I. ĐỌC HIỂU (4,0 điểm)
Đọc văn bản:
(2) Câu ca ám ảnh tôi, cũng như hình ảnh cuối truyện. Khi người con trai cởi áo chạy ngược đồi dâu khoác lên cho một người rách áo. Truyện nhẹ nhàng như không nhưng dễ làm người đọc rưng rưng nước mắt vì gợi lòng trắc ẩn. Lòng trắc ẩn vì người khác. Vì ngoài anh ngoài em.
(3) Có lần giáo sư Đặng Ngọc Dinh cứ nhắc mãi về bài luận của một học sinh lớp 6 ở Hà Nội. Bài có tựa đề là “Vì sao Hà Nội không nên cấm xích lô”. Ở đó cô học trò lớp 6 đã gửi gắm rất nhiều trắc ẩn về những nếp nhà sau vòng xe. Về những thân phận người lao động nghèo nơi phố thị. Với giáo sư Dinh, cô học trò lớp 6 đó là một nhà trí thức.
(4) Cũng như nguồn gốc xuất thân không hẳn đã bảo đảm cho hạnh kiểm, học vấn không cam kết được gì nhiều cho tư cách một con người. Những bản hồ sơ xin việc sau này, người ta đã in câu “trình độ học vấn” thay cho câu “trình độ văn hoá”. Rành mạch, giữa hàm lượng tri thức tích luỹ, với tư cách, là rất đúng. Bởi từng có ai đó đã đề vào mục “trình độ văn hoá” là “không nói tục chửi bậy” rồi đấy thôi.
(5) Tri thức dẫn ta đến những hiểu biết về con người, thế giới. Nhưng lòng trắc ẩn mới đưa ta về với điều hay lẽ phải, về với chính mình, để thành Con Người viết hoa, thành “hoa của đất”. Lớp 6 cũng là trí thức trong nhìn nhận đánh giá của một giáo sư. Thiên kinh vạn quyển, chữ nghĩa đầy bồ mà vẫn không là trí thức, dù trong nhìn nhận của một người bình thường chăng nữa.
(6) Nhìn vòng xe xích lô nhớ đến những gia đình nghèo khó. Nhìn ngày nắng thương những hạt mồ hôi. Đi qua sông chạnh lòng nghe mái chèo khua nước đêm đêm. Nhìn màu lá dâu non nhớ người còn rách áo. Sống là sống với. Sống là sống cùng. Với một người. Cùng mọi người.
(7) Ước mong của con người là tri thức càng cao thì tình yêu người càng rộng. Những bà mẹ trồng ngô, trồng đậu ở quê gửi điều đó trong những ngày đưa con đến trường. Những ông bố chạy xe ôm mỗi ngày nhìn vào ngôi trường con đang học, gửi vào đó những hi vọng con cái sẽ nối tiếp khát vọng về phẩm giá, công bằng.
(8) Hôm nay ta tới trường. Ta ước mình sẽ đỗ đạt, sẽ thành thủ khoa, thành quán quân môn Văn, vua môn Lí, nữ hoàng môn Ngoại ngữ. Ta đừng quên ước mình thành trí thức thực sự. Thành những người biết sống tất bật mỗi ngày “vì ngoài anh ngoài em”.
KHI NHÌN LÁ DÂU NON BIẾT NHỚ NGƯỜI ÁO RÁCH
(Hà Nhân)
(1) “Thuở trước, Hoa Học Trò có đăng một truyện ngắn tựa là “Màu lá dâu non” của tác giả Nguyễn Lộc An, người Quảng Nam. Đọc đã lâu, giờ tôi chỉ còn nhớ mấy câu ca “la bầu đường” trong truyện. Nếu chỉ vì anh vì em. Mỗi ngày anh ngủ hai đêm. Mỗi đêm em ngủ hai giấc. Sở dĩ chúng mình tất bật. Là vì ngoài anh ngoài em. (2) Câu ca ám ảnh tôi, cũng như hình ảnh cuối truyện. Khi người con trai cởi áo chạy ngược đồi dâu khoác lên cho một người rách áo. Truyện nhẹ nhàng như không nhưng dễ làm người đọc rưng rưng nước mắt vì gợi lòng trắc ẩn. Lòng trắc ẩn vì người khác. Vì ngoài anh ngoài em.
