bảo đảm các ý chính:
* Giới thiệu khái quát tác giả, tác phẩm
- Hoàng Phủ Ngọc Tường:
+ Một trong những cây bút xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại.
+ Là cây bút tài hoa, có sở trường ở thể loại tuỳ bút nhưng cũng có nhiều thi phẩm đặc sắc, để lại dấu ấn trong lòng người đọc như: Chiều xuân, Một ngày bỗng nhớ một ngày, Tôi sẽ là mùa thu, Dù năm dù tháng,...
+ Thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường là vẻ đẹp của nỗi buồn hoài niệm, những day dứt triết học, từ sâu thẳm thời gian, sâu thẳm đất đai vọng lên trong tâm khảm người đọc. (Ngô Minh)
- Dù năm dù tháng: là một trong những thi phẩm đặc sắc của Hoàng Phủ Ngọc Tường:
+ Nhan đề bài thơ không chỉ gợi cảm nhận về thời gian mà còn có ý nghĩa khai mở những cảm xúc, suy tư trong nhân vật trữ tình phía sau đó.
+ Đề tài: tình yêu.
+ Nhân vật trữ tình: “anh” - một người đàn ông.
+ Thể thơ: sáu chữ như lời trò chuyện, tâm tình mộc mạc pha hơi hướng tự sự...
+ Bố cục: Có thể chia bài thơ thành hai phần (phần thứ nhất gồm bốn khổ đầu, phần thứ hai tương ứng với khổ cuối) hoặc chia bài thơ thành năm phần tương ứng với năm khổ.
* Phân tích bài thơ
- Bốn khổ đầu:
+ Khổ thứ nhất:
• Bài thơ bắt đầu bằng lời tường thuật: Anh hái cành phù dung trắng/ Cho em niềm vui cầm tay. Lời thơ xác lập rõ ràng chủ thể trữ tình - “anh”, hành động trao gửi yêu thương - hái cành phù dung trắng cho em, mục đích: trao niềm vui đến em, và hẳn nhiên “em” là nhân vật trong bài thơ, là chủ thể đón nhận tình yêu của “anh”.
Lời thơ giản dị, mộc mạc, không có mĩ từ. Tâm điểm của lời thơ có lẽ đặt trọn ở hình ảnh cành phù dung trắng. (Phù dung là một loài hoa đẹp nhưng mong manh, sớm nở tối tàn. Hoa phù dung còn có đặc điểm nổi bật đó là đổi màu trong ngày: sáng trắng - trưa hồng - chiều đỏ rực. Loài hoa này cũng gắn liền với một câu chuyện tình yêu đẹp nhưng buồn.) Trong bài thơ, hình ảnh hoa phù dung với sắc trắng tinh khôi sớm mai là tín hiệu thẩm mĩ chỉ báo một ngày mới bắt đầu. Đặt hình tượng trong cả bài thơ, hoa phù dung cũng chính là tín hiệu thẩm mĩ khởi đầu cho ngày thứ nhất, buổi đầu tiên của tình yêu giữa “anh” và “em”.
Hình ảnh hoa phù dung tiếp tục được miêu tả bởi hai màu sắc: màu ánh nắng trong trẻo, rạng ngời (có lẽ là sắc hoa ban trưa) và sắc tím mộng mơ khi chiều đến vừa gợi sự chuyển vần của thời gian, vừa khơi gợi rung cảm về cái đẹp. Sắc tím kết lại ngày một cách trọn vẹn gợi cảm nhận về tình yêu lãng mạn, thuỷ chung.
• Hai dòng cuối đoạn: Nhìn hoa bâng khuâng anh nói: - Mới thôi, mà đã một ngày. Lời thơ thể hiện sự cảm nhận bước đi của thời gian gắn liền với nỗi tiếc nuối. Từ láy bâng khuâng gợi cảm giác có phần chông chênh, hụt hẫng khi nhận ra thời gian trôi nhanh quá (mới thôi, mà đã...). Phải chăng, phía sau lời thơ là cảm niệm: Niềm vui, hạnh phúc mong manh thật, ngắn ngủi thật, chẳng tày gang?!
