I. ĐỌC HIỂU (4,0 điểm)
Đọc đoạn trích:
“Theo số liệu của Ủy ban An toàn giao thông (ATGT) quốc gia, trung bình mỗi năm có tới 2.000 thanh thiếu niên thiệt mạng vì tai nạn giao thông (TNGT) trên cả nước. Học sinh THPT có liên quan tới 90% tổng số vụ TNGT kể trên. Tỉ lệ tử vong do TNGT của nhóm này có xu hướng gia tăng.
Ông Tạ Đức Giang - Phó Chánh văn phòng Ban ATGT thành phố Hà Nội, cho biết: “Hiện tượng thanh thiếu niên điều khiển xe máy, xe điện không đội mũ bảo hiểm, phóng nhanh, vượt ẩu, lấn làn, đi vào đường cấm, đường ngược chiều, bóp còi inh ỏi,... diễn ra ngày càng nhiều. Thậm chí, nhiều trường hợp lạng lách, đánh võng, đem theo hung khí khi tham gia giao thông. Tâm lí manh động, chống người thi hành công vụ cũng thể hiện rất rõ ở lứa tuổi này”.
Bên cạnh đó, hiện tượng học sinh chưa đủ 18 tuổi sử dụng xe máy trên 50 phân khối cũng ngày càng tăng. Nếu đến bãi gửi xe của các trường trung học phổ thông (THPT) trên địa bàn Thành phố Hà Nội, sẽ dễ dàng nhận thấy tình trạng này.
Một lỗi vi phạm giao thông khác thường gặp ở đối tượng học sinh, sinh viên là sử dụng rượu bia khi tham gia giao thông. Thói quen điều khiển phương tiện sau khi đã sử dụng đồ uống có cồn cần phải thay đổi để hạn chế các trường hợp tai nạn đáng tiếc xảy ra.
Văn hoá giao thông ở học sinh, sinh viên hiện nay còn kém là do sự thiếu hiểu biết và ý thức chấp hành pháp luật về trật tự, ATGT của người trẻ chưa cao.
Nhận thức yếu kém về nguy cơ tiềm ẩn khi tham gia giao thông, cộng với tâm lí bốc đồng của tuổi mới lớn khiến không ít người trẻ sẵn sàng phạm luật, gây ảnh hướng tới bản thân, gia đình và cả những người xung quanh.
Văn hóa tham gia giao thông của giới trẻ hiện nay chưa tốt, một phần do thiếu sự quan tâm, giáo dục và quản lí từ các bậc phụ huynh. Nhiều cha mẹ còn cho con đi xe máy đến trường khi chưa đủ tuổi hoặc chưa có giấy phép lái xe.
Bên cạnh gia đình, việc giáo dục ý thức cho học sinh, sinh viên trong nhà trường cũng chưa được quan tâm đúng mức. Các chế tài tại trường học áp dụng đối với vi phạm của học sinh, sinh viên không đủ mạnh để răn đe. Việc xử lí không được thực hiện thường xuyên, liên tục nên chưa tạo được thói quen tham gia giao thông văn minh cho học sinh.
Vấn đề TNGT ở thanh thiếu niên đang ngày càng trở nên nghiêm trọng, tuy nhiên việc giáo dục về văn hoá giao thông, ATGT lại chưa đem lại hiệu quả.”
(Trích Văn hoá giao thông của học sinh, sinh viên: Vẫn còn nhiều trăn trở - Ngọc Trang, theo kinhtedothi.vn)
Thực hiện các yêu cầu:
Câu 1 [704932]: Vấn đề được bàn luận trong đoạn trích trên là gì?
Vấn đề được bàn luận trong đoạn trích là văn hóa tham gia giao thông của học sinh, sinh viên hiện nay.
Câu 2 [704933]: Đoạn trích kết hợp sử dụng các thao tác lập luận nào?
Đoạn trích kết hợp sử dụng các thao tác lập luận:
- Giải thích: Làm rõ nguyên nhân dẫn đến tình trạng tai nạn giao thông ở học sinh, sinh viên.
- Phân tích: Phân tích các biểu hiện thiếu văn hóa giao thông và hậu quả của việc vi phạm luật lệ giao thông.
- Chứng minh: Các số liệu của Ủy ban An toàn giao thông và ý kiến của ông Tạ Đức Giang được sử dụng để chứng minh mức độ nghiêm trọng của tình trạng tai nạn giao thông ở thanh thiếu niên.
Câu 3 [704934]: Việc dẫn ý kiến của ông Tạ Đức Giang - Phó Chánh văn phòng Ban ATGT thành phố Hà Nội trong đoạn trích có ý nghĩa gì?
