I. ĐỌC HIỂU (4,0 điểm)
Đọc đoạn trích:
“Thời gian gần đây, tình trạng học sinh, sinh viên hút thuốc lá điện tử có chiều hướng gia tăng, thậm chí tình trạng này còn xảy ra đối với học sinh tiểu học và ở cả học sinh nữ. Đã có nhiều trường hợp học sinh bị ngộ độc do sử dụng thuốc lá điện tử đến mức co giật, bị ảo giác phải nhập viện. Các chuyên gia y tế cảnh báo rằng, việc sử dụng thuốc lá điện tử ở lứa tuổi thanh, thiếu niên sẽ dẫn đến tình trạng nghiện thuốc lá, tăng nguy cơ mắc các căn bệnh nguy hiểm, phát sinh tệ nạn xã hội, ảnh hưởng đến sức khỏe, học tập và tương lai sau này của các em.
Thuốc lá điện tử ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của học sinh và những người xung quanh bởi thành phần nicotine (chất gây nghiện) trong khói thuốc, những người nghiện thuốc lá điện tử thường có nguy cơ nghiện rượu, ma tuý và các chất gây nghiện khác. Khi hút thuốc lá điện tử học sinh có thể mắc phải một số bệnh lí đường hô hấp như viêm tiểu phế quản tắc nghẽn, bệnh viêm phổi lipid, tràn khí màng phổi nguyên phát, suy giảm chức năng phổi, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính... do trong thuốc lá điện tử có rất nhiều hóa chất độc hại đối với sức khỏe con người. Ngoài ra, một số hóa chất độc hại như nicotine, carbon monoxide trong khói thuốc lá điện tử làm làm tăng nguy cơ rối loạn tim mạch, tăng nguy cơ hình thành huyết khối và xơ vữa động mạch, nhồi máu cơ tim, suy tim, đột quỵ. Nguy hiểm hơn là một số hợp chất có trong khói thuốc lá điện tử như: formaldehyd, acrolein, toluene, các kim loại nặng (như niken và chì) có thể gây các thay đổi tế bào dẫn đến ung thư. Khói từ thuốc lá điện tử cũng gây hại cho sức khỏe của những người xung quanh. Khi hít phải các chất độc hại như aldehydes, carbon monoxide... trong khói của thuốc lá điện tử sẽ có nguy cơ mắc ung thư và tăng nguy cơ tim mạch, đột quỵ.
Hiện nay, nhiều loại thuốc lá điện tử sử dụng các hương liệu tạo mùi thơm hấp dẫn (mùi bạc hà, cam, dâu tây, sô-cô-la, caramen...) nên nhiều học sinh bị ngộ độc khi sử dụng thuốc lá điện tử.
Một số học sinh có thể gặp phải tình trạng bị chấn thương, bỏng nghiêm trọng vùng miệng, mặt, cổ, mắt mũi, xương hàm... và các tai nạn khác, do cháy nổ từ thiết bị sạc điện bị lỗi hoặc sử dụng sai.
Hút thuốc lá điện tử sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển não bộ, khiến tế bào gốc của não bị hủy hoại, ảnh hưởng đến quá trình sản xuất và tái tạo tế bào cho cơ thể. Từ đó đẩy nhanh quá trình lão hóa, suy thoái hệ thần kinh và kéo theo nguy cơ suy giảm trí nhớ, khả năng nhận thức và học tập... Nếu hút thuốc lá điện tử trong thời gian dài sẽ gây nghiện và có thể gây ra những rối loạn nhận thức, rối loạn cảm xúc, rối loạn tâm thần. Học sinh sử dụng thuốc lá điện tử thường có biểu hiện giảm chú ý và tập trung, khả năng đưa ra quyết định kém, thay đổi tính cách và có nhiều hành động thất thường. Sử dụng thuốc lá điện tử còn là nguy cơ khiến học sinh gia nhập các băng nhóm thanh thiếu niên, gia tăng tình trạng cô lập và bắt nạt học đường, gây nhiều bất ổn trong trường học.”
Thực hiện các yêu cầu:
“Thời gian gần đây, tình trạng học sinh, sinh viên hút thuốc lá điện tử có chiều hướng gia tăng, thậm chí tình trạng này còn xảy ra đối với học sinh tiểu học và ở cả học sinh nữ. Đã có nhiều trường hợp học sinh bị ngộ độc do sử dụng thuốc lá điện tử đến mức co giật, bị ảo giác phải nhập viện. Các chuyên gia y tế cảnh báo rằng, việc sử dụng thuốc lá điện tử ở lứa tuổi thanh, thiếu niên sẽ dẫn đến tình trạng nghiện thuốc lá, tăng nguy cơ mắc các căn bệnh nguy hiểm, phát sinh tệ nạn xã hội, ảnh hưởng đến sức khỏe, học tập và tương lai sau này của các em.
Thuốc lá điện tử ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của học sinh và những người xung quanh bởi thành phần nicotine (chất gây nghiện) trong khói thuốc, những người nghiện thuốc lá điện tử thường có nguy cơ nghiện rượu, ma tuý và các chất gây nghiện khác. Khi hút thuốc lá điện tử học sinh có thể mắc phải một số bệnh lí đường hô hấp như viêm tiểu phế quản tắc nghẽn, bệnh viêm phổi lipid, tràn khí màng phổi nguyên phát, suy giảm chức năng phổi, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính... do trong thuốc lá điện tử có rất nhiều hóa chất độc hại đối với sức khỏe con người. Ngoài ra, một số hóa chất độc hại như nicotine, carbon monoxide trong khói thuốc lá điện tử làm làm tăng nguy cơ rối loạn tim mạch, tăng nguy cơ hình thành huyết khối và xơ vữa động mạch, nhồi máu cơ tim, suy tim, đột quỵ. Nguy hiểm hơn là một số hợp chất có trong khói thuốc lá điện tử như: formaldehyd, acrolein, toluene, các kim loại nặng (như niken và chì) có thể gây các thay đổi tế bào dẫn đến ung thư. Khói từ thuốc lá điện tử cũng gây hại cho sức khỏe của những người xung quanh. Khi hít phải các chất độc hại như aldehydes, carbon monoxide... trong khói của thuốc lá điện tử sẽ có nguy cơ mắc ung thư và tăng nguy cơ tim mạch, đột quỵ.
Hiện nay, nhiều loại thuốc lá điện tử sử dụng các hương liệu tạo mùi thơm hấp dẫn (mùi bạc hà, cam, dâu tây, sô-cô-la, caramen...) nên nhiều học sinh bị ngộ độc khi sử dụng thuốc lá điện tử.