+ Khổ thứ hai:
• Khổ thơ thứ hai bắt đầu bằng chuyện - của - đời, hiển nhiên, như nhiên: Ruộng cấy người trông cơn mưa/ Ruộng gặt người trông cơn nắng. Phép đối kết hợp với cấu trúc điệp tạo nên tính liên hoàn, tô đậm quy luật muôn thuở: Người làm nông nào chẳng mong thiên thời địa lợi để hoa màu tươi tốt, mảy hạt sây bông! Quy luật tâm lí này trở thành đề dẫn, khai mở cho tâm tư của “anh” - người nông phu cần mẫn trên cánh đồng tình yêu.
• Các từ ngữ chăm lo, đếm từng, thiết tha (...) nói cùng thể hiện tình yêu tô đậm hình ảnh người đàn ông hạnh phúc đang cần mẫn, say sưa chăm chút cho hạnh phúc của mình. Hình ảnh ẩn dụ cánh đồng tình yêu, vầng trăng sáng, trăng gợi hình dung về thành quả đẹp đẽ của sự chăm chút ấy: một tình yêu lớn lao, dịu dàng, đằm thắm chứa chan mật ngọt, thi vị, lãng mạn tột cùng.
• Câu thơ: Mới thôi, đã tròn một tháng vừa tiếp tục đếm thời gian vừa thể hiện nhận thức về sự chảy trôi của thời gian. Nhưng khác với dòng kết của khổ thứ nhất, cách đếm thời gian ở dòng thơ này có lẽ đang lấp lánh niềm vui, niềm hạnh phúc của một trái tim yêu.
+ Khổ thứ ba:
• Xuất hiện đủ bốn mùa xuân hạ thu đông với đủ các hình ảnh đặc trưng cho mỗi mùa (đồi cỏ thơm, trời mây khói, chân cầu tím, núi tím; ngày trắng mưa dầm). Lời thơ gói trọn hành trình một năm với đủ mọi cung bậc cảm xúc: có mơn man, xao xuyến trước khi bước chân lên đồi cỏ thơm, có ngóng trông vời vợi khi nhìn trời mây khói, có nhớ thương vời vợi khi thu tím chân cầu tím núi, có buồn thương chất ngất khi ngày trắng mưa dầm,... Nghĩa là đong trọn bao buồn vui yêu nhớ thăng trầm trong dằng dặc năm dài.
• Khổ thơ tiếp tục kết lại bằng xúc cảm của nhân vật trữ tình khi nhận ra Mới thôi, mà đã một năm. Cảm thức về sự trôi chảy của thời gian tiếp tục trở lại và cũng trở lại cả nỗi tiếc nuối (Nhìn trời ngẩn ngơ anh nói). Hai chữ ngẩn ngơ miêu tả thật chân thực cảm nhận thời gian trôi chảy thực nhanh và nỗi niềm nuối tiếc, ngậm ngùi trong nhân vật trữ tình.
+ Khổ thứ tư:
• Khởi đầu bằng dòng thơ: Rồi sẽ một ngày trắng tóc. Câu thơ hướng đến thì tương lai, tức là ngày này, tính đến thời điểm này, vẫn chưa đến. Song, dù ngày chưa đến, “anh” vẫn đủ nhạy cảm để nhận ra lòng anh vẫn khôn nguôi. Một câu hỏi lập tức hiển hiện trong tâm trí người đọc: Điều gì trong lòng anh không nguôi? Hẳn nhiên, khổ thơ này chưa có câu trả lời.
• Khổ thơ khép lại bằng một lời mắng hóm hỉnh (Thời gian sao mà xuẩn ngốc) buộc người đọc tiếp tục đặt câu hỏi: Tại sao lại nói thời gian xuẩn ngốc? Và hệt như câu hỏi bên trên, câu hỏi này được đặt ra nhưng chưa thể tìm thấy câu trả lời. Hoàng Phủ Ngọc Tường không trả lời bạn đọc luôn ở khổ thơ này mà vẫn kết lại khổ thơ bằng lời thơ quen thuộc, tất nhiên, có thay đơn vị thời gian: Mới thôi, đã một đời người.