(3) Có lần giáo sư Đặng Ngọc Dinh cứ nhắc mãi về bài luận của một học sinh lớp 6 ở Hà Nội. Bài có tựa đề là “Vì sao Hà Nội không nên cấm xích lô”. Ở đó cô học trò lớp 6 đã gửi gắm rất nhiều trắc ẩn về những nếp nhà sau vòng xe. Về những thân phận người lao động nghèo nơi phố thị. Với giáo sư Dinh, cô học trò lớp 6 đó là một nhà trí thức.
(4) Cũng như nguồn gốc xuất thân không hẳn đã bảo đảm cho hạnh kiểm, học vấn không cam kết được gì nhiều cho tư cách một con người. Những bản hồ sơ xin việc sau này, người ta đã in câu “trình độ học vấn” thay cho câu “trình độ văn hoá”. Rành mạch, giữa hàm lượng tri thức tích luỹ, với tư cách, là rất đúng. Bởi từng có ai đó đã đề vào mục “trình độ văn hoá” là “không nói tục chửi bậy” rồi đấy thôi.
(5) Tri thức dẫn ta đến những hiểu biết về con người, thế giới. Nhưng lòng trắc ẩn mới đưa ta về với điều hay lẽ phải, về với chính mình, để thành Con Người viết hoa, thành “hoa của đất”. Lớp 6 cũng là trí thức trong nhìn nhận đánh giá của một giáo sư. Thiên kinh vạn quyển, chữ nghĩa đầy bồ mà vẫn không là trí thức, dù trong nhìn nhận của một người bình thường chăng nữa.
(6) Nhìn vòng xe xích lô nhớ đến những gia đình nghèo khó. Nhìn ngày nắng thương những hạt mồ hôi. Đi qua sông chạnh lòng nghe mái chèo khua nước đêm đêm. Nhìn màu lá dâu non nhớ người còn rách áo. Sống là sống với. Sống là sống cùng. Với một người. Cùng mọi người.
(7) Ước mong của con người là tri thức càng cao thì tình yêu người càng rộng. Những bà mẹ trồng ngô, trồng đậu ở quê gửi điều đó trong những ngày đưa con đến trường. Những ông bố chạy xe ôm mỗi ngày nhìn vào ngôi trường con đang học, gửi vào đó những hi vọng con cái sẽ nối tiếp khát vọng về phẩm giá, công bằng.
(8) Hôm nay ta tới trường. Ta ước mình sẽ đỗ đạt, sẽ thành thủ khoa, thành quán quân môn Văn, vua môn Lí, nữ hoàng môn Ngoại ngữ. Ta đừng quên ước mình thành trí thức thực sự. Thành những người biết sống tất bật mỗi ngày “vì ngoài anh ngoài em”.
(Theo Sống như cây rừng, NXB Văn học, 2016)
Thực hiện các yêu cầu:
Câu 1 [704946]: Văn bản kết hợp vận dụng các phương thức biểu đạt nào?
Văn bản kết hợp vận dụng các phương thức biểu đạt sau:
- Tự sự: Kể lại câu chuyện trong truyện ngắn "Màu lá dâu non" và bài luận của học sinh lớp 6.
- Miêu tả: Miêu tả các cảnh vật sự việc như hình ảnh lá dâu non, xích lô, những người lao động nghèo…
- Biểu cảm: Người viết bộc lộ cảm xúc về những vấn đề xã hội như đau lòng về sự nghèo khổ, tình yêu thương con người…
- Nghị luận: Những suy nghĩ, quan điểm của tác giả về tri thức và lòng trắc ẩn trong việc hình thành nhân cách con người.
- Tự sự: Kể lại câu chuyện trong truyện ngắn "Màu lá dâu non" và bài luận của học sinh lớp 6.
