I. ĐỌC HIỂU (4,0 điểm)
Đọc đoạn trích:
“Kenya cũng rất nổi tiếng với nhiều khu bảo tồn hoang dã, trong đó Amboseli dưới chân núi Kilimandjaro, là địa chỉ du lịch rất hấp dẫn với những ai yêu thiên nhiên. Người dân của nước này có một câu ngạn ngữ rất thời sự. Đại ý rằng: Con người nên đối xử tử tế với Trái Đất, vì nó không phải là một món quà từ cha mẹ ta, mà là món tiền ta vay từ con cái ta.
[...]
Trên mạng nhiều bạn học trò tham gia phong trào Greenager chuyền tay một đường link tải cuốn eBook có tựa là Silent Spring (Mùa Xuân lặng lẽ) của Rachel Carson viết năm 1962. Nhà sinh vật học Rachel Carson là người khởi xướng cho phong trào bảo vệ môi trường trên toàn thế giới, sau khi cuốn “Mùa Xuân lặng lẽ” được xuất bản. Carson chỉ ra viễn cảnh “những mùa Xuân lặng lẽ” đang chờ đợi mỗi chúng ta. Khi những vòm cây không còn chim về cất tiếng hót lúc Xuân đến. Khi con người thờ ơ với sự tàn phá thiên nhiên.
Cách đây chỉ vài năm, khi trạm đo mưa thượng nguồn báo tin mưa to, phải hai ngày sau, nước lũ mới đổ về đến bến Thương Bạc ở Huế. Bây giờ, chỉ cần vài giờ là nước đã đục ngầu hạ nguồn sông Hương, tràn bờ tràn bãi. Những cánh rừng bị đốn hạ, lối sống và hướng phát triển bất chấp của con người đã khiến thiên nhiên trở nên hung bạo, thời tiết biến thành cực đoan.
Và không chỉ lụt lội, khô hạn. Còn đó những hiểm hoạ ô nhiễm nguồn nước, ô nhiễm không khí, bất an với vệ sinh thực phẩm...
Biến đổi khí hậu vì thế giờ đây trở thành vấn đề toàn cầu. Trở thành những bàn luận thường ngày và hành động tình nguyện thiết tha, cụ thể với những Greenager, những Gogreen...của thế hệ học trò hôm nay.”
(Trích Để không có những mùa xuân lặng lẽ, theo Bay xuyên qua những tầng mây, Hà Nhân, NXB Văn học, 2016)
Thực hiện các yêu cầu:
Câu 1 [704967]: Chỉ ra phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong đoạn trích.
Phương thức biểu đạt chính: nghị luận.
Câu 2 [704968]: Theo đoạn trích, những gì đã khiến thiên nhiên trở nên hung bạo, thời tiết biến thành cực đoan?
Theo đoạn trích, những điều khiến thiên nhiên trở nên hung bạo, thời tiết biến thành cực đoan: những cánh rừng bị đốn hạ, lối sống và hướng phát triển bất chấp của con người.
Câu 3 [704969]: Con người nên đối xử tử tế với Trái Đất, vì nó không phải là một món quà từ cha mẹ ta, mà là món tiền ta vay từ con cái ta.
Anh/ Chị hiểu ý kiến trên như thế nào?
Con người nên đối xử tử tế với Trái Đất, vì nó không phải là một món quà từ cha mẹ ta, mà là món tiền ta vay từ con cái ta.
Ý kiến hàm ý nhắc nhở thế hệ hiện tại hãy ứng xử tử tế đối với Trái Đất vì thế hệ con cháu của chúng ta - thế hệ hiện tại - được chúng ta sinh ra (chính những đứa trẻ không được quyền chọn sinh ra hay không), được chúng ta trao cho sự sống thì cũng cần được trao cho một điều kiện sống, môi trường sống an lành để duy trì sự sống ấy. Nói cách khác, trách nhiệm bảo vệ môi trường sống cho thế hệ sau là trọng trách của chính những con người ở thế hệ hiện tại. Nếu chúng ta khai thác đến kiệt quệ tài nguyên thiên nhiên, khiến môi trường sống ngày càng trở nên tồi tệ thì chúng ta đã “vay” và thậm chí không thể trả những gì lẽ ra thuộc về thế hệ sau.
Câu 4 [704970]: Và không chỉ lụt lội, khô hạn. Còn đó những hiểm hoạ ô nhiễm nguồn nước, ô nhiễm không khí, bất an với vệ sinh thực phẩm...
Những câu văn trên bộc lộ thái độ nào của người viết trước vấn đề được bàn luận?
Thái độ của người viết:
- Lo lắng, trăn trở, thoáng chút bất lực trước thiên tai và hiểm họa ô nhiễm môi trường.
- Cảnh tỉnh chính mình và mọi người về trách nhiệm phải bảo vệ môi trường, chống lại biến đổi khí hậu.
Câu 5 [704971]: Nêu một bài học anh/chị nhận được từ đoạn trích.
Thí sinh có thể nêu một trong số các bài học nhận được từ đoạn trích (miễn là hợp lí, thuyết phục), chẳng hạn:
- Hãy tích cực, nỗ lực bảo vệ môi trường sống/ bảo vệ thiên nhiên.
Hoặc
- Mọi ứng xử thô bạo của con người đối với thiên nhiên đều bị trả giá.
- ...
II. VIẾT (6,0 điểm)
Câu 6 [704972]: (2,0 điểm)
Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về những đóng góp người trẻ hôm nay để không có những mùa xuân lặng lẽ.
Đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ về những đóng góp người trẻ hôm nay để không có những mùa xuân lặng lẽ có thể được triển khai theo hướng:
- Về nhận thức: Nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng của thiên nhiên đối với đời sống con người; về những tác động từ mọi ứng xử của con người đối với thế giới tự nhiên (Những tác động tích cực sẽ làm cho môi trường thiên nhiên trở nên thân thiện, an toàn, góp phần tạo nên môi trường sống trong lành, thân thiện với con người và ngược lại, những tác động tiêu cực chắc chắn sẽ khiến cho thiên nhiên nổi giận và con người bị trả giá. Những siêu bão như Haiyan (2013), Yagi (2024),..., cơn động đất, sóng thần ở Nhật Bản (2011),... là minh chứng cho sự nổi giận của thiên nhiên nhằm cảnh tỉnh con người về thái độ ứng xử với thiên nhiên);...
- Về hành động: Bất cứ ai trong chúng ta, đặc biệt là những người trẻ hoàn toàn có thể đóng góp để không có những mùa xuân lặng lẽ từ chính những việc nhỏ nhặt nhất (như trồng thêm một cây xanh; tiết kiệm điện, nước khi không cần thiết sử dụng; bỏ rác đúng nơi quy định; phân loại rác;...) đến những việc lớn hơn (như tích cực tuyên truyền tới người thân, bạn bè, những người xung quanh về ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu,... và kêu gọi hành động từ mọi người),...
Câu 7 [704973]: (4,0 điểm)
Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) phân tích bài thơ sau:
CHIỀU HÔM NHỚ NHÀ
(Bà Huyện Thanh Quan)
Chiều trời bảng lảng bông hoàng hôn,
Tiếng ốc xa đưa vảng trống đồn.
Gác mái, ngư ông về viễn phố,
Gõ sừng, mục tử lại cô thôn.
Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi,
Dặm liễu sương sa khách bước dồn,
Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ
Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn
(Theo Các nhà thơ nữ Việt Nam sáng tác và phê bình, NXB Giáo dục, 2001)
Bài phân tích bài thơ Chiều hôm nhớ nhà (Bà Huyện Thanh Quan) có thể được triển khai nhiều cách. Song cần bảo đảm các ý:
* Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm
- Bà Huyện Thanh Quan là một trong số nữ sĩ tài danh hiếm có trong thời kì văn học trung đại, hiện còn lại sáu bài thơ Đường luật.
- Chiều hôm nhớ nhà: một trong những thi phẩm đặc sắc của Bà Huyện Thanh Quan.
+ Đề tài: hoài hương (giãi bày nỗi lòng, tâm sự của người đang phải xa quê nhà).
+ Nhân vật trữ tình: tác giả.
+ Cảm hứng chủ đạo: nỗi niềm nhớ thương quê hương xưa cũ.
+ Bố cục: đề - thực - luận - kết.
* Phân tích bài thơ
Cần làm rõ các nét đặc sắc về nghệ thuật và nội dung của tác phẩm:
- Về nghệ thuật: thể thơ, ngôn ngữ, hình ảnh, thi liệu, nghệ thuật đối..., đậm màu sắc cổ điển
- Về nội dung: nỗi nhớ quê hương của lữ khách tha hương.
(Bài viết của thầy Lã Nhâm Thìn dưới đây là một mẫu mực cho sự phân tích bài thơ này.)
* Đánh giá chung
Chiều hôm nhớ nhà là một bài thơ Nôm Đường luật đặc sắc, điển hình cho phong cách thơ Bà Huyện Thanh Quan.
<*> Tham khảo bài viết:
Trong văn học Việt Nam, thơ Bà Huyện Thanh Quan cũng là một hiện tượng đặc biệt: số bài thơ hiện còn chưa quá mười bài nhưng bà đã để lại một di sản văn học thật quý hiếm. Tầm cỡ một thi nhân chỉ với năm sáu bài thơ mà đã làm nên một phong cách lớn - một phong cách riêng trong hệ thống nghiêng về phi ngã của phạm trù mĩ học trung đại - văn học thế giới cũng không phải là phổ biến. Thơ Bà Huyện Thanh Quan đúng là một hiện tượng điển hình cho chân lí nghệ thuật “quý hồ tinh bất quý hồ đa”.
Người ta thường nói thơ Bà Huyện Thanh Quan đã đem đến văn học Việt Nam một gương mặt “hoài cổ”. Nhưng hoài cổ thì đâu chỉ riêng Thanh Quan. Hoài cổ là cảm hứng chung của cả nền văn học trung đại, khi mà tư tưởng thẩm mĩ là hướng về quá khứ, hướng về khuôn mẫu của tiền nhân với quan niệm thời hoàng kim là thời đã qua. Cái làm nên sức hấp dẫn, làm nên nét riêng của thơ Thanh Quan là hoài cổ mà không quên hiện tại và hoài cổ trong nỗi niềm hoài hương.
Bài “Chiều hôm nhớ nhà” cùng với “Thăng Long thành hoài cổ”, “Qua Đèo Ngang” làm thành chùm thơ ba bài nổi tiếng - cho ta hiểu nét đẹp riêng đó của thơ Bà Huyện Thanh Quan.
Mở đầu bài thơ là hai câu gợi tả cảnh buổi chiều:
           Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn,
           Tiếng ốc xa đưa vẳng trống đồn.
Có cảm giác như tác giả chú ý trước hết đến thời gian. Cách dùng từ “chiều trời” - đưa “chiều” lên trên là cách nhấn mạnh trước hết đến thời gian, khác với cách viết đưa “trời” lên trước để nhấn mạnh vào không gian. Thời gian còn được cảm nhận qua “tiếng trống đồn” khá gấp gáp. Ấn tượng sâu đậm về thời gian buổi chiều là hoàn toàn phù hợp với quy luật tâm lí. Chính ở cái thời điểm chiều hôm ấy lòng người thường dội lên bao nỗi nhớ. Người phụ nữ