Một số học sinh có thể gặp phải tình trạng bị chấn thương, bỏng nghiêm trọng vùng miệng, mặt, cổ, mắt mũi, xương hàm... và các tai nạn khác, do cháy nổ từ thiết bị sạc điện bị lỗi hoặc sử dụng sai.
Hút thuốc lá điện tử sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển não bộ, khiến tế bào gốc của não bị hủy hoại, ảnh hưởng đến quá trình sản xuất và tái tạo tế bào cho cơ thể. Từ đó đẩy nhanh quá trình lão hóa, suy thoái hệ thần kinh và kéo theo nguy cơ suy giảm trí nhớ, khả năng nhận thức và học tập... Nếu hút thuốc lá điện tử trong thời gian dài sẽ gây nghiện và có thể gây ra những rối loạn nhận thức, rối loạn cảm xúc, rối loạn tâm thần. Học sinh sử dụng thuốc lá điện tử thường có biểu hiện giảm chú ý và tập trung, khả năng đưa ra quyết định kém, thay đổi tính cách và có nhiều hành động thất thường. Sử dụng thuốc lá điện tử còn là nguy cơ khiến học sinh gia nhập các băng nhóm thanh thiếu niên, gia tăng tình trạng cô lập và bắt nạt học đường, gây nhiều bất ổn trong trường học.”
(Trích Tác hại của thuốc lá điện tử trong học đường - Trương Thạo, theo tapchigiaoduc.edu.vn)
Thực hiện các yêu cầu:
Câu 1 [704925]: Đoạn trích viết về vấn đề gì? Nêu bố cục của đoạn trích.
- Đoạn trích viết về tình trạng học sinh, sinh viên hút thuốc lá điện tử và những hệ luỵ đi kèm.
- Bố cục:
+ Phần thứ nhất (từ đầu đến tương lai sau này của các em): thực trạng và khái quát hậu quả của việc sử dụng thuốc lá điện tử ở lứa tuổi thanh, thiếu niên.
+ Phần thứ hai (còn lại): những tác hại nghiêm trọng của thuốc lá điện tử đến học sinh và những người xung quanh.
• Các thành phần trong thuốc lá điện tử ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khoẻ (Thuốc lá điện tử ảnh hưởng nghiêm trọng... tim mạch, đột quỵ)
• Mùi thơm của thuốc lá điện tử có thể khiến học sinh bị ngộ độc (Hiện nay, nhiều loại thuốc lá điện tử... khi sử dụng thuốc lá điện tử)
• Sạc điện bị lỗi hoặc sử dụng sai cách gây cháy nổ khiến học sinh có thể bị chấn thương, bỏng (Một số học sinh có thể... sử dụng sai)
• Ảnh hưởng của thuốc lá điện tử tới não bộ (Hút thuốc lá điện tử sẽ ảnh hưởng... trong trường học)
- Bố cục:
+ Phần thứ nhất (từ đầu đến tương lai sau này của các em): thực trạng và khái quát hậu quả của việc sử dụng thuốc lá điện tử ở lứa tuổi thanh, thiếu niên.
+ Phần thứ hai (còn lại): những tác hại nghiêm trọng của thuốc lá điện tử đến học sinh và những người xung quanh.
• Các thành phần trong thuốc lá điện tử ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khoẻ (Thuốc lá điện tử ảnh hưởng nghiêm trọng... tim mạch, đột quỵ)
• Mùi thơm của thuốc lá điện tử có thể khiến học sinh bị ngộ độc (Hiện nay, nhiều loại thuốc lá điện tử... khi sử dụng thuốc lá điện tử)
• Sạc điện bị lỗi hoặc sử dụng sai cách gây cháy nổ khiến học sinh có thể bị chấn thương, bỏng (Một số học sinh có thể... sử dụng sai)
• Ảnh hưởng của thuốc lá điện tử tới não bộ (Hút thuốc lá điện tử sẽ ảnh hưởng... trong trường học)
Câu 2 [704926]: Theo đoạn trích, nguyên nhân nào dẫn đến việc học sinh bị ngộ độc khi sử dụng thuốc lá điện tử?
Theo đoạn trích, việc học sinh bị ngộ độc khi sử dụng thuốc lá điện tử là do nhiều loại thuốc lá điện tử hiện nay sử dụng các hương liệu tạo mùi thơm hấp dẫn (mùi bạc hà, cam, dâu tây, sô-cô-la, caramen...).
Câu 3 [704927]: Nhận xét tỉ lệ các ý chính được triển khai trong đoạn trích.
Nhận xét tỉ lệ các ý chính được triển khai trong đoạn trích:
Đoạn trích gồm hai ý chính là thực trạng và tác hại của việc sử dụng thuốc lá điện tử. Trong đó, ý thứ hai (tác hại nghiêm trọng của thuốc lá điện tử đến học sinh và những người xung quanh) được triển khai nhiều hơn, chi tiết hơn. Tỉ lệ này nhằm nhấn mạnh vào những hậu quả ghê gớm của thuốc lá điện tử tới thanh thiếu niên.
Đoạn trích gồm hai ý chính là thực trạng và tác hại của việc sử dụng thuốc lá điện tử. Trong đó, ý thứ hai (tác hại nghiêm trọng của thuốc lá điện tử đến học sinh và những người xung quanh) được triển khai nhiều hơn, chi tiết hơn. Tỉ lệ này nhằm nhấn mạnh vào những hậu quả ghê gớm của thuốc lá điện tử tới thanh thiếu niên.
Câu 4 [704928]: Sử dụng thuốc lá điện tử còn là nguy cơ khiến học sinh gia nhập các băng nhóm thanh thiếu niên, gia tăng tình trạng cô lập và bắt nạt học đường, gây nhiều bất ổn trong trường học.
Chi tiết trên khiến anh/ chị hiểu điều gì về phạm vi ảnh hưởng của việc sử dụng thuốc lá điện tử ở học sinh?
Chi tiết trên khiến anh/ chị hiểu điều gì về phạm vi ảnh hưởng của việc sử dụng thuốc lá điện tử ở học sinh?
Chi tiết Sử dụng thuốc lá điện tử còn là nguy cơ khiến học sinh gia nhập các băng nhóm thanh thiếu niên, gia tăng tình trạng cô lập và bắt nạt học đường, gây nhiều bất ổn trong trường học. cho thấy việc sử dụng thuốc lá điện tử không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe cá nhân mà còn gây ra những hệ lụy xã hội nghiêm trọng, từ môi trường học đường cho đến môi trường xã hội đều nảy sinh các hành vi lệch lạc, tiêu cực. Từ đó gia tăng tình trạng bất ổn trong môi trường học đường nói riêng và xã hội nói chung.
