I. ĐỌC HIỂU (4,0 điểm)
Đọc văn bản:
PHỤ NỮ HIỆN ĐẠI VÀ VAI TRÒ TRONG GIA ĐÌNH
(Lê Thị Bích Diệp)
Đã qua rồi cái thời người phụ nữ quanh quẩn trong xó bếp, với công việc thường thấy là giặt giũ, thổi cơm, quét nhà... Ngày nay, thay vì tốn thời giờ cho những công việc đó, họ có thể giải phóng cho mình bằng những tiện nghi gia đình như máy giặt, máy rửa bát, máy hút bụi... hay có điều kiện hơn thì thuê người giúp việc để có thể dành thời gian cho những công việc và sở thích khác. Điều này cũng đúng, khi quyền bình đẳng được nâng cao và phụ nữ có quyền lựa chọn những gì họ làm. Họ cũng đi làm, cũng bận rộn, thậm chí nhiều người còn gánh vác những công việc trọng trách nặng nề của xã hội với những áp lực lớn thì thực sự không có nhiều thời gian dành cho gia đình. Phải chăng vì thế mà những bữa cơm gia đình “cơm dẻo, canh ngọt” cũng ít dần đi trong khi những bữa ăn đó chính là những sợi dây gắn bó các thành viên trong gia đình lại với nhau và kéo người đàn ông về với gia đình?
Trách nhiệm với việc nội trợ đã được giảm bớt, còn trách nhiệm với việc nuôi dạy con cái thì sao? Sự bận rộn khiến cho người phụ nữ hiện đại không còn nhiều thời gian kèm cặp, dạy bảo con cái, nhiều người ỷ lại vào gia sư và nhà trường. Có gia đình thì hai vợ chồng lại đùn đẩy trách nhiệm cho nhau, thay vì cùng nhau chia sẻ. Trong thực tế đã có không ít những trường hợp người phụ nữ thành đạt, công danh sự nghiệp rạng ngời mà con cái hư hỏng, nghiện ngập, gia đình cũng vì thế mà lục đục, “bát đũa xô nhau”...
Người ta thường ví vai trò của phụ nữ trong gia đình như “người giữ lửa trong nhà”, vì thế khi họ rời bỏ những công việc gia đình, chăm sóc con cái, họ cũng tự mình đánh mất vai trò ấy. Nhiều người chồng sau giờ làm việc không muốn trở về nhà ngay cũng một phần chỉ vì người vợ không còn là một người vợ, người mẹ trong gia đình đúng nghĩa nữa.
Dù ở xã hội nào đi nữa, phương Đông hay phương Tây, thiên chức của người phụ nữ vẫn là người quan trọng nhất trong việc “xây tổ ấm”. Vì thế, làm sao để cân bằng giữa gia đình và xã hội là một điều hết sức cần thiết cho người phụ nữ đương thời. Muốn vậy, sự ủng hộ chia sẻ của nam giới và người thân rất quan trọng. Đây quả là một thách thức đòi hỏi người phụ nữ cùng gia đình phải thực sự quan tâm lẫn nhau. Với rào cản thiên kiến giới đang tồn tại trong nhiều người, nhiều gia đình thì thách thức này lại càng lớn, đòi hỏi người phụ nữ càng phải nỗ lực phấn đấu, cùng cộng đồng kiên trì tác động tư tưởng và làm thay đổi nhận thức, hành vi của mọi người trong gia đình, trong xã hội. Nhưng khi vượt qua được thách thức ấy, họ đã thực sự là một người phụ nữ hiện đại.
(Theo hoilhpn.org.vn)
Thực hiện các yêu cầu:
Câu 1 [704960]: Văn bản gồm mấy phần? Nêu nội dung chính của từng phần.
Văn bản gồm các phần:
- Phần thứ nhất (từ đầu đến đúng nghĩa nữa.): Vai trò của phụ nữ hiện đại trong gia đình.
+ Từ đầu đến kéo người đàn ông về với gia đình?: Trách nhiệm với việc nội trợ của phụ nữ trong xã hội hiện đại.