Việc dẫn ý kiến của ông Tạ Đức Giang - Phó Chánh văn phòng Ban ATGT thành phố Hà Nội trong đoạn trích có ý nghĩa:
- Ông Tạ Đức Giang là người có thẩm quyền trong lĩnh vực an toàn giao thông, nên ý kiến của ông càng làm tăng tính thuyết phục, giúp nội dung bài viết trở nên đáng tin cậy và khách quan hơn.
- Nhấn mạnh tình trạng vi phạm giao thông đáng báo động đang diễn ra phổ biến trong giới trẻ.
Câu 4 [704935]: Đoạn trích bộc lộ thái độ nào của người viết trước vấn đề được bàn luận?
Đoạn trích bộc lộ thái độ lo ngại, trăn trở của người viết trước thực trạng văn hóa giao thông của học sinh, sinh viên còn nhiều hạn chế và hậu quả nghiêm trọng từ tai nạn giao thông. Đồng thời phê phán sự thiếu sự quan tâm, giáo dục từ gia đình và nhà trường trong việc hình hành ý thức chấp hành luật giao thông cho giới trẻ hiện nay.
Câu 5 [704936]: Nêu một bài học anh/ chị rút ra từ đoạn trích.
Một bài học rút ra từ đoạn trích:
- Nhận thức đúng đắn về hậu quả nghiêm trọng từ tai nạn giao thông.
- Cần nâng cao ý thức chấp hành luật giao thông, trang bị kiến thức về an toàn giao thông, và hành xử có trách nhiệm khi tham gia giao thông.
- Để giảm thiểu tai nạn giao thông, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong việc giáo dục ý thức và trách nhiệm cho học sinh, sinh viên khi tham gia giao thông.
II. VIẾT (6,0 điểm)
Câu 6 [704937]: (2,0 điểm)
Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) về giải pháp tích cực nhằm xây dựng văn hoá giao thông ở những người trẻ hiện nay.
Đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ về giải pháp tích cực nhằm xây dựng văn hoá giao thông ở những người trẻ hiện nay có thể được triển khai theo hướng:
- Văn hoá giao thông: là tập hợp các cách thức xử sự, ứng xử, chấp hành các quy định của pháp luật về giao thông, là tuân thủ của các chuẩn mực đạo đức khi tham gia giao thông, chấp hành đúng, gương mẫu và tự giác đối với Luật Giao thông đường bộ.
- Giải pháp tích cực xây dựng văn hoá giao thông ở người trẻ hiện nay:
+ Tăng cường giáo dục, tuyên truyền luật an toàn giao thông tới người trẻ thông qua các hình thức sinh hoạt chuyên đề ở các nhà trường, lớp học,... (với các hoạt động cụ thể như mời cán bộ cảnh sát giao thông đến trò chuyện, trao đổi; trình chiếu video đề tài an toàn giao thông, sân khấu hoá các tình huống vi phạm an toàn giao thông, thiết kế các poster tuyên truyền, sáng tác thơ ca hò vè tuyên truyền...).
+ Tăng cường phối hợp giữa gia đình, nhà trường, xã hội trong công tác giáo dục ý thức, văn hoá giao thông ở người trẻ. (Tháng 10 năm 2024, Cảnh sát Giao thông toàn quốc ra quân đợt cao điểm bảo đảm trật tự, an toàn giao thông cho lứa tuổi học sinh trên cả nước. Hàng loạt trường hợp học sinh vi phạm luật an toàn giao thông đã bị xử lí đồng thời gửi thông báo về nhà trường, các nhà trường tiếp tục làm việc với phụ huynh, phối hợp các chế tài linh hoạt, bảo đảm các quy định của pháp luật về quyền trẻ em...).
Câu 7 [704938]: (4,0 điểm)
Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ), cảm nhận về bài thơ sau:
DÂNG
(Việt Phương)
Trăng non Nguyễn Trãi
Gió khẽ chạm vào tâm hồn Anh
Đêm thơm mùi cỏ dại
Thăm thẳm trời sao Chí Linh

Tựa Ngân Hà nhìn vô tận
Đầu bạc mắt xanh
Tầm vóc mênh mông lận đận
Vận nước việc đời cầm canh

Dặm người thui thủi
Mơ ước lung linh
Sáu trăm năm bụi
Tàu chuối tơ hé mở thơ tình
(Theo Tuyển tập Thơ Việt Nam 1975 - 2000, tập 3, NXB Hội Nhà văn, 2001)
Bài văn cảm nhận về bài thơ Dâng (Việt Phương) có thể triển khai theo nhiều cách, song cần bảo đảm các ý chính:
* Giới thiệu khái quát tác giả, tác phẩm
- Việt Phương:
+ Là một trong những người chính trị làm thơ. Ông tự nhận mình suốt một đời không bao giờ từ bỏ chính trị, nhưng chưa bao giờ con người chính trị lấn át được con người thi ca trong ông.