Câu 5 [704929]: Nêu một bài học anh/ chị rút ra từ đoạn trích.
Một bài học rút ra từ đoạn trích:
- Nhận thức đúng đắn về tác hại nghiêm trọng của thuốc lá điện tử đối với sức khỏe và tương lai của bản thân cũng như đời sống xã hội.
Hoặc
- Cần nâng cao ý thức, tránh xa thuốc lá điện tử, tự bảo vệ sức khỏe bản thân nhằm góp phần xây dựng môi trường học đường lành mạnh.
Hoặc
- Gia đình, nhà trường và xã hội cần phối hợp chặt chẽ trong việc tuyên truyền, giáo dục, và quản lí để ngăn chặn tình trạng sử dụng thuốc lá điện tử ở học sinh.
- Nhận thức đúng đắn về tác hại nghiêm trọng của thuốc lá điện tử đối với sức khỏe và tương lai của bản thân cũng như đời sống xã hội.
Hoặc
- Cần nâng cao ý thức, tránh xa thuốc lá điện tử, tự bảo vệ sức khỏe bản thân nhằm góp phần xây dựng môi trường học đường lành mạnh.
Hoặc
- Gia đình, nhà trường và xã hội cần phối hợp chặt chẽ trong việc tuyên truyền, giáo dục, và quản lí để ngăn chặn tình trạng sử dụng thuốc lá điện tử ở học sinh.
II. VIẾT (6,0 điểm)
Câu 6 [704930]: (2,0 điểm)
Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về giải pháp ngăn chặn thuốc lá điện tử trong các nhà trường hiện nay.
Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về giải pháp ngăn chặn thuốc lá điện tử trong các nhà trường hiện nay.
Đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ về giải pháp ngăn chặn thuốc lá điện tử trong các nhà trường hiện nay có thể được triển khai theo hướng:
- Từ 2025, Việt Nam cấm toàn diện thuốc lá điện tử và thuốc lá nung nóng. Tuy nhiên, hiện nay nước ta vẫn chưa có quy định cụ thể về xử phạt hành vi sử dụng thuốc lá điện tử và thuốc lá nung nóng. Điều này dẫn đến thực tế: Rất nhiều người, đặc biệt là giới trẻ, trong đó có học sinh, sinh viên vẫn sử dụng thuốc lá điện tử. Theo đó, trong thời gian chờ đợi có các chế tài hướng dẫn việc xử phạt hành vi sử dụng thuốc lá điện tử, trách nhiệm ngăn chặn thuốc lá điện tử vẫn thuộc về mỗi gia đình và mỗi nhà trường.
- Các nhà trường nên:
+ Tăng cường hơn nữa công tác tuyên truyền, giáo dục tới người học tác hại của thuốc lá điện tử để người học nhận thức sâu sắc những tác hại nghiêm trọng, những hậu quả khôn lường của thuốc lá điện tử.
+ Phối kết hợp các cá nhân, các tổ chức đoàn thể trong nhà trường (giáo viên chủ nhiệm, Đoàn Thanh niên, Câu lạc bộ,...) tạo ra sân chơi lành mạnh, bổ ích cho các bạn trẻ (thành lập các câu lạc bộ văn nghệ, thể thao, đọc sách, tranh biện,...); phối hợp giữa Nhà trường, gia đình và các cơ quan chức năng (công an địa phương,...) để kịp thời chấn chỉnh, xử lí hợp lí các hành vi vi phạm như buôn bán, tàng trữ, sử dụng thuốc lá điện tử ở người trẻ;...
- Từ 2025, Việt Nam cấm toàn diện thuốc lá điện tử và thuốc lá nung nóng. Tuy nhiên, hiện nay nước ta vẫn chưa có quy định cụ thể về xử phạt hành vi sử dụng thuốc lá điện tử và thuốc lá nung nóng. Điều này dẫn đến thực tế: Rất nhiều người, đặc biệt là giới trẻ, trong đó có học sinh, sinh viên vẫn sử dụng thuốc lá điện tử. Theo đó, trong thời gian chờ đợi có các chế tài hướng dẫn việc xử phạt hành vi sử dụng thuốc lá điện tử, trách nhiệm ngăn chặn thuốc lá điện tử vẫn thuộc về mỗi gia đình và mỗi nhà trường.
- Các nhà trường nên:
+ Tăng cường hơn nữa công tác tuyên truyền, giáo dục tới người học tác hại của thuốc lá điện tử để người học nhận thức sâu sắc những tác hại nghiêm trọng, những hậu quả khôn lường của thuốc lá điện tử.
+ Phối kết hợp các cá nhân, các tổ chức đoàn thể trong nhà trường (giáo viên chủ nhiệm, Đoàn Thanh niên, Câu lạc bộ,...) tạo ra sân chơi lành mạnh, bổ ích cho các bạn trẻ (thành lập các câu lạc bộ văn nghệ, thể thao, đọc sách, tranh biện,...); phối hợp giữa Nhà trường, gia đình và các cơ quan chức năng (công an địa phương,...) để kịp thời chấn chỉnh, xử lí hợp lí các hành vi vi phạm như buôn bán, tàng trữ, sử dụng thuốc lá điện tử ở người trẻ;...
Câu 7 [704931]: (4,0 điểm)
Viết bài văn (khoảng 600 chữ) cảm nhận của anh/chị về thông điệp của bài thơ sau:
Niềm sum họp đã vào từng cánh cửa
Sao nàng còn đứng trong mưa, trong gió
Cô đơn giữa mây trời?
- Thế để đâu những lời
Ta đã hẹn với người ta thương nhớ?
- Người ấy chẳng bao giờ về nữa
Mấy nghìn năm ngắn ngủi lắm sao
Đất nước qua trăm trận binh đao
Lở bồi, dâu bể.
- Người đời biết thân ta hóa đá
Nhưng hay đâu ta hóa đá niềm tin
Hóa đá nỗi cô đơn
Và thời gian chờ đợi.
- Nhưng nàng chẳng thể nào đợi nổi
Ngày người ấy trở về
Thân thể đã biến thành tro bụi
Còn nhớ được sao câu hẹn, lời thề?
- Người ta thương không thể trở về
Chẳng ai hiểu bằng ta điều đó
Chẳng ai hiểu bằng ta nỗi khổ
Của người vợ chờ chồng.
Ta hóa đá đợi triệu lần nỗi đợi
Để những người vợ muôn đời thoát khỏi cảnh chờ trông!
Viết bài văn (khoảng 600 chữ) cảm nhận của anh/chị về thông điệp của bài thơ sau:
TRÒ CHUYỆN VỚI NÀNG VỌNG PHU
(Vương Trọng)
- Về thôi nàng ơiNiềm sum họp đã vào từng cánh cửa
Sao nàng còn đứng trong mưa, trong gió
Cô đơn giữa mây trời?