+ Tiếp đến “bát đũa xô nhau”...: Trách nhiệm với việc nuôi dạy con cái của phụ nữ trong xã hội hiện đại.
+ Tiếp đến đúng nghĩa nữa.: Những hệ luỵ khi người phụ nữ đánh mất vai trò của mình trong gia đình.
- Phần thứ hai (còn lại): Để người phụ nữ có thể cân bằng giữa gia đình và xã hội...
Câu 2 [704961]: Theo bài viết, phụ nữ ngày nay được giải phóng bởi những tiện nghi nào?
Theo bài viết, phụ nữ ngày nay được giải phóng bởi các tiện nghi như máy giặt, máy rửa bát, máy hút bụi...
Câu 3 [704962]: Văn bản đã nêu lên những đặc điểm nào của người phụ nữ hiện đại?
Văn bản đã nêu lên các đặc điểm nổi bật của người phụ nữ hiện đại:
- Biết giải phóng bản thân khỏi công việc nội trợ trong gia đình.
- Bận rộn hơn với công việc trong xã hội, ít hoặc không có thời gian kèm cặp, dạy bảo con cái.
(Khác với phụ nữ thời xưa: thường chỉ biết đến những công việc nội trợ trong gia đình; phần đông không có điều kiện tham gia các công tác xã hội.)
Câu 4 [704963]: Văn bản bộc lộ thái độ nào của người viết trước vấn đề được bàn luận?
Văn bản bộc lộ:
- Thái độ khách quan, công bằng của người viết trước vấn đề được bàn luận. Thái độ này được thể hiện ở sự phân tích một cách công tâm ưu điểm - hạn chế trong đặc điểm của phụ nữ hiện đại và cái được - cái mất của người phụ nữ hiện đại khi thể hiện vai trò của họ đối với gia đình.
- Sự đồng tình, ủng hộ với những thay đổi của người phụ nữ trong xã hội hiện đại (có điều kiện hơn thì thuê người giúp việc để có thể dành thời gian cho những công việc và sở thích khác. Điều này cũng đúng, khi quyền bình đẳng được nâng cao và phụ nữ có quyền lựa chọn những gì họ làm.).
- Sự thấu hiểu đối với phụ nữ hiện đại khi chỉ ra những thách thức người phụ nữ phải đối diện để cân bằng giữa gia đình và xã hội (sự ủng hộ chia sẻ của nam giới và người thân, rào cản thiên kiến giới đang tồn tại trong nhiều người, nhiều gia đình).
Câu 5 [704964]: Anh/ Chị có đồng tình với ý kiến cho rằng: Dù ở xã hội nào đi nữa, phương Đông hay phương Tây, thiên chức của người phụ nữ vẫn là người quan trọng nhất trong việc “xây tổ ấm” không? Vì sao?
Thí sinh có thể đồng tình/ không đồng tình/ đồng tình một phần với ý kiến cho rằng: Dù ở xã hội nào đi nữa, phương Đông hay phương Tây, thiên chức của người phụ nữ vẫn là người quan trọng nhất trong việc “xây tổ ấm”; song cần lí giải ngắn gọn, hợp lí nguyên do. Chẳng hạn:
- Tôi đồng tình với ý kiến. Bởi lẽ dù ở xã hội nào đi chăng nữa, trong gia đình, người phụ nữ cũng giữ vai trò quan trọng trong việc “xây tổ ấm”. Thêm nữa, so với các thành viên khác trong gia đình, người phụ nữ (người mẹ, người vợ) thường khéo léo hơn trong việc “xây tổ ấm”.
Hoặc
- Tôi không đồng tình với ý kiến. Bởi lẽ việc “xây tổ ấm” trong một gia đình không chỉ là trách nhiệm thuộc riêng người phụ nữ. Tổ ấm ấy cần được xây đắp bởi tất cả các thành viên trong gia đình và mọi thành viên đều có vai trò quan trọng như nhau.
Hoặc
- Tôi vừa đồng tình vừa không đồng tình với ý kiến.
- Thí sinh kết hợp lí do ở hai gợi ý trên để trả lời.