- Miêu tả: Miêu tả các cảnh vật sự việc như hình ảnh lá dâu non, xích lô, những người lao động nghèo…
- Biểu cảm: Người viết bộc lộ cảm xúc về những vấn đề xã hội như đau lòng về sự nghèo khổ, tình yêu thương con người…
- Nghị luận: Những suy nghĩ, quan điểm của tác giả về tri thức và lòng trắc ẩn trong việc hình thành nhân cách con người.
Câu 2 [704947]: Theo đoạn trích, vì sao giáo sư Đặng Ngọc Dinh lại gọi em học trò lớp 6 là một nhà trí thức?
Theo đoạn trích, giáo sư Đặng Ngọc Dinh lại gọi em học trò lớp 6 là một nhà trí thức vì cô bé đã thể hiện được lòng trắc ẩn sâu sắc, thấu hiểu và cảm thông sâu sắc cho những nỗi vất vả, cơ cực của người lao động nghèo thông qua bài luận của mình. Dù chỉ là một học sinh lớp 6 những em có những suy nghĩ và phẩm chất vượt xa độ tuổi, điều này cho thấy trí tuệ không chỉ nằm ở tri thức sách vở mà còn ở tư duy, nhân cách của mỗi người.
Câu 3 [704948]: Cụm từ “nhà trí thức” (in đậm) trong đoạn (3) có ý nghĩa gì?
Cụm từ “nhà trí thức” (in đậm) trong đoạn (3) có ý nghĩa không chỉ đơn thuần nói về những người có học thức mà còn để chỉ những người có tầm nhìn, có lòng trắc ẩn và lương tri. Cụm từ này đề cao ý thức trách nhiệm và những phẩm chất đáng quý của con người hơn là trí tuệ và kiến thức của mỗi cá nhân.
Câu 4 [704949]: Chỉ ra thái độ, quan điểm của người viết với vấn đề được đề cập đến trong đoạn (5).
Trong đoạn (5), người viết đã thể hiện thái độ đề cao, coi trọng vai trò của lòng trắc ẩn, cói đó là yếu tố quan trọng để trở thành “Con Người viết hoa” – những con người nhân văn, sống tử tế. Tri thức chỉ dẫn con người đến sự hiểu biết còn lòng trắc ẩn mới là yếu tố giúp con người nhận ra giá trị đạo đức, hướng tới nhân cách hoàn thiện.
Câu 5 [704950]: Nêu một bài học mà anh/ chị nhận được từ bài viết.
Một bài học rút ra từ đoạn trích:
- Để trở thành một con người đúng nghĩa, mỗi chúng ta cần phải có trí tuệ và cả lòng trắc ẩn. Tri thức giúp ta hiểu biết về thế giới, nhưng chỉ khi có lòng trắc ẩn, chúng ta mới có thể sống tốt và làm những việc có ích cho cộng đồng.
- Lòng trắc ẩn là một phẩm chất đáng quý cần phải có của con người, ta cần phải có trái tim nhân ái và biết sống vì người khác. Chỉ có như vậy, xã hội mới có thể tiến bộ và ngày càng phát triển tốt đẹp hơn
- Để trở thành một con người đúng nghĩa, mỗi chúng ta cần phải có trí tuệ và cả lòng trắc ẩn. Tri thức giúp ta hiểu biết về thế giới, nhưng chỉ khi có lòng trắc ẩn, chúng ta mới có thể sống tốt và làm những việc có ích cho cộng đồng.
- Lòng trắc ẩn là một phẩm chất đáng quý cần phải có của con người, ta cần phải có trái tim nhân ái và biết sống vì người khác. Chỉ có như vậy, xã hội mới có thể tiến bộ và ngày càng phát triển tốt đẹp hơn
II. VIẾT (6,0 điểm)
Câu 6 [704951]: (2,0 điểm)
Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/ chị về ý kiến ở phần Đọc hiểu: Tri thức dẫn ta đến những hiểu biết về con người, thế giới. Nhưng lòng trắc ẩn mới đưa ta về với điều hay lẽ phải, về với chính mình.
Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/ chị về ý kiến ở phần Đọc hiểu: Tri thức dẫn ta đến những hiểu biết về con người, thế giới. Nhưng lòng trắc ẩn mới đưa ta về với điều hay lẽ phải, về với chính mình.
Đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ về ý kiến ở phần Đọc hiểu: Tri thức dẫn ta đến những hiểu biết về con người, thế giới. Nhưng lòng trắc ẩn mới đưa ta về với điều hay lẽ phải, về với chính mình. có thể được triển khai theo hướng:
- Giải thích ngắn gọn ý kiến:
+ Tri thức: kiến thức, hiểu biết con người có được nhờ quá trình học tập, trau dồi; giúp kết nối mỗi chúng ta với thế giới bên ngoài.
+ Lòng trắc ẩn là tình cảm thương xót của con người (đối với con người, đối với muôn loài); giúp chúng ta nhìn sâu vào nội tâm bên trong chính mình, đưa ta trở nên người tử tế.
+ Ý kiến khẳng định, đề cao giá trị của lòng trắc ẩn trong việc làm nên phẩm cách cốt lõi của con người: sống tử tế, sống là chính mình.
- Bình luận ngắn gọn: Ý kiến xác đáng, vì những hiểu biết mang lại cho chúng ta cơ hội thành công nhưng lòng trắc ẩn, tình cảm thương xót mới khiến mỗi chúng ta có được những xúc cảm nhân văn của con người, kết nối con người với con người, dạy chúng ta biết sống tử tế, biết giữ trọn tính thiện căn bản (“nhân chi sơ tính bản thiên”) trong ta,...
- Giải thích ngắn gọn ý kiến:
+ Tri thức: kiến thức, hiểu biết con người có được nhờ quá trình học tập, trau dồi; giúp kết nối mỗi chúng ta với thế giới bên ngoài.
+ Lòng trắc ẩn là tình cảm thương xót của con người (đối với con người, đối với muôn loài); giúp chúng ta nhìn sâu vào nội tâm bên trong chính mình, đưa ta trở nên người tử tế.
+ Ý kiến khẳng định, đề cao giá trị của lòng trắc ẩn trong việc làm nên phẩm cách cốt lõi của con người: sống tử tế, sống là chính mình.
- Bình luận ngắn gọn: Ý kiến xác đáng, vì những hiểu biết mang lại cho chúng ta cơ hội thành công nhưng lòng trắc ẩn, tình cảm thương xót mới khiến mỗi chúng ta có được những xúc cảm nhân văn của con người, kết nối con người với con người, dạy chúng ta biết sống tử tế, biết giữ trọn tính thiện căn bản (“nhân chi sơ tính bản thiên”) trong ta,...
Câu 7 [704952]: (4,0 điểm)
Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ), cảm nhận về hình tượng người phụ nữ trong bài thơ sau:
giữa những hàng quán
giữa những ánh nhìn căng thẳng
những bước đi vội vã
những áo choàng đúng mốt
tôi nhìn thấy một người đàn bà mặc áo đen
và bên chị, là người đàn ông mù
tay trong tay
họ đi rất chậm như vừa đi vừa dò tìm.
Có thể gương mặt cuối cùng anh nhìn thấy
là gương mặt một người đồng chí đã hi sinh
anh đã qua những ngày tưởng như không thể qua dù trong giây phút
anh đã bước những bước đầu tiên trên phố phường này như đi trên lửa.
Và có thể
chị đã từng bị phản bội
chị đã mất những đứa con chị đáng được có trong đời
đã phải bước qua con đường không định trước.
Đã từ lâu rồi, chỉ còn lại trong anh khoảng đen vô tận
đã từ lâu rồi chị nhìn mọi điều với ánh nhìn hơi khép lại
không phải để tránh những đau thương
mà để che giữ trước bao nhiêu ánh nhìn
nỗi đau thương của chị.
Tay trong tay
họ bước đi rất chậm
Chị nói điều chi với nụ cười dịu dàng
và trên gương mặt anh
lan tỏa niềm vui.
3 - 1984
Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ), cảm nhận về hình tượng người phụ nữ trong bài thơ sau:
HAI NGƯỜI
(Ý Nhi)
Giữa dòng người xuôi ngượcgiữa những hàng quán
giữa những ánh nhìn căng thẳng
những bước đi vội vã
những áo choàng đúng mốt
tôi nhìn thấy một người đàn bà mặc áo đen
và bên chị, là người đàn ông mù
tay trong tay
họ đi rất chậm như vừa đi vừa dò tìm.