- Thế để đâu những lời
Ta đã hẹn với người ta thương nhớ?
- Người ấy chẳng bao giờ về nữa
Mấy nghìn năm ngắn ngủi lắm sao
Đất nước qua trăm trận binh đao
Lở bồi, dâu bể.
- Người đời biết thân ta hóa đá
Nhưng hay đâu ta hóa đá niềm tin
Hóa đá nỗi cô đơn
Và thời gian chờ đợi.
- Nhưng nàng chẳng thể nào đợi nổi
Ngày người ấy trở về
Thân thể đã biến thành tro bụi
Còn nhớ được sao câu hẹn, lời thề?
- Người ta thương không thể trở về
Chẳng ai hiểu bằng ta điều đó
Chẳng ai hiểu bằng ta nỗi khổ
Của người vợ chờ chồng.
Ta hóa đá đợi triệu lần nỗi đợi
Để những người vợ muôn đời thoát khỏi cảnh chờ trông!
(Theo Tuyển tập Thơ Việt Nam 1975 - 2000, tập 3, NXB Hội Nhà văn, 2001)
Bài văn cảm nhận của anh/chị về thông điệp của bài thơ Trò chuyện với nàng Vọng Phu (Vương Trọng) có thể triển khai theo nhiều cách, song cần bảo đảm các ý chính:
* Giới thiệu khái quát tác giả, tác phẩm
- Vương Trọng:
+ Là một trong những nhà thơ quân đội tiêu biểu, vốn xuất thân từ một giáo viên dạy Toán tài hoa.
+ Thơ Vương Trọng đa dạng về đề tài và tình yêu dành cho con người luôn rộng mở và giàu suy tư (Khóc giữa chiêm bao, Chị dâu, Bên mộ cụ Nguyễn Du, Với đứa con ngoài giá thú, Hai chị em, Trò chuyện với nàng Vọng Phu,...).
- Trò chuyện với nàng Vọng Phu:
+ Chủ đề: nỗi thương cảm với những người đàn bà bất hạnh trong tình yêu, hạnh phúc.
+ Nhân vật trữ tình: tác giả.
+ Nhân vật trong bài thơ: nàng Vọng Phu. Vọng Phu: nhân vật gắn liền với một tích truyện cổ nàng Vọng Phu (nàng Tô Thị) hoá đá chờ chồng.
+ Cảm hứng chủ đạo: Xót thương, đồng cảm, ngợi ca vẻ đẹp trung trinh, đức hi sinh cao cả của những người phụ nữ trong hoàn cảnh éo le.
+ Thể thơ: tự do, giúp người viết bộc lộ phóng khoáng tình cảm, cảm xúc của mình.
+ Kết cấu: hình thức đối đáp (thường xuất hiện nhiều trong ca dao, đặc biệt là ca dao giao duyên), giúp các nhân vật trong bài thơ dễ dàng phơi trải, bộc lộ tình cảm, cảm xúc, suy tư.
+ Bố cục: chia thành ba nhịp hỏi - đáp.
* Phân tích bài thơ
- Nhịp hỏi đáp thứ nhất
+ Trước tượng đá Vọng Phu, nhân vật trữ tình đã cất lời khuyên rủ nàng: Về thôi nàng ơi/ Niềm sum họp đã vào từng cánh cửa. Lời khuyên rủ vang lên với âm điệu chân thành, thành thực, gắn liền với bối cảnh sum họp sau khi chiến tranh, binh lửa đã tàn. Lời thơ nhắc ta nhớ đến đoạn truyện nàng Tô Thị bồng con ngóng chồng đi lính trở về trong tích truyện xưa (liên hệ: hình tượng người chinh phụ có chồng đi chiến trận trong Chinh phụ ngâm khúc, nguyên tác Đặng Trần Côn, bản diễn Nôm Đoàn Thị Điểm). Giọng thơ thân tình, mộc mạc nhưng ấm áp thương yêu.
Tiếp nối lời khuyên là câu hỏi: Sao nàng còn đứng trong mưa, trong gió/ Cô đơn giữa mây trời? Câu hỏi hẳn nhiên không nhằm mục đích tìm kiếm câu trả lời mà hướng đến bộc lộ nỗi thương cảm, xót xa trước hình ảnh đứng trong mưa, trong gió của người vợ đáng thương. Và nếu hình ảnh nàng Vọng Phu đứng trong mưa gió là ngoại cảnh thì tâm trạng, nỗi lòng của nàng được nhà thơ thể hiện qua từ cô đơn. Cô đơn lúc này với Vọng Phu không chỉ là một mình mà còn là mòn mỏi chờ trông trong vô vọng và tình cảnh ấy chẳng ai có thể sẻ chia với nàng được.
+ Đáp lại lời khuyên hỏi ân cần của nhân vật trữ tình - người đàn ông đa cảm - là một câu hỏi của Vọng Phu trả lời: Thế để đâu những lời/ Ta đã hẹn với người ta thương nhớ? Lời hỏi không nhằm mục đích tìm kiếm câu trả lời mà ngầm ý khẳng định lòng trung trinh trọn vẹn nàng dành cho chồng yêu thương của mình. Lời hẹn đợi chờ như lời thề với non nước thể hiện sự kiên định của người đàn bà chung thuỷ.
- Nhịp hỏi đáp thứ hai
+ Người đàn ông, có lẽ để thuyết phục nàng Vọng Phu, buộc phải đành lòng nói thật - sự thật nghiệt ngã, đớn đau: Người ấy chẳng bao giờ về nữa. Ba chữ chẳng bao giờ như một lưỡi dao mác chắc đanh, sắc lẹm chặt đứt hi vọng, trông chờ của Vọng Phu. Và như không cam lòng trước sự chờ trông mỏi mòn, vô vọng của nàng, nhân vật trữ tình tiếp tục bộc lộ nỗi xót xa: Mấy nghìn năm ngắn ngủi lắm sao. Nghìn năm, hàng chục thế kỉ đằng đẵng nàng đã đứng đó, có khi nào nàng biết mình đã chôn chân chờ đợi chồng hàng chục kiếp đời? Có khi nào nàng biết trận chiến chồng nàng đăng lính đã kết thúc, thậm chí đã chôn vùi vào quên lãng và phía sau nó còn là biết bao trận chiến khác? Hiện thực phũ phàng được nhân vật trữ tình nói thẳng, hòng buộc nàng phải đối diện với sự thực trần trụi, nghiệt ngã mà kết thúc sự ngóng trông: Đất nước qua trăm trận binh đao/ Lở bồi, dâu bể.