II. VIẾT (6,0 điểm)
Câu 6 [704965]: (2,0 điểm)
Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về sức mạnh của tình yêu thương.
Đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ về sức mạnh của tình yêu thương có thể được triển khai theo hướng:
- Xoa dịu mọi nỗi đau của con người (chỉ có yêu thương mới đủ sức mạnh ru vỗ, làm tan biến những đau đớn, khổ sở của chúng ta: yêu thương của mẹ cha làm tan biến nỗi buồn thất bại của con cái; yêu thương của ông bà xua đi nỗi nhớ nhung của đứa cháu học xa nhà; yêu thương của người bạn thân san sẻ với người bạn thân nỗi muộn sầu khi tình yêu tan vỡ;...); là động lực để con người vượt lên trên những khó khăn, thử thách trong cuộc sống (tình yêu thương của gia đình là điểm tựa để bạn trẻ vươn lên trong học tập; tình yêu của người vợ tiếp sức cho người chồng vượt qua những nhọc nhằn trong hành trình mưu sinh nơi đất khách; sự san sẻ của những “người dưng” khiến đồng bào trong hoạn nạn được tiếp thêm sức mạnh để vượt qua dịch bệnh, thiên tai;...).
- Hàn gắn mọi sự tan vỡ (nhiều mối quan hệ bị rạn nứt được hàn gắn khi một bên chủ động chìa tay); kết nối người với người, góp phần tạo nên một thế giới nhân ái (tình yêu thương tạo nên một cộng đồng lớn mạnh, đoàn kết, chan chứa tình người).
- Gây dựng niềm tin yêu vào sự tử tế, tốt đẹp trong cuộc sống (Nhiều người trong xã hội hiện đại mất niềm tin vào sự tử tế của con người khi chứng kiến những cảnh tượng bạo lực, những lối ứng xử thiếu văn hoá,... trong thực tế đời sống. Tình yêu thương sẽ cứu rỗi đức tin của con người.)
Câu 7 [704966]: (4,0 điểm)
Viết bài văn nghị luận (khoảng 200 chữ), phân tích văn bản sau đây:
“13.1 [70]
Vậy là M. đã ra đi! Không thể nào mình lại nghĩ sự việc lại như bây giờ. Tám năm về trước dưới rặng cây trên con đường cũ mình tiễn M. đi Nam, không một lời hứa hẹn, không một giọt nước mắt trong buổi chia tay, để rồi suốt năm năm sau mình dành trọn tình yêu thiết tha chung thủy cho người giải phóng quân ấy. Và mình đã lên đường vào Nam theo tiếng gọi của Tổ quốc và Tình yêu. Mình đã gặp lại M. Ai cũng tưởng rằng hạnh phúc đó không có gì sánh được. Nhưng cuộc đời thật lắm nỗi éo le. Khi xa nhau mình đã thiết tha thầm gọi tên M. trong từng giây từng phút, nhưng khi gặp nhau mình đã để cho lòng tự ái ngự trị lên trên tình yêu. M. không phải là của riêng mình, đành rằng M. chỉ dành tình yêu cao nhất cho Đảng, cho nhân dân, nhưng nếu để cho mình quá ít yêu thương thì... không thể đáp ứng với trái tim sôi nổi yêu thương của mình. Mình không hề đòi hỏi phải gần nhau, phải cưới nhau mà chỉ mong rằng dù giữa bom rơi, đạn nổ giữa lửa khói chiến trường tình yêu vẫn sáng ngời rực rỡ. M. đã không làm được như vậy và mình đã bắt con tim mình phải quên đi những gì đã nuôi sống nó trong hơn mười năm nay.
Mình quả đúng như lời M. nhận định: “Th. có tình yêu đắm say mãnh liệt thủy chung và nhiều tự trọng.”
Ba năm qua hai đứa chỉ gặp nhau hai lần, mình và M. đều cảm thấy buồn khi nghĩ đến tình yêu.