• Từ khổ thơ thứ nhất đến khổ thơ thứ tư là sự lặp lại, có biến đổi cấu trúc: Mới thôi, đã một + thời gian (ngày/ tháng/ năm/ đời người). Sự tăng cấp của đơn vị thời gian rõ ràng không chỉ để tạo nên một dòng thời gian từ khởi thuỷ đến tận cùng mà còn tô đậm cho nhận thức về sự chảy trôi chóng vánh của thời gian, gợi cảm niệm về sự ngắn ngủi của kiếp người. Trong cả kiếp đời đấy, ta thấy tình yêu như sợi chỉ đỏ được kéo xuyên qua. Tình yêu ấy làm cho cuộc đời thật đẹp nhưng bởi thế thật đáng tiếc, vì đời người ngắn ngủi quá!
=> Hoàng Phủ Ngọc Tường đem tình yêu bắt mối từ ngày đầu tiên và dệt hết cả cuộc đời để rồi sau cùng vẫn khôn nguôi day dứt: cuộc đời ấy, hạnh phúc ấy trôi đi nhanh quá!
- Khổ cuối
+ Lời thơ mang âm điệu của tiếng gọi, của khao khát tâm tình với người yêu tiếng nói tự đáy lòng: Dù năm dù tháng em ơi.
+ Ba dòng thơ cuối cùng là câu trả lời cho những băn khoăn của người đọc ở khổ thơ phía trước. Hoá ra, điều khôn nguôi trong lòng anh là tình yêu anh dành cho em, hoá ra thời gian kia, dù chảy trôi thật nhanh nhưng sẽ không bao giờ có thể nguôi tắt tình yêu anh dành cho em:
              Tim anh chỉ đập một đời
              Nhưng trái tim mang vĩnh cửu
              Trong từng hạt máu đỏ tươi
Các từ chỉ, từng hàm ý dành trọn, trọn vẹn tình yêu dành cho riêng “em” và đó là tình yêu vĩnh cửu, thuỷ chung, bất chấp ngày có trôi qua, tháng năm có trôi qua, thậm chí một đời người có lụi tắt.
+ Lời thơ mộc mạc, giản dị nhưng giọng thơ chân thành, mãnh liệt, bộc lộ tình yêu lớn lao, trọn vẹn, duy nhất, mãi mãi “anh” dành cho “em”.
=> Khổ thơ là vĩ thanh tuyệt diệu của tình yêu vĩnh cửu: Dù năm dù tháng, dù thời gian trôi chảy biến thiên, “anh” vẫn dành trọn tình yêu cho riêng “em”!
* Đánh giá chung
- Bài thơ ngắn gọn, dung dị nhưng thâm trầm, sâu sắc, thể hiện tình yêu thuỷ chung, bền chặt của nhân vật trữ tình “anh” dành cho người yêu.
- Bài thơ góp thêm một tiếng thơ độc đáo vào đề tài tình yêu trong sự song hành với thời gian.
       <*> Tham khảo bài viết:
MỘT VÀI SUY NGẪM VỀ THƠ HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG
(Mai Phương)
Tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường, sinh năm 1937 tại Huế, nhưng quê gốc Quảng Trị. Ông học Trung học ở Huế, Đại học Sư phạm Sài Gòn (1960), Đại học Văn khoa Huế (1964), rồi về dạy trường Quốc Học Huế (1960 - 1966). Những năm chống Mỹ ông lên chiến khu tham gia kháng chiến (1966 - 1975), hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực văn hóa, văn nghệ. Sau 1975 là Tổng thư kí Hội VHNT tỉnh Bình Trị Thiên, rồi Chủ tịch Hội VHNT tỉnh Bình Trị Thiên, Tổng biên tập Tạp chí văn nghệ Cửa Việt. Ông có quãng thời gian dài gắn bó với Huế, hiện định cư tại thành phố Hồ Chí Minh, ông được trao giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật (2007)...