+ Đáp lại lời nhân vật trữ tình, Vọng Phu cũng thẳng thắn trải lòng. Lời trần tình của nàng khiến tất cả chúng ta ngỡ ngàng: Người đời chỉ thấy nàng hoá đá chờ trông chồng trở về để rồi thấy thương khổ thay cho nàng. Chẳng ai biết, nàng đã hóa đá niềm tin,/ Hóa đá nỗi cô đơn/ Và thời gian chờ đợi. Động từ hoá đá đi liền ngay sau đại từ ta biến lời thơ trở thành câu chủ động. Nàng Vọng Phu đã chủ động để tất cả ngưng đọng thành các giá trị vĩnh cửu: niềm tin sắt đá chồng sẽ trở về, nỗi cô đơn của người đàn bà trung trinh chờ đợi. Và tất cả, dẫu buồn, chợt nhiên trở nên đẹp lộng lẫy, ngời sáng tấm lòng son sắt nơi người phụ nữ tuyệt vời.
- Nhịp hỏi đáp thứ ba
+ Nhân vật trữ tình vẫn cố gắng thuyết phục nàng. Lần này, lí do được viện dẫn để động viên nàng Vọng Phu về thôi còn nghiệt ngã gấp bội phần so với nhịp hỏi trước: Thân thể đã biến thành tro bụi/ Còn nhớ được sao câu hẹn, lời thề?. Nghĩa là: Chồng của nàng sẽ không bao giờ trở về đâu. Chàng ấy đã chết, thân thể đã tan thành tro bụi và người chết thì sao nhớ được lời hẹn thề mà trở về? Hỏi đấy mà là khẳng định mất rồi!
Với bất kì người đàn bà nào, mất đi người mình yêu thương cũng là mất mát lớn nhất và nỗi đau ấy không gì có thể khoả lấp. Nỗi đau ấy đủ lớn để họ không thể hi vọng, mong chờ điều gì nữa.
+ Song, đáp lại lời nhân vật trữ tình là thái độ hết sức bình thản của Vọng Phu: Người ta thương không thể trở về/ Chẳng ai hiểu bằng ta điều đó/ Chẳng ai hiểu bằng ta nỗi khổ/ Của người vợ chờ chồng. Hoá ra, hơn ai hết, nàng biết chồng không trở về nhưng nàng vẫn kiên trinh đứng đợi, vẫn để nỗi đau khổ thấm tháp vào nàng mỗi giây khắc, mỗi ngày giờ. Điệp khúc chẳng ai hiểu bằng ta trở đi trở lại tiếp tục gọi tên nỗi cô đơn, trống trải không gì có thể khuây khoả, không ai có thể sẻ chia trong nàng.
Nhưng, thật tuyệt vời khi sau cùng, Vọng Phu cũng nói ra lí do sâu xa nhất khiến nàng nhất định không chịu trở về: Ta hóa đá đợi triệu lần nỗi đợi/ Để những người vợ muôn đời thoát khỏi cảnh chờ trông. Số từ triệu mang tính ước lệ, hàm chỉ số nhiều, thậm chí hết thảy. Triệu lần nỗi đợi dường như gom trong đó tất cả những mong chờ, ngóng trông mòn mỏi, vô vọng của hết thảy những người đàn bà khốn khổ như nàng. Vọng Phu chủ động thâu trọn tất cả về mình, về riêng mình, để hết thảy những người đàn bà, những người vợ không ai phải khổ đau như nàng nữa. Hai dòng thơ kết khiến tứ thơ vút lên thật đẹp, biến hình tượng Vọng Phu hoá thánh lộng lẫy bởi lòng vị tha, đức hi sinh cao cả tuyệt vời.
* Đánh giá chung
- Bài thơ với kết cấu đối đáp gồm ba nhịp tăng cấp về nội dung biểu đạt và cảm xúc; ngôn ngữ giản dị, giàu hình ảnh, giàu sức gợi cảm; giọng điệu chân thành, chan chứa tình cảm; đặc biệt, yếu tố hư cấu được khéo léo vận dụng vào bài thơ;... tất cả dẫn dắt người đọc đi đến một cách lí giải độc đáo về hình tượng nàng Vọng Phu nói riêng và về tình yêu thuỷ chung, đức vị tha, hi sinh cao cả của hết thảy những người phụ nữ trong cuộc đời.
- Bài thơ mang đến một thông điệp đậm chất nhân văn: Hãy làm thế nào để thế gian này chẳng còn những nàng Vọng Phu như trong truyện cổ! Hãy yêu thương nhiều hơn những người phụ nữ, bởi sau tất cả những trắc trở, chông chênh, họ luôn là những người chịu thiệt thòi nhiều nhất, có thể như cách nhà thơ Phan Thị Thanh Nhàn đã làm trong bài thơ Với nàng Tô Thị:
- Con đừng làm em khóc, kẻo cha về đánh chết nghe không!
Thằng anh đưa em ra sân cùng em trồng đá bẻ cây làm nhà làm cửa chơi với bạn bè quanh xóm. Chơi chán, anh đưa em vào nhà rồi tìm dao chặt mía. Không ngờ khi nó vừa giơ dao lên chặt, thì luỡi dao sút cán văng vào đầu em. Cô bé ngã quay ra bất tỉnh nhân sự, máu đỏ lênh láng cà một vạt đất. Thấy thế thằng anh rất sợ, nghĩ bụng: - “Tội ta to lắm. Cha về đánh chết mất!”. Thế rồi, anh bỏ em nằm sóng sượt ở giữa nhà mà trốn đi.
Cậu bé đi, đi mãi. Trên bước đường lưu lạc, hắn ở nhà này ít lâu rồi bỏ đi đánh bạn với nhà khác. Trong hơn mười lăm năm, hắn không biết mình dã đi những xứ nào, ăn cơm của bao nhiêu nhà. Cho đến lần cuối cùng, làm con nuôi một người đánh cá ở miền biển vùng Bình Định. Nghề chài lưới giữ chân hắn lại ở đây.
Ngày lại ngày nối nhau trôi qua. Rồi hắn kết duyên cùng một người đàn bà. Vợ hắn cũng thạo nghề đan lưới. Mỗi lúc thuyền của chồng về bãi, vợ nhận lấy phần cá của chồng, quảy ra chợ bán. Sau hai năm có được mụn con, hai vợ chồng cảm thấy sung sướng vô hạn.