Có thể gương mặt cuối cùng anh nhìn thấy
là gương mặt một người đồng chí đã hi sinh
anh đã qua những ngày tưởng như không thể qua dù trong giây phút
anh đã bước những bước đầu tiên trên phố phường này như đi trên lửa.
Và có thể
chị đã từng bị phản bội
chị đã mất những đứa con chị đáng được có trong đời
đã phải bước qua con đường không định trước.
Đã từ lâu rồi, chỉ còn lại trong anh khoảng đen vô tận
đã từ lâu rồi chị nhìn mọi điều với ánh nhìn hơi khép lại
không phải để tránh những đau thương
mà để che giữ trước bao nhiêu ánh nhìn
nỗi đau thương của chị.
Tay trong tay
họ bước đi rất chậm
Chị nói điều chi với nụ cười dịu dàng
và trên gương mặt anh
lan tỏa niềm vui.
3 - 1984
(Theo Tuyển tập Thơ Việt Nam 1975 - 2000, tập 2, NXB Hội Nhà văn, 2001)
Bài văn cảm nhận về hình tượng người phụ nữ trong bài thơ Hai người (Ý Nhi) có thể triển khai theo nhiều cách, song cần bảo đảm các ý chính:
* Giới thiệu khái quát tác giả, tác phẩm
- Ý Nhi:
+ Là một trong những gương mặt thơ nữ tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại, nổi tiếng với thi phẩm Người đàn bà ngồi đan.
+ Thơ Ý Nhi khước từ mọi kĩ nghệ đánh bóng chữ nghĩa và thường chỉ quan tâm đến những tầng sâu lắng của lòng người để rồi tại đó, bà muốn khám phá trong đó những ý nghĩa mới cho thơ ca. Với nữ nhà thơ, giá trị nhân bản cho thơ ca chỉ có thể tìm được trong cả sự được và mất, cả nỗi chán chường và niềm hi vọng, cả đau thương và hạnh phúc, cả trong sự sống và cái chết của người đời.
- Hai người:
+ Đề tài: cuộc sống đời thường.
+ Nhan đề: giản dị, mộc mạc như nhiều nhan đề Ý Nhi vẫn thương đặt cho sáng tác của mình. (Nhà phê bình Lê Thiếu Nhơn từng nhận xét về nhan đề trong thơ Ý Nhi: những tựa đề đôi khi quá đơn sơ, chỉ đặt tên như một thủ tục bắt buộc, nên chẳng giúp ích được gì cho độc giả trong quá trình mở rộng biên độ cảm xúc khi tiếp cận bài thơ)
+ Nhân vật trữ tình: tác giả - giấu mặt.
+ Nhân vật trong bài thơ: hai con người, một người đàn ông và một người đàn bà.
+ Cảm hứng chủ đạo: yêu thương, đồng cảm, thấu hiểu, ngợi ca người phụ nữ trong cuộc sống bình dị, đời thường.
+ Thể thơ: tự do.
+ Bố cục:
• Khổ thứ nhất: bối cảnh và sự xuất hiện của hai người.
• Khổ thứ hai, thứ ba, thứ tư: Phác hoạ chân dung hai con người.
• Khổ thứ năm: Hai người trong nhịp sống đời thường.
* Cảm nhận về hình tượng người phụ nữ trong bài thơ
- Bối cảnh xuất hiện nhân vật:
+ Được phác hoạ qua các chi tiết: dòng người xuôi ngược, những hàng quán, những ánh nhìn căng thẳng, những bước đi vội vã, những áo choàng đúng mốt. Tất cả gợi đến một nhịp sống gấp gáp, sôi động, hối hả, hiện đại và có lẽ ở nơi thị thành.
+ Điệp từ giữa kết hợp với phép liệt kê đặt “hai người” nói chung và người đàn bà nói riêng vào một nhịp sống tất bật, vội vã.