+ Thơ Việt Phương là thơ suy tưởng, thường xoay quanh những đề tài lớn như Tổ quốc, nhân dân, con người, chiến tranh, vũ trụ, tình yêu,...
- Dâng:
+ Nhan đề: có hai cách hiểu:
• Dâng hiến, cống hiến (gắn liền với sự hiến dâng tâm, tài, trí của Nguyễn Trãi với triều đại, dân tộc, nhân dân).
• Thành kính dâng lên (gắn liền với tình cảm trân trọng, ngợi ca của nhà thơ Việt Phương dành cho tiền nhân Nguyễn Trãi).
+ Nhân vật trữ tình: tác giả Việt Phương
+ Đối tượng trữ tình: anh hùng dân tộc, danh nhân văn hoá Nguyễn Trãi.
+ Cảm hứng chủ đạo: ngưỡng mộ, ngợi ca công lao, nhân cách cụ Nguyễn Trãi.
+ Thể thơ: tự do, không bị ràng buộc bởi những quy định ngặt nghèo về số câu, số tiếng, gieo vần, ngắt nhịp, rất phù hợp để nhân vật trữ tình bộc lộ tình cảm, cảm xúc, suy ngẫm.
+ Bố cục:
• Khổ thứ nhất: Bối cảnh thực tại đưa dẫn nhân vật trữ tình ngược về quá khứ gặp tiền nhân
• Khổ thứ hai, thứ ba: Hình tượng tiền nhân Nguyễn Trãi.
* Phân tích bài thơ
- Khổ thơ thứ nhất:
                      Trăng non Nguyễn Trãi
                      Gió khẽ chạm vào tâm hồn Anh
                      Đêm thơm mùi cỏ dại
                      Thăm thẳm trời sao Chí Linh
+ Các chi tiết gợi tả bối cảnh thực tại, gắn liền với sự xuất hiện của nhân vật trữ tình:
• Tại núi Chí Linh, nơi trước đây vừa là quê gốc, vừa là nơi tìm về ở ẩn của Nguyễn Trãi trong những ngày không còn được nhà vua tin dùng.
• Thời gian: một đêm đầu tháng (trăng non, sao vằng vặc: thăm thẳm trời sao).
• Không gian tĩnh tại, trong lành, cao rộng, khoáng đạt, thơ mộng, lãng mạn: gió nhẹ, mùi cỏ dại thơm đêm, trời sao thăm thẳm.
⟶ Các chi tiết miêu tả đã hoạ lên một bức tranh đêm tuyệt đẹp, kết nối thực tại với quá khứ, khơi thức trong nhân vật trữ tình hình ảnh Ức Trai thuở nào.
+ Cảm xúc của nhân vật trữ tình được trực tiếp thể hiện nhẹ nhàng, tinh tế qua chi tiết: Gió khẽ chạm vào tâm hồn Anh và gián tiếp qua sự cảm nhận vẻ đẹp của khung cảnh đêm Chí Linh. Hẳn tâm hồn Anh phải nhạy cảm lắm mới mơn man run rẩy ngay cả khi gió khẽ chạm! Và hẳn tâm hồn Anh cũng phải giàu cảm xúc lắm nên mới thâu trọn vẻ đẹp của những trăng non, đêm thơm mùi cỏ dại, thăm thẳm trời sao!
=> Khổ thơ chủ yếu hoạ lên khung cảnh hiện tại nhưng khung cảnh này chính là đầu mối đưa dẫn nhân vật trữ tình tìm về quá khứ để ngắm nhìn, chiêm ngưỡng một đấng anh hùng, một tâm hồn, một nhân cách tuyệt vời: Nguyễn Trãi.
- Khổ thứ hai, thứ ba:
+ Tựa Ngân Hà nhìn vô tận: Câu thơ của Việt Phương khiến chúng ta nhớ đến lời ngợi khen vua Lê Thánh Tông dành cho Nguyễn Trãi: Ức Trai tâm thượng quang Khuê tảo (“Lòng Ức Trai sáng tựa sao Khuê”, sao Khuê: ngôi sao sáng nhất trong chòm hai mươi tám sao trên dãy ngân hà. Trong văn hoá Việt Nam, sao Khuê là biểu tượng của văn chương và trí tuệ.). Theo đó, nhà thơ đang gợi lên trong tâm trí người đọc hình dung về vì sao Khuê - Nguyễn Trãi - từ cao xanh đang vằng vặc rọi chiếu xuống nhân gian.