Hôm ấy biển động, chồng nghỉ ở nhà vá lưới. Cơm trưa xong, vợ xoã tóc nhờ chồng bắt chấy. Đứa con đi chập chững trước sân nhà, bốc cát chơi một mình. Thấy vợ có một cái sẹo bằng đồng tiền ở trên tai bên phải, chồng lấy làm ngạc nhiên vì mấy lâu mái tóc đen của vợ đã hữu ý che kín cái sẹo không cho một người nào biết, trong số đó có cả chồng. Anh liền hỏi về lai lịch chiếc sẹo. Vợ vui miệng kể:
- Ngày đó cách đây hơn hai mươi năm, tôi mới bằng một tí đã biết gì đâu. Anh ruột của tôi chặt mía. Chao ôi! Cái mũi mác tai hại. Tôi ngất di. Sau này, tôi mới biết, lúc đó hàng xóm đã đổ tới cứu chữa rất lâu cho đến khi cha mẹ tôi về thì mới chạy tìm thầy tìm thuốc. May làm sao tôi vẫn sống để nhìn lại cha mẹ tôi. Nhưng tôi lại mất người anh ruột vì anh tôi sợ quá bỏ trốn. Cha mẹ tôi cố ý tìm tòi nhưng tuyệt không có tin gì. Rồi đó, cha mẹ tôi thương con buồn rầu quá, thành ra mang bệnh, kế tiếp nhau qua đời. Về phần tôi không có người nương tựa, lại bị người ta lập mưu cướp hết của cải và đem tôi đi bán cho thuyền buôn. Tôi không ở yên một nơi nào; nay đây mai đó, cuối cùng đên đây gặp anh...
Sau lưng người vợ, nét mặt của chồng từng lúc mỗi biến sắc khi biết là lấy nhầm phải em ruột. Lòng người chồng càng bị vò xé vì tin cha mẹ, tin quê quán do vợ nói ra. Nhưng chồng vẫn cố ngăn cảm xúc của mình, gói kín sự bí mật đau lòng đó lại, không cho vợ biết.
Qua mấy ngày sau, sóng gió yên lặng. Nhưng lòng người đàn ông thì không thể nào yên lặng được nữa. Như thường lệ, hắn lại chở lưới ra biển để đánh cá. Nhưng lần này một đi không bao giờ trở lại.
Người vợ ở nhà trông đợi chồng ngày một mỏi mòn. Tại sao sau khi đánh cá xong, giữa lúc đêm tối, mọi người đều cho thuyền trở về đất liền, thì chồng mình lại dong buồm đi biệt. Mà chồng mình là người chí thú làm ăn và rất thương con mến vợ. Thật là khó hiểu. Mỗi chiều, nàng lại bồng con trèo lên hòn núi ở cửa biển, con mắt đăm đăm nhìn về phía chân trời mù mịt.
Ba tuần trăng qua. Rồi sáu... rồi chín tuần trăng. Tuy nước mắt bấy giờ đá khô kiệt, nhưng người đàn bà vẫn không quên trèo núi trông chồng. Cái hình bóng ấy đối với dân làng thành ra quen thuộc. Về sau cả hai mẹ con đều hóa ra đá, trở thành hình bóng quen thuộc vĩnh viễn.
Hòn đá ấy ngày nay vẫn còn trên đinh núi ở bên của biển Đề Di, thuộc huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định. Người ta vẫn gọi là đá Trông Chồng hay là đá Vọng Phu .
* Giới thiệu khái quát tác giả, tác phẩm
- Vương Trọng:
+ Là một trong những nhà thơ quân đội tiêu biểu, vốn xuất thân từ một giáo viên dạy Toán tài hoa.
+ Thơ Vương Trọng đa dạng về đề tài và tình yêu dành cho con người luôn rộng mở và giàu suy tư (Khóc giữa chiêm bao, Chị dâu, Bên mộ cụ Nguyễn Du, Với đứa con ngoài giá thú, Hai chị em, Trò chuyện với nàng Vọng Phu,...).
- Trò chuyện với nàng Vọng Phu:
+ Chủ đề: nỗi thương cảm với những người đàn bà bất hạnh trong tình yêu, hạnh phúc.
+ Nhân vật trữ tình: tác giả.
+ Nhân vật trong bài thơ: nàng Vọng Phu. Vọng Phu: nhân vật gắn liền với một tích truyện cổ nàng Vọng Phu (nàng Tô Thị) hoá đá chờ chồng.
+ Cảm hứng chủ đạo: Xót thương, đồng cảm, ngợi ca vẻ đẹp trung trinh, đức hi sinh cao cả của những người phụ nữ trong hoàn cảnh éo le.
+ Thể thơ: tự do, giúp người viết bộc lộ phóng khoáng tình cảm, cảm xúc của mình.
+ Kết cấu: hình thức đối đáp (thường xuất hiện nhiều trong ca dao, đặc biệt là ca dao giao duyên), giúp các nhân vật trong bài thơ dễ dàng phơi trải, bộc lộ tình cảm, cảm xúc, suy tư.
+ Bố cục: chia thành ba nhịp hỏi - đáp.
* Phân tích bài thơ
- Nhịp hỏi đáp thứ nhất
+ Trước tượng đá Vọng Phu, nhân vật trữ tình đã cất lời khuyên rủ nàng: Về thôi nàng ơi/ Niềm sum họp đã vào từng cánh cửa. Lời khuyên rủ vang lên với âm điệu chân thành, thành thực, gắn liền với bối cảnh sum họp sau khi chiến tranh, binh lửa đã tàn. Lời thơ nhắc ta nhớ đến đoạn truyện nàng Tô Thị bồng con ngóng chồng đi lính trở về trong tích truyện xưa (liên hệ: hình tượng người chinh phụ có chồng đi chiến trận trong Chinh phụ ngâm khúc, nguyên tác Đặng Trần Côn, bản diễn Nôm Đoàn Thị Điểm). Giọng thơ thân tình, mộc mạc nhưng ấm áp thương yêu.
Tiếp nối lời khuyên là câu hỏi: Sao nàng còn đứng trong mưa, trong gió/ Cô đơn giữa mây trời? Câu hỏi hẳn nhiên không nhằm mục đích tìm kiếm câu trả lời mà hướng đến bộc lộ nỗi thương cảm, xót xa trước hình ảnh đứng trong mưa, trong gió của người vợ đáng thương. Và nếu hình ảnh nàng Vọng Phu đứng trong mưa gió là ngoại cảnh thì tâm trạng, nỗi lòng của nàng được nhà thơ thể hiện qua từ cô đơn. Cô đơn lúc này với Vọng Phu không chỉ là một mình mà còn là mòn mỏi chờ trông trong vô vọng và tình cảnh ấy chẳng ai có thể sẻ chia với nàng được.