- Hình tượng người phụ nữ:
+ Được gợi tả qua các chi tiết: mặc áo đen, cạnh bên chị là người đàn ông mù. Hai chi tiết khác loại, một chi tiết miêu tả vẻ bề ngoài của người đàn bà, một chi tiết mang tính tường thuật về người đàn ông đi bên người đàn bà nhưng cả hai cùng mang đến cảm nhận về cảnh đời tăm tối của “chị” - người đàn bà. Ý Nhi không nói người đàn bà này có hoàn cảnh gieo neo, khổ nhọc nhưng tất cả tự ùa vào qua những hình ảnh nhà thơ đã chọn lọc mà đưa vào lời thơ.
+ Song liền sau đó, chi tiết “hai người” tay trong tay, đi rất chậm như vừa đi vừa dò tìm lại khiến người đọc cảm thấy ấm lòng. Dẫu tối tăm, cơ cực đấy, nhưng hai con người, một người đàn ông mù, một người đàn bà khốn khổ vẫn nắm tay nhau, chậm rãi đi trong cuộc đời tăm tối. Trong tình cảnh này, rõ ràng, người đàn bà hẳn là người vất vả, nhọc nhằn hơn gấp bội. Là phái yếu, lẽ ra “chị” phải được tựa nương, che chở, song trong trường hợp này, “chị” lại trở thành điểm tựa, chỗ dựa, đôi mắt, đôi chân,... của người đàn ông.
+ Nhà thơ Ý Nhi tiếp tục phác hoạ hình tượng người phụ nữ qua các chi tiết mang tính phỏng đoán: có thể/ chị đã từng bị phản bội/ chị đã mất những đứa con chị đáng được có trong đời/ đã phải bước qua con đường không định trước. Chỉ là có thể thôi, tức là trông qua, nhác qua, nhìn qua mà đoán định vậy nên hoặc đúng, hoặc không đúng. Điều đáng nói là mọi giả định của Ý Nhi đều thiên về nỗi bất hạnh, về những trắc trở, cắc cớ trong cuộc đời (hệt như một sự tường minh, chứng tỏ cho hình dong mặc áo đen tối om ta đã cảm nhận khi trước). Và với một người đàn bà, chỉ cần một trong số các giả định ấy là sự thật thì cuộc đời cũng đã đong đầy nước mắt rồi.
+ Đoạn thơ tiếp theo tiếp tục phác hoạ chân dung “hai người” và riêng với người đàn bà là những dòng thơ: đã từ lâu rồi chị nhìn mọi điều với ánh nhìn hơi khép lại (...) để che giữ trước bao nhiêu ánh nhìn/ nỗi đau thương của chị. Chỉ một từ che giữ đủ để chúng ta cảm nhận được trọn vẹn lòng tự trọng đầy kiêu hãnh của người đàn bà khốn khổ. Người đàn bà trong bài thơ của Ý Nhi không lột trần nỗi đau thương của mình ra để van xin lòng thương của người đời. “Chị” khốn khó, bất hạnh nhưng dư thừa lòng tự trọng để người đời buộc phải tôn trọng chị.
+ Vẻ đẹp của người đàn bà trong bài thơ sau cùng được tô đậm them bởi hai chi tiết thật đẹp: tay trong tay/ họ bước đi rất chậm và Chị nói điều chi với nụ cười dịu dàng.
• Tay trong tay là tay anh trong tay chị, tay một người đàn ông mù trong tay một người đàn bà sáng mắt khốn khổ. Tay trong tay là vẫn bên nhau hạnh phúc dù phía trước chẳng biết còn cơ cực đến đâu. Tay trong tay là người đàn bà đã, đang và sẽ vẫn gắn bó, yêu thương, đồng hành cùng người đàn ông bất hạnh; là bao dung, vị tha, là yêu thương hết mực trong trái tim của người đàn bà.
• Chi tiết về tiếng nói cười dịu dàng của chị cho phép người đọc nghĩ đến nghị lực phi thường và vẻ đẹp nữ tính ở người phụ nữ nhỏ bé. Hoá ra, chẳng có bất hạnh nào đè bẹp được cuộc đời chị, chẳng có cay cực nào làm chị nguôi dứt niềm vui trong khoảnh khắc hiện tại và niềm tin vào tương lai.