Lỗi tại ai? Tại mình hay tại M.? Không ai trả lời được, ai cũng bàn luận và góp ý cho cả hai đứa mình. Người thì khuyên mình không cần thiết phải tiếp tục yêu một người không xứng đáng trong tình yêu với mình. Một số người khác hiểu M. hơn thì cố khuyên mình đừng tự ái để trở lại với nhau, nhưng hai đứa chỉ cười trước tất cả mọi ý kiến. Không ai hiểu nổi tình yêu của hai đứa đâu. Và để giải quyết được cũng không một ý kiến nào ngoài ý kiến của hai đứa.
Bây giờ M. ra đi không gặp Thùy, như lá thư M. viết lại “Sự sống của tình yêu không cần sự có mặt của nhau, dù ở Nam hay Bắc, dù là gần nhau hay cách ngàn dặm đường nắng mưa cát bỏng... ở đâu anh cũng vấn là anh của tám năm qua và nhiều năm nữa để mà yêu em tha thiết. Hãy sống với nhau như một người thân yêu nhất trên đời. Quyền quyết định là hoàn toàn do em...”
Cách giải quyết đó cũng được. Ở đây mình cũng sẽ dành trọn cuộc sống cho chiến đấu và công tác - không thể nào có tình yêu nào được và M. ở đó chắc cũng không thể nào có được một tình yêu chân chính khi nghĩ đến ai khác ngoài mình.
Cuộc đời đã dành cho ta một đoạn đường như vậy thì hãy ráng mà đi, bao giờ gặp lại nhau hãy nói tiếp đến tương lai.
Chúc M., người đồng chí yêu thương lên đường bình an - gởi theo M. ngàn vạn nhớ thương, tình nhớ thương của một người bạn và một người đồng chí.”
(Theo Nhật kí Đặng Thuỳ Trâm, NXB Hội Nhà văn, 2020)
Bài văn phân tích văn bản được rút từ Nhật kí Đặng Thuỳ Trâm có thể triển khai theo nhiều cách, song cần bảo đảm các ý chính:
* Giới thiệu khái quát tác giả, tác phẩm
- Đặng Thuỳ Trâm:
+ Bác sĩ Đặng Thùy Trâm sinh ra trong một gia đình trí thức ở Huế, lớn lên tại Hà Nội. Là người yêu thích văn học, Đặng Thùy Trâm đọc nhiều sách, thuộc nhiều thơ, bị ảnh hưởng rất lớn bởi tính cách của các nhân vật lí tưởng như Pavel Korchagin trong Thép đã tôi thế đấy, Ruồi trâu...
+ Năm 1961, nối nghiệp gia đình, Đặng Thùy Trâm thi đỗ vào Trường Đại học Y khoa Hà Nội. Tháng 6/1966, với những thành tích học tập và hoạt động xuất sắc, chị được Trường Đại học Y khoa Hà Nội cho tốt nghiệp sớm hơn một năm với tấm bằng hạng ưu.
Sau khi tốt nghiệp, Đặng Thuỳ Trâm tình nguyện vượt Trường Sơn vào công tác tại chiến trường Quảng Ngãi. Ngày 22/6/1970, trong một chuyến công tác từ vùng núi Ba Tơ về đồng bằng, Bệnh xá Đức Phổ bị lính Mỹ tập kích và chị anh dũng hi sinh khi chưa tròn 28 tuổi đời. Đặng Thùy Trâm đã ngoan cường chiến đấu như tinh thần của Mariuyt, của Gavơrốt trên chiến lũy thành Paris mà chị từng ngưỡng mộ.
- Nhật kí Đặng Thuỳ Trâm:
+ Vào tháng 6 - 1970, sau một trận càn của lính Mỹ vào một căn cứ của ta chiến trường Đức Phổ (Quảng Ngãi), trong đống chiến lợi phẩm có một cuốn nhật kí của người nữ chiến sĩ - bác sĩ Đặng Thùy Trâm vừa hi sinh. Fredric Whitehurst, một lính Mỹ, đã định châm lửa đốt quyển sổ tay được bọc bằng vải, thì người phiên dịch đã cản: “Đừng đốt. Bản thân nó đã có lửa rồi!”. Người lính Mỹ đã dừng tay trước quyển sổ đầy chữ ấy. Và “ngọn lửa” ấy còn dẫn Fredric và người anh trai là Robert Whitehurst (cũng là một cựu binh Mỹ trong chiến tranh Việt Nam) làm một cuộc hành trình tình nguyện đưa nhật kí của Đặng Thùy Trâm về với gia đình chị...