+ Đáp lại lời khuyên hỏi ân cần của nhân vật trữ tình - người đàn ông đa cảm - là một câu hỏi của Vọng Phu trả lời: Thế để đâu những lời/ Ta đã hẹn với người ta thương nhớ? Lời hỏi không nhằm mục đích tìm kiếm câu trả lời mà ngầm ý khẳng định lòng trung trinh trọn vẹn nàng dành cho chồng yêu thương của mình. Lời hẹn đợi chờ như lời thề với non nước thể hiện sự kiên định của người đàn bà chung thuỷ.
- Nhịp hỏi đáp thứ hai
+ Người đàn ông, có lẽ để thuyết phục nàng Vọng Phu, buộc phải đành lòng nói thật - sự thật nghiệt ngã, đớn đau: Người ấy chẳng bao giờ về nữa. Ba chữ chẳng bao giờ như một lưỡi dao mác chắc đanh, sắc lẹm chặt đứt hi vọng, trông chờ của Vọng Phu. Và như không cam lòng trước sự chờ trông mỏi mòn, vô vọng của nàng, nhân vật trữ tình tiếp tục bộc lộ nỗi xót xa: Mấy nghìn năm ngắn ngủi lắm sao. Nghìn năm, hàng chục thế kỉ đằng đẵng nàng đã đứng đó, có khi nào nàng biết mình đã chôn chân chờ đợi chồng hàng chục kiếp đời? Có khi nào nàng biết trận chiến chồng nàng đăng lính đã kết thúc, thậm chí đã chôn vùi vào quên lãng và phía sau nó còn là biết bao trận chiến khác? Hiện thực phũ phàng được nhân vật trữ tình nói thẳng, hòng buộc nàng phải đối diện với sự thực trần trụi, nghiệt ngã mà kết thúc sự ngóng trông: Đất nước qua trăm trận binh đao/ Lở bồi, dâu bể.
+ Đáp lại lời nhân vật trữ tình, Vọng Phu cũng thẳng thắn trải lòng. Lời trần tình của nàng khiến tất cả chúng ta ngỡ ngàng: Người đời chỉ thấy nàng hoá đá chờ trông chồng trở về để rồi thấy thương khổ thay cho nàng. Chẳng ai biết, nàng đã hóa đá niềm tin,/ Hóa đá nỗi cô đơn/ Và thời gian chờ đợi. Động từ hoá đá đi liền ngay sau đại từ ta biến lời thơ trở thành câu chủ động. Nàng Vọng Phu đã chủ động để tất cả ngưng đọng thành các giá trị vĩnh cửu: niềm tin sắt đá chồng sẽ trở về, nỗi cô đơn của người đàn bà trung trinh chờ đợi. Và tất cả, dẫu buồn, chợt nhiên trở nên đẹp lộng lẫy, ngời sáng tấm lòng son sắt nơi người phụ nữ tuyệt vời.
- Nhịp hỏi đáp thứ ba
+ Nhân vật trữ tình vẫn cố gắng thuyết phục nàng. Lần này, lí do được viện dẫn để động viên nàng Vọng Phu về thôi còn nghiệt ngã gấp bội phần so với nhịp hỏi trước: Thân thể đã biến thành tro bụi/ Còn nhớ được sao câu hẹn, lời thề?. Nghĩa là: Chồng của nàng sẽ không bao giờ trở về đâu. Chàng ấy đã chết, thân thể đã tan thành tro bụi và người chết thì sao nhớ được lời hẹn thề mà trở về? Hỏi đấy mà là khẳng định mất rồi!
Với bất kì người đàn bà nào, mất đi người mình yêu thương cũng là mất mát lớn nhất và nỗi đau ấy không gì có thể khoả lấp. Nỗi đau ấy đủ lớn để họ không thể hi vọng, mong chờ điều gì nữa.
+ Song, đáp lại lời nhân vật trữ tình là thái độ hết sức bình thản của Vọng Phu: Người ta thương không thể trở về/ Chẳng ai hiểu bằng ta điều đó/ Chẳng ai hiểu bằng ta nỗi khổ/ Của người vợ chờ chồng. Hoá ra, hơn ai hết, nàng biết chồng không trở về nhưng nàng vẫn kiên trinh đứng đợi, vẫn để nỗi đau khổ thấm tháp vào nàng mỗi giây khắc, mỗi ngày giờ. Điệp khúc chẳng ai hiểu bằng ta trở đi trở lại tiếp tục gọi tên nỗi cô đơn, trống trải không gì có thể khuây khoả, không ai có thể sẻ chia trong nàng.
Nhưng, thật tuyệt vời khi sau cùng, Vọng Phu cũng nói ra lí do sâu xa nhất khiến nàng nhất định không chịu trở về: Ta hóa đá đợi triệu lần nỗi đợi/ Để những người vợ muôn đời thoát khỏi cảnh chờ trông. Số từ triệu mang tính ước lệ, hàm chỉ số nhiều, thậm chí hết thảy. Triệu lần nỗi đợi dường như gom trong đó tất cả những mong chờ, ngóng trông mòn mỏi, vô vọng của hết thảy những người đàn bà khốn khổ như nàng. Vọng Phu chủ động thâu trọn tất cả về mình, về riêng mình, để hết thảy những người đàn bà, những người vợ không ai phải khổ đau như nàng nữa. Hai dòng thơ kết khiến tứ thơ vút lên thật đẹp, biến hình tượng Vọng Phu hoá thánh lộng lẫy bởi lòng vị tha, đức hi sinh cao cả tuyệt vời.
* Đánh giá chung
- Bài thơ với kết cấu đối đáp gồm ba nhịp tăng cấp về nội dung biểu đạt và cảm xúc; ngôn ngữ giản dị, giàu hình ảnh, giàu sức gợi cảm; giọng điệu chân thành, chan chứa tình cảm; đặc biệt, yếu tố hư cấu được khéo léo vận dụng vào bài thơ;... tất cả dẫn dắt người đọc đi đến một cách lí giải độc đáo về hình tượng nàng Vọng Phu nói riêng và về tình yêu thuỷ chung, đức vị tha, hi sinh cao cả của hết thảy những người phụ nữ trong cuộc đời.
- Bài thơ mang đến một thông điệp đậm chất nhân văn: Hãy làm thế nào để thế gian này chẳng còn những nàng Vọng Phu như trong truyện cổ! Hãy yêu thương nhiều hơn những người phụ nữ, bởi sau tất cả những trắc trở, chông chênh, họ luôn là những người chịu thiệt thòi nhiều nhất, có thể như cách nhà thơ Phan Thị Thanh Nhàn đã làm trong bài thơ Với nàng Tô Thị:
Tôi trèo ba ngọn núi cao
Qua ba cửa động mới vào tới đây
Một mình đứng giữa trời mây
Thương ai hóa đá chẳng quay đầu về
Giọt sương vai áo đầm đìa
Hay là nước mắt thảm thê hỡi nàng?