* Đánh giá chung
- Bài thơ Hai người với ngôn từ giản dị, mộc mạc, hình ảnh bình dị, đời thường, qua lăng kính của người quan sát - tác giả - chủ thể trữ tình, đã mang đến người đọc cảm nhận sâu sắc về cuộc đời, số phận, vẻ đẹp của hình tượng người phụ nữ.
- Hình tượng người phụ nữ trong bài thơ Hai người không có một cái tên cụ thể, nhưng chính vì lẽ đó mà có sức khái quát, đại diện cho rất nhiều những người phụ nữ trong cuộc đời này.
* Giới thiệu khái quát tác giả, tác phẩm
- Ý Nhi:
+ Là một trong những gương mặt thơ nữ tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại, nổi tiếng với thi phẩm Người đàn bà ngồi đan.
+ Thơ Ý Nhi khước từ mọi kĩ nghệ đánh bóng chữ nghĩa và thường chỉ quan tâm đến những tầng sâu lắng của lòng người để rồi tại đó, bà muốn khám phá trong đó những ý nghĩa mới cho thơ ca. Với nữ nhà thơ, giá trị nhân bản cho thơ ca chỉ có thể tìm được trong cả sự được và mất, cả nỗi chán chường và niềm hi vọng, cả đau thương và hạnh phúc, cả trong sự sống và cái chết của người đời.
- Hai người:
+ Đề tài: cuộc sống đời thường.
+ Nhan đề: giản dị, mộc mạc như nhiều nhan đề Ý Nhi vẫn thương đặt cho sáng tác của mình. (Nhà phê bình Lê Thiếu Nhơn từng nhận xét về nhan đề trong thơ Ý Nhi: những tựa đề đôi khi quá đơn sơ, chỉ đặt tên như một thủ tục bắt buộc, nên chẳng giúp ích được gì cho độc giả trong quá trình mở rộng biên độ cảm xúc khi tiếp cận bài thơ)
+ Nhân vật trữ tình: tác giả - giấu mặt.
+ Nhân vật trong bài thơ: hai con người, một người đàn ông và một người đàn bà.
+ Cảm hứng chủ đạo: yêu thương, đồng cảm, thấu hiểu, ngợi ca người phụ nữ trong cuộc sống bình dị, đời thường.
+ Thể thơ: tự do.
+ Bố cục:
• Khổ thứ nhất: bối cảnh và sự xuất hiện của hai người.
• Khổ thứ hai, thứ ba, thứ tư: Phác hoạ chân dung hai con người.
• Khổ thứ năm: Hai người trong nhịp sống đời thường.
* Cảm nhận về hình tượng người phụ nữ trong bài thơ
- Bối cảnh xuất hiện nhân vật:
+ Được phác hoạ qua các chi tiết: dòng người xuôi ngược, những hàng quán, những ánh nhìn căng thẳng, những bước đi vội vã, những áo choàng đúng mốt. Tất cả gợi đến một nhịp sống gấp gáp, sôi động, hối hả, hiện đại và có lẽ ở nơi thị thành.
+ Điệp từ giữa kết hợp với phép liệt kê đặt “hai người” nói chung và người đàn bà nói riêng vào một nhịp sống tất bật, vội vã.
- Hình tượng người phụ nữ:
+ Được gợi tả qua các chi tiết: mặc áo đen, cạnh bên chị là người đàn ông mù. Hai chi tiết khác loại, một chi tiết miêu tả vẻ bề ngoài của người đàn bà, một chi tiết mang tính tường thuật về người đàn ông đi bên người đàn bà nhưng cả hai cùng mang đến cảm nhận về cảnh đời tăm tối của “chị” - người đàn bà. Ý Nhi không nói người đàn bà này có hoàn cảnh gieo neo, khổ nhọc nhưng tất cả tự ùa vào qua những hình ảnh nhà thơ đã chọn lọc mà đưa vào lời thơ.