- Thể loại: nhật kí
+ Là thể loại ghi chép theo thứ tự ngày tháng về những sự kiện của đời sống mà tác giả là người trực tiếp tham gia hay chứng kiến; thường bộc lộ suy nghĩ, thái độ và cách đánh giá của người viết về con người, cuộc đời và chính bản thân mình.
+ Đặc điểm nổi bật: tính phi hư cấu; sử dụng một số thủ pháo nghệ thuật như miêu tả, trần thuật,...
+ Cuốn nhật kí thể hiện một tình yêu lớn lao, một tình người gắn với lí tưởng sống, lẽ sống của cuộc đời chiến sĩ trẻ tuổi, đó là tình cảm với nhân dân, với đồng đội.
* Phân tích văn bản
- Tính phi hư cấu: thể hiện qua tính chân xác của con người, bối cảnh, sự kiện
+ Bối cảnh: Tháng 01 năm 1970 (trang nhật kí này được bác sĩ Đặng Thuỳ Trâm viết ngày 13 tháng 01 năm 1970, tại bệnh xá Đức Phổ - nơi công tác của chị). Xét về thời điểm, đây là thời điểm thuộc giai đoạn đấu tranh ác liệt nhất của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ. Xét về địa điểm, bệnh xá Đức Phổ (Quảng Ngãi) là bệnh xá tiền phương, nơi đón nhận các thương bệnh binh của quân đội ta. Là bệnh xá trưởng của bệnh xá này, bác sĩ Đặng Thuỳ Trâm cùng các anh chị em đồng nghiệp của mình hằng ngày phải đối diện với rất nhiều đau thương, thậm chí cả hi sinh, mất mát. Họ không chỉ phải vững chuyên môn để cứu thương mà còn phải vững tâm, vững chí cùng bộ đội, chiến sĩ vượt qua những thương đau.
+ Nhân vật xuất hiện trong văn bản là bác sĩ Đặng Thuỳ Trâm (Thuỳ, Th.) - người trực tiếp ghi lại những dòng nhật kí này - chủ thể trữ tình của văn bản và M. (Mạnh) - người yêu của bác sĩ Thuỳ.
+ Câu chuyện được tái hiện ngắn gọn trong văn bản là chuyện tình yêu giữa Th. và M. trong bối cảnh chiến tranh và quyết định chia tay với M. của Th.. Theo đó, đây là một câu chuyện thuộc về tình cảm riêng tư của bác sĩ Đặng Thuỳ Trâm. Song, qua văn bản, người đọc có thể cảm nhận sâu sắc nỗi lòng cũng như vẻ đẹp nhân cách của người con gái này.
⟶ Tính phi hư cấu khiến câu chuyện hiện lên chân thực, sinh động mà vẫn chứa chan cảm xúc đời thường.
- Sự đan xen giữa miêu tả với trần thuật:
+ Biểu hiện của trần thuật và miêu tả trong văn bản:
• Trần thuật: thể hiện qua chuỗi sự việc được tái hiện
o Tám năm về trước, Th. tiễn M. đi Nam chiến đấu. Sau đó, theo tiếng gọi của Tổ quốc và Tình yêu, Th. cũng lên đường vào Nam.
o Ba năm trong chiến trường miền Nam, hai người chỉ gặp nhau hai lần.
o Lần gặp sau cùng, Th. quyết định chia tay M. vì cảm thấy tự ái trong tình yêu với M.
• Miêu tả: chủ yếu thể hiện qua sự tái hiện diễn biến tình cảm, cảm xúc trong nhân vật Thuỳ
• Chi tiết miêu tả bối cảnh: dưới rặng cây trên con đường cũ ⟶ chi tiết góp phần tái hiện cụ thể bối cảnh chia tay, đồng thời thể hiện sự khắc ghi của nhân vật Thuỳ về khoảnh khắc chia xa thiêng liêng giữa chị với người yêu.