+ Tiếp theo, lời thơ phác tạc bức chân dung hình tượng người anh hùng - người thơ Nguyễn Trãi:
• Chi tiết Đầu bạc mắt xanh gợi hình ảnh uy nghiêm, quắc thước, lồng lộng chí lớn, trí tuệ tinh anh của tiền nhân.
• Hai dòng thơ tiếp Tầm vóc mênh mông lận đận/ Vận nước việc đời cầm canh khái quát trọn vẹn công trạng biển trời với vua, với nước, với dân (tầm vóc mênh mông, Vận nước việc đời cầm canh) và cả cuộc đời đầy sóng gió, oan nghiệt (lận đận) của Nguyễn Trãi. Lời thơ cô đọng, hàm súc; giọng điệu thấm đượm xúc cảm thấu hiểu, đồng điệu, vừa ngợi ca vừa phảng phất nỗi xót xa trước công đức vô lượng và nỗi oan ức tày đình của tiền nhân.
• Chi tiết Dặm người thui thủi tái hiện chặng đời buồn tủi của Nguyễn Trãi, những ngày bậc khai quốc công thần phải từ quan về ở ẩn ở Côn Sơn bởi không còn được nhà vua tin dùng. Từ thui thủi không chỉ miêu tả hình ảnh tội nghiệp của người xưa mà còn chất chứa trong đó nỗi cảm thương sâu sắc của người nay khi nhớ lại quãng Ức Trai ở Chí Linh. Những ngày ấy, có lúc tiền nhân được thả hồn với thiên nhiên - chốn di dưỡng tinh thần:
                           - Dò trúc xông qua làn suối,
                           Tìm mai theo đạp bóng trăng.
                           Giang sơn bát ngát kìa quê cũ,
                           Tùng cúc bù trì ấy của hằng.
(Tự thán, bài 7)
                           - Núi láng giềng, chim bầu bạn
                           Mây khách khứa, nguyệt anh tam.
(Thuật hứng, bài 19)
Nhưng cũng nhiều lúc thiên nhiên không thể khuây khoả được bao nỗi lòng đau đáu:
                           - Ngoài chưng mọi chốn đều thông hết,
                           Bui một lòng người cực hiểm thay.
(Mạn thuật, bài 4)
                           - Miệng thế nhọn hơn chông mác nhọn
                           Lòng người quanh tựa nước non quanh
(Bảo kính cảnh giới, bài 9)
                           - Bui có một lòng trung lẫn hiếu
                           Mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen.
(Thuật hứng, bài 24)
• Những dòng thơ cuối cùng trong bài thơ của Việt Phương vụt sáng như vì sao Khuê, ngời lên lấp lánh khát vọng đất nước thái bình, nhân dân no đủ mà suốt đời Nguyễn Trãi đau đáu. Mơ ước lung linh ấy, Nguyễn Trãi từng gửi gắm trong biết bao thi phẩm của mình, để từ đó đính ghim trong tâm trí bao thế hệ một Ức Trai luôn hết lòng vì nước, vì dân:
                           - Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng,
                           Dân giàu đủ khắp đòi phương.
(Bảo kính cảnh giới, bài 43)
Và đó còn là một Nguyễn Trãi với tâm hồn trẻ trung, lãng mạn, rất mực đa tình trong bài thơ Cây chuối - Tàu chuối tơ hé mở thơ tình:
                           Tự bén hơi xuân, tốt lại thêm
                           Đầy buồng lạ, màu thâu đêm
                           Tình thư một bức phong còn kín
                           Gió nơi đâu gượng mở xem.
=> Hai khổ thơ đã hoạ lại cuộc đời, số phận và bức chân dung tuyệt đẹp về khí phách, tài năng, tâm hồn Nguyễn Trãi.
* Đánh giá chung
- Bài thơ ngắn gọn, hàm súc; ngôn ngữ giàu sức gợi; giọng điệu thành kính, trân trọng mà vẫn dạt dào xúc cảm đồng điệu, thương yêu.
- Cảm hứng ngợi ca đã khiến bài thơ như một phẩm vật thành kính mà nhà thơ Việt Phương dâng lên kính tặng hiền nhân Nguyễn Trãi.