+ Song liền sau đó, chi tiết “hai người” tay trong tay, đi rất chậm như vừa đi vừa dò tìm lại khiến người đọc cảm thấy ấm lòng. Dẫu tối tăm, cơ cực đấy, nhưng hai con người, một người đàn ông mù, một người đàn bà khốn khổ vẫn nắm tay nhau, chậm rãi đi trong cuộc đời tăm tối. Trong tình cảnh này, rõ ràng, người đàn bà hẳn là người vất vả, nhọc nhằn hơn gấp bội. Là phái yếu, lẽ ra “chị” phải được tựa nương, che chở, song trong trường hợp này, “chị” lại trở thành điểm tựa, chỗ dựa, đôi mắt, đôi chân,... của người đàn ông.
+ Nhà thơ Ý Nhi tiếp tục phác hoạ hình tượng người phụ nữ qua các chi tiết mang tính phỏng đoán: có thể/ chị đã từng bị phản bội/ chị đã mất những đứa con chị đáng được có trong đời/ đã phải bước qua con đường không định trước. Chỉ là có thể thôi, tức là trông qua, nhác qua, nhìn qua mà đoán định vậy nên hoặc đúng, hoặc không đúng. Điều đáng nói là mọi giả định của Ý Nhi đều thiên về nỗi bất hạnh, về những trắc trở, cắc cớ trong cuộc đời (hệt như một sự tường minh, chứng tỏ cho hình dong mặc áo đen tối om ta đã cảm nhận khi trước). Và với một người đàn bà, chỉ cần một trong số các giả định ấy là sự thật thì cuộc đời cũng đã đong đầy nước mắt rồi.
+ Đoạn thơ tiếp theo tiếp tục phác hoạ chân dung “hai người” và riêng với người đàn bà là những dòng thơ: đã từ lâu rồi chị nhìn mọi điều với ánh nhìn hơi khép lại (...) để che giữ trước bao nhiêu ánh nhìn/ nỗi đau thương của chị. Chỉ một từ che giữ đủ để chúng ta cảm nhận được trọn vẹn lòng tự trọng đầy kiêu hãnh của người đàn bà khốn khổ. Người đàn bà trong bài thơ của Ý Nhi không lột trần nỗi đau thương của mình ra để van xin lòng thương của người đời. “Chị” khốn khó, bất hạnh nhưng dư thừa lòng tự trọng để người đời buộc phải tôn trọng chị.
+ Vẻ đẹp của người đàn bà trong bài thơ sau cùng được tô đậm them bởi hai chi tiết thật đẹp: tay trong tay/ họ bước đi rất chậm và Chị nói điều chi với nụ cười dịu dàng.
• Tay trong tay là tay anh trong tay chị, tay một người đàn ông mù trong tay một người đàn bà sáng mắt khốn khổ. Tay trong tay là vẫn bên nhau hạnh phúc dù phía trước chẳng biết còn cơ cực đến đâu. Tay trong tay là người đàn bà đã, đang và sẽ vẫn gắn bó, yêu thương, đồng hành cùng người đàn ông bất hạnh; là bao dung, vị tha, là yêu thương hết mực trong trái tim của người đàn bà.
• Chi tiết về tiếng nói cười dịu dàng của chị cho phép người đọc nghĩ đến nghị lực phi thường và vẻ đẹp nữ tính ở người phụ nữ nhỏ bé. Hoá ra, chẳng có bất hạnh nào đè bẹp được cuộc đời chị, chẳng có cay cực nào làm chị nguôi dứt niềm vui trong khoảnh khắc hiện tại và niềm tin vào tương lai.
* Đánh giá chung
- Bài thơ Hai người với ngôn từ giản dị, mộc mạc, hình ảnh bình dị, đời thường, qua lăng kính của người quan sát - tác giả - chủ thể trữ tình, đã mang đến người đọc cảm nhận sâu sắc về cuộc đời, số phận, vẻ đẹp của hình tượng người phụ nữ.
- Hình tượng người phụ nữ trong bài thơ Hai người không có một cái tên cụ thể, nhưng chính vì lẽ đó mà có sức khái quát, đại diện cho rất nhiều những người phụ nữ trong cuộc đời này.