• Chi tiết miêu tả sự việc: không một lời hứa hẹn, không một giọt nước mắt trong buổi chia tay ⟶ chi tiết phản ánh lí trí, sự rắn rỏi, kiên gan của hai người yêu nhau trong khoảnh khắc chia tay, một người ở lại, một người vào chiến trường chiến đấu. Dù không diễn tả cụ thể nhưng chi tiết cho phép người đọc hình dung về sự đồng lòng, chung lí tưởng của hai người. Cả người đi và người ở đều cùng nhận thức sâu sắc về sứ mệnh của bản thân, của tuổi trẻ, đều thấy rõ sự cần thiết của việc đặt trách nhiệm với Tổ quốc lên trước tình yêu đôi lứa.
• Yếu tố miêu tả được thể hiện nhiều hơn qua sự tái hiện diễn biến tình cảm, cảm xúc trong nhân vật Thuỳ: tình yêu thiết tha chung thủy; cuộc đời thật lắm nỗi éo le; khi gặp nhau mình đã để cho lòng tự ái ngự trị lên trên tình yêu; trái tim sôi nổi yêu thương; chỉ mong rằng dù giữa bom rơi, đạn nổ giữa lửa khói chiến trường tình yêu vẫn sáng ngời rực rỡ. ⟶ Các chi tiết tập trung miêu tả rõ nét diễn biến tâm trạng của Th., những xúc cảm của chị trong tình yêu giữa chị và M. từ khi chị vào chiến trường: Chị vẫn tha thiết yêu M. song có lẽ chị mong chờ nhiều hơn ở anh một sự quan tâm nồng nhiệt của một tình yêu lứa đôi thực sự dẫu họ đang trong hoàn cảnh chiến tranh.
⟶ Sự đan xen giữa miêu tả với trần thuật giúp sự kiện và con người hiện lên sinh động; văn bản không đơn thuần thông tin sự việc mà còn bộc lộ rõ nét tâm tư, nỗi lòng của nhân vật trữ tình (người ghi nhật kí).
- Hình tượng nhân vật trong văn bản:
+ Hoàn cảnh: Bác sĩ Đặng Thuỳ Trâm là bệnh xá trưởng tại bệnh xá Đức Phổ (Quảng Nam). Chị có người yêu tên là M., hai người đã có tình cảm với nhau khá lâu trước đó. Anh M. vào chiến trường miền Nam rồi sau đó chị Th. cũng vào. Song, do hoàn cảnh chiến tranh, suốt ba năm cùng chiến trường nhưng anh chị chỉ gặp nhau được hai lần.
+ Tâm hồn, tính cách: Khác với nhiều trang nhật kí trong hai cuốn sổ nhỏ chị ghi chép thường ngày (nhật kí Đặng Thuỳ Trâm được chị ghi trong hai cuốn sổ), trang nhật kí này của bác sĩ Đặng Thuỳ Trâm là những dòng viết chân thực về tình cảm cá nhân với những cảm xúc, suy nghĩ thành thực của chị về anh M., về tình yêu của hai người và cảm nghĩ của chính chị. Những dòng viết của chị tuy không dài nhưng đủ để người đọc hình dung về một người con gái giàu cảm xúc với rất nhiều vẻ đẹp trong tâm hồn, nhân cách:
• Giàu tình cảm: Nỗi tiếc nuối trước sự chia li trong tình yêu (Không thể nào mình lại nghĩ sự việc lại như bây giờ.); nhớ nhung, yêu thương những kỉ niệm đẹp đẽ (nhớ lại ngày chị tiễn anh đi Nam tám năm về trước);...