Vời trông xa tít mênh mang
Mòn con mắt đợi bóng chàng biệt tăm
Quản bao đường sá xa xăm
Vì nàng chia nỗi cảm thông bao đời
Tấc lòng đau đáu khôn nguôi
Bóng ai đã biệt cuối trời nhớ thương
Trách nàng Tô Thị Lạng Sơn
Nỡ đâu chỉ biết chôn chân ngóng chờ?
Tiếc rằng không gặp từ xưa
Lời khuyên liệu có bây giờ muộn chăng?
Xin đừng hóa đá đăm đăm
Hãy tìm nhau giữa tháng năm, giữa đời
Nàng ơi, xuống núi cùng tôi...
<*> Tham khảo bài viết:SỰ TÍCH ĐÁ VỌNG PHU
Ngày xưa, có đôi vợ chồng nghèo sinh được hai mụn con: đứa lớn là trai mười một tuổi, đứa bé là gái lên sáu tuổi. Mỗi lần hai vợ chồng đi làm đồng hay đi đâu vắng, thường để hai con ở lại nhà, dặn anh trông nom em gái. Một hôm trước khi đi làm, người mẹ trao cho hai con một cây mía, bảo con lớn ở nhà chặt cho em ăn và đưa em đi chơi. Thường ngày mẹ vẫn nhắc:- Con đừng làm em khóc, kẻo cha về đánh chết nghe không!
Thằng anh đưa em ra sân cùng em trồng đá bẻ cây làm nhà làm cửa chơi với bạn bè quanh xóm. Chơi chán, anh đưa em vào nhà rồi tìm dao chặt mía. Không ngờ khi nó vừa giơ dao lên chặt, thì luỡi dao sút cán văng vào đầu em. Cô bé ngã quay ra bất tỉnh nhân sự, máu đỏ lênh láng cà một vạt đất. Thấy thế thằng anh rất sợ, nghĩ bụng: - “Tội ta to lắm. Cha về đánh chết mất!”. Thế rồi, anh bỏ em nằm sóng sượt ở giữa nhà mà trốn đi.
Cậu bé đi, đi mãi. Trên bước đường lưu lạc, hắn ở nhà này ít lâu rồi bỏ đi đánh bạn với nhà khác. Trong hơn mười lăm năm, hắn không biết mình dã đi những xứ nào, ăn cơm của bao nhiêu nhà. Cho đến lần cuối cùng, làm con nuôi một người đánh cá ở miền biển vùng Bình Định. Nghề chài lưới giữ chân hắn lại ở đây.
Ngày lại ngày nối nhau trôi qua. Rồi hắn kết duyên cùng một người đàn bà. Vợ hắn cũng thạo nghề đan lưới. Mỗi lúc thuyền của chồng về bãi, vợ nhận lấy phần cá của chồng, quảy ra chợ bán. Sau hai năm có được mụn con, hai vợ chồng cảm thấy sung sướng vô hạn.
Hôm ấy biển động, chồng nghỉ ở nhà vá lưới. Cơm trưa xong, vợ xoã tóc nhờ chồng bắt chấy. Đứa con đi chập chững trước sân nhà, bốc cát chơi một mình. Thấy vợ có một cái sẹo bằng đồng tiền ở trên tai bên phải, chồng lấy làm ngạc nhiên vì mấy lâu mái tóc đen của vợ đã hữu ý che kín cái sẹo không cho một người nào biết, trong số đó có cả chồng. Anh liền hỏi về lai lịch chiếc sẹo. Vợ vui miệng kể:
- Ngày đó cách đây hơn hai mươi năm, tôi mới bằng một tí đã biết gì đâu. Anh ruột của tôi chặt mía. Chao ôi! Cái mũi mác tai hại. Tôi ngất di. Sau này, tôi mới biết, lúc đó hàng xóm đã đổ tới cứu chữa rất lâu cho đến khi cha mẹ tôi về thì mới chạy tìm thầy tìm thuốc. May làm sao tôi vẫn sống để nhìn lại cha mẹ tôi. Nhưng tôi lại mất người anh ruột vì anh tôi sợ quá bỏ trốn. Cha mẹ tôi cố ý tìm tòi nhưng tuyệt không có tin gì. Rồi đó, cha mẹ tôi thương con buồn rầu quá, thành ra mang bệnh, kế tiếp nhau qua đời. Về phần tôi không có người nương tựa, lại bị người ta lập mưu cướp hết của cải và đem tôi đi bán cho thuyền buôn. Tôi không ở yên một nơi nào; nay đây mai đó, cuối cùng đên đây gặp anh...
Sau lưng người vợ, nét mặt của chồng từng lúc mỗi biến sắc khi biết là lấy nhầm phải em ruột. Lòng người chồng càng bị vò xé vì tin cha mẹ, tin quê quán do vợ nói ra. Nhưng chồng vẫn cố ngăn cảm xúc của mình, gói kín sự bí mật đau lòng đó lại, không cho vợ biết.
Qua mấy ngày sau, sóng gió yên lặng. Nhưng lòng người đàn ông thì không thể nào yên lặng được nữa. Như thường lệ, hắn lại chở lưới ra biển để đánh cá. Nhưng lần này một đi không bao giờ trở lại.
Người vợ ở nhà trông đợi chồng ngày một mỏi mòn. Tại sao sau khi đánh cá xong, giữa lúc đêm tối, mọi người đều cho thuyền trở về đất liền, thì chồng mình lại dong buồm đi biệt. Mà chồng mình là người chí thú làm ăn và rất thương con mến vợ. Thật là khó hiểu. Mỗi chiều, nàng lại bồng con trèo lên hòn núi ở cửa biển, con mắt đăm đăm nhìn về phía chân trời mù mịt.
Ba tuần trăng qua. Rồi sáu... rồi chín tuần trăng. Tuy nước mắt bấy giờ đá khô kiệt, nhưng người đàn bà vẫn không quên trèo núi trông chồng. Cái hình bóng ấy đối với dân làng thành ra quen thuộc. Về sau cả hai mẹ con đều hóa ra đá, trở thành hình bóng quen thuộc vĩnh viễn.
Hòn đá ấy ngày nay vẫn còn trên đinh núi ở bên của biển Đề Di, thuộc huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định. Người ta vẫn gọi là đá Trông Chồng hay là đá Vọng Phu .
(Theo Nguyễn Đổng Chi, Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, tập 1, NXB Giáo dục, 2000)