Trong đời văn của mình, tài năng của Hoàng Phủ Ngọc Tường thể hiện rất đa dạng, song thành công nhất ở bút kí và thơ. Tác phẩm kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông” của ông được giảng dạy trong nhà trường nên bạn đọc thường chỉ biết Hoàng Phủ Ngọc Tường với tư cách là một người viết bút kí mà không nhiều người biết rằng ông cũng là một nhà thơ, thậm chí là một thi sĩ có tài. Tài thơ của Hoàng Phủ Ngọc Tường bậc nhất trong tập “Người hái phù dung”(1992).
Không phải ngẫu nhiên Hoàng Phủ Ngọc Tường lại chọn tên một loài hoa để đặt tên tập thơ của mình. Phù dung là loài “âm hoa” nó mang biểu tượng của của vẻ đẹp liêu trai, kiều mỵ, chóng tàn phai. Hoa phù dung vốn sớm nở tối tàn, vòng đời của hoa ngắn ngủi, tựa như cái mong manh của kiếp phù sinh. Cõi thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường bị ám ảnh bởi loài hoa mang sắc diện mỹ nhân này. Không ít hơn một lần, trong tập thơ của mình, Hoàng Phủ Ngọc Tường nhắc tới hoa phù dung: “Thôi em cảm tạ chờ mong/ Ngày anh đi hái phù dung chưa về” (Đêm qua) hay: “Anh hái cành phù dung trắng/ Cho em niềm vui cầm tay/ Màu hoa như màu ánh nắng/ Buổi chiều chợt tím không hay/ Cầm hoa bâng khuâng anh nói/ Mới thôi mà đã một ngày” (Dù năm dù tháng). ở đây cảm thức hiện sinh khá rõ ràng, có sự đồng hiện của hai dòng ý thức, một là dòng ý thức về sự chuyển dịch của thời gian vật lí, tuyến tính với các dấu hiệu sáng- chiều, ngày- tháng, mặt kia là dòng thời gian tâm tưởng, phi tuyến tính với đầy những dự cảm âu lo, mơ hồ về sự tồn tại ngắn ngủi của kiếp người, hạnh phúc.
Cũng có thể nói ý thức về mặt thời gian cũng chính là một thông điệp về sự trân quý mỗi phút giây tồn tại hiện hữu của cá thể trước sức tàn phá của thời gian. Sự biến hiện của sắc phù dung cũng tựa vòng quay hối hả của vòng đời, cũng như cái chợt đến chợt đi của hạnh phúc, khổ đau. Có đôi khi trong hạnh phúc, viên mãn đã mang mầm đổ vỡ, ly biệt. Hiểu được lẽ phù du của kiếp người, lẽ đời, thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường tìm đến nỗi buồn như một nơi trú ngụ của linh hồn: “Buồn từ dạo ấy chưa nguôi/ Ngoài kia sương khói đã trời sang thu/ Ta còn một chút phù du/ Hóa thành một kiếp đền bù cho em” (Xin người chút không). Nhưng nỗi buồn trong thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường không phải cái buồn vu vơ, không cơn cớ theo kiểu: “Hôm nay trời nhẹ lên cao/ Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn” (Xuân Diệu) mà cái buồn mang ý thức rõ ràng, cái buồn tự trong nguyên ủy. Và dường như nỗi buồn nào cũng thấp thoáng hình bóng một cuộc tình, một nỗi đau vì lẽ chia xa ly biệt: “Mai kia rồi cũng xa người/ Tôi về ngủ dưới khung trời cỏ hoa/ Có nàng xõa tóc tiên nga/ Quỳ hôn cát bụi khóc òa như mưa” (Về chơi với cỏ). Hình như trong nỗi buồn và cũng vì lưu luyến nợ ân tình với những giai nhân mà suốt đời mình thi sĩ họ Hoàng cảm thấy mình mắc nợ: “Nợ người một khối u sầu/ Tìm người tôi trả ngày sau luân hồi” (Về chơi với cỏ). Với Hoàng Phủ Ngọc Tường không chỉ người mang tới hạnh phúc ngọt cho ông mới là một món nợ mà ngay cả nỗi đau (một khối u sầu) cũng là một món nợ. Người thi sĩ đôi khi được yêu, được nhấm nháp, thấm thía nỗi buồn cũng là một cách cảm nhận sự tồn tại hiện hữu của mình, là cách định danh mình với thế giới. Và có lẽ trong thơ Việt chỉ có Hoàng thi sĩ mới hẹn kiếp sau xin trả nợ người tình như thế.
Thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường không chỉ có nỗi buồn mà có cả nỗi khát yêu, khát sống. Trong kí ức của mình, Hoàng Phủ Ngọc Tường từng có một thời tuổi trẻ sôi nổi, đầy những hoài bão lí tưởng. ông đã sống một đời mê mải, đắm say, nồng nhiệt, đến khi luống tuổi ông vẫn nhớ về thuở tráng niên với rất nhiều hào sảng: “Năm xưa thời tuổi trẻ ngang tàng/ Ta hát vang bài tình ca trong gió” (Ta lại hát như thời trai trẻ), hay: “Tháng năm tôi đi tới chân trời/ Thở bát ngát giữa đời lộng gió/Khi chân mỏi bên đường nắng nỏ/ Dưới cây kia tôi ngồi hát nghêu ngao” (Tôi biết nơi kia có một chỗ ngồi). Đọc thơ của thi sĩ xứ Huế với nỗi buồn đằm sâu da diết rất ít người có thể hình dung được người mang nỗi buồn chảy như “nước mắt từ ngày sơ sinh ấy” lại có một thời tuổi trẻ hào sảng đến vậy. Chỉ có thể lí giải được điều ấy bằng một lí do rằng trong đời mình thi sĩ họ Hoàng đã sống một đời tận hiến. Yêu quê hương, yêu lí tưởng của mình ông đã rời bỏ đô thành hoa lệ đi kháng chiến. Hòa bình lập lại, giã biệt đời chiến chinh, Hoàng Phủ Ngọc Tường lại dành trọn vẹn những năm tháng của đời mình cho những đam mê cũ. Trước sau với thi sĩ họ Hoàng người đọc vẫn thấy ở ông sự hăm hở nhiệt thành của một chàng sinh viên văn khoa thuở nào.
Trong cuộc hành trình cô đơn vào cõi sáng tạo, Hoàng Phủ Ngọc Tường may mắn có một người bạn đồng hành- nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ, người bạn đời chung thủy của ông. Cho nên nếu so sánh tình yêu của gã trai lúc “hát vang bài tình ca trong gió” với tình yêu của người thơ khi đã đi qua tuổi thất thập vẫn vẹn nguyên vẻ đắm say: “Những hành tinh ngẫm rồi thấy lạ/ Bồng bềnh mà vãn theo nhau/ Anh với em, ừ thì cũng lạ/ Bồng bềnh cho tới mai sau”. Câu thơ thi sĩ viết lúc đời đã vào thu vẫn thiết tha niềm vui sống, tin vào sự bất tử của sáng tạo: “Dù năm dù tháng em ơi/ Tim anh chỉ đập một đời/ Nhưng trái tim mang vĩnh cửu/ Trong từng giọt máu đỏ tươi”. Với thi sĩ con tim có thể ngừng đập, con người thịt da sinh vật có thể chết nhưng tâm hồn, tư tưởng, khát vọng nơi bản thể thì còn sống mãi. Nhớ về Hoàng Phủ Ngọc Tường khi viết những dòng này tôi vẫn nhớ những dòng thơ đầy kiêu bạc của ông: “Nửa chừng ngoảnh lại thiên thu/ Người phù du ta cũng phù du với người”.
(Theo Mai Phương, baoninhbinh.org.vn)