• Một trái tim con gái với tình yêu trong sáng, mãnh liệt, thành thực song cũng đầy tự trọng, lí trí:
o Sâu sắc, mãnh liệt: Khi xa nhau mình đã thiết tha thầm gọi tên M. trong từng giây từng phút; chỉ mong rằng dù giữa bom rơi, đạn nổ giữa lửa khói chiến trường tình yêu vẫn sáng ngời rực rỡ. Các chi tiết khắc hoạ tình yêu sôi nổi, thuỷ chung, đằm thắm chị dành chọn cho người yêu.
o Đầy tự ái: nhưng khi gặp nhau mình đã để cho lòng tự ái ngự trị lên trên tình yêu. Chính anh M. cũng đã viết rất đúng về tình cảm của chị: “Th. có tình yêu đắm say mãnh liệt thủy chung và nhiều tự trọng.”.
o Lí trí: nếu để cho mình quá ít yêu thương thì... không thể đáp ứng với trái tim sôi nổi yêu thương của mình; M. đã không làm được như vậy và mình đã bắt con tim mình phải quên đi những gì đã nuôi sống nó trong hơn mười năm nay.; Và để giải quyết được cũng không một ý kiến nào ngoài ý kiến của hai đứa.
• Một người trẻ có lí tưởng cao đẹp, lối sống đẹp đẽ, giàu nhiệt huyết:
o Lí tưởng cao đẹp: mình đã lên đường vào Nam theo tiếng gọi của Tổ quốc và Tình yêu, Tổ quốc và Tình yêu đã trở thành động lực mạnh mẽ thôi thúc người con gái bé nhỏ dấn thân vào nơi chiến trường mưa bom bão đạn; Ở đây mình cũng sẽ dành trọn cuộc sống cho chiến đấu và công tác - không thể nào có tình yêu nào được, khi tình yêu không tròn vẹn, chị không để mình đắm chìm vào sầu khổ, bi luỵ mà kiên trung, dồn hết tình yêu cho Đảng, cho cách mạng.; Cuộc đời đã dành cho ta một đoạn đường như vậy thì hãy ráng mà đi, chị kiên cường, cứng cỏi động viên chính mình mạnh mẽ vượt qua, không để bản thân yếu mềm trước hoàn cảnh mà nhiều người con gái chỉ biết rơi nước mắt.
o Những dòng cuối cùng của trang nhật kí này dẫu ghi lại tình cảm sau cùng Thuỳ dành cho anh M. nhưng người đọc vẫn có thể cảm nhận được sâu sắc hình ảnh của một người trẻ với lối sống đẹp, giàu lí tưởng, giàu nhiệt huyết với đồng chí, đồng đội của mình: Chúc M., người đồng chí yêu thương lên đường bình an - gởi theo M. ngàn vạn nhớ thương, tình nhớ thương của một người bạn và một người đồng chí.
⟶ Sự kết hợp giữa chi tiết, sự kiện hiện thực với trải nghiệm, cảm xúc, suy nghĩ của người viết khiến trang nhật kí không chỉ chứa đựng thông tin mà còn chứa đựng tình cảm, tư tưởng sâu sắc: Người con gái khi yêu không nên quá đắm chìm trong cảm xúc lứa đôi, tình yêu cần lí trí soi đường để không ai đánh mất lòng tự trọng trong chính tình yêu của mình; và trong hoàn cảnh chiến tranh, một trái tim yêu đương sôi nổi bao nhiêu cũng cần biết từ bỏ, nhường chỗ tình cảm cá nhân cho trách nhiệm với Tổ quốc. Đó cũng chính là những ý nghĩa lớn lao, những thông điệp giá trị mà trang nhật kí mang đến người đọc chúng ta.
* Đánh giá chung
- Văn bản đã tái hiện chân thực cảm xúc, suy nghĩ riêng tư của chiến sĩ - bác sĩ Đặng Thuỳ Trâm. Tại đó, người đọc được chứng kiến hình ảnh của một con người cá nhân, một cô gái không chỉ say mê sống với lí tưởng cao đẹp mà còn được bắt gặp một trái tim yêu nồng nàn, tha thiết nhưng đầy tự trọng, đáng trân quý.
- Văn bản khiến người đọc càng thêm yêu thương, kính trọng trước nhân cách cao đẹp, đức hi sinh cao cả của chiến sĩ - bác sĩ Đặng Thuỳ Trâm nói riêng và cả một thế hệ thanh niên thời đại chống Mỹ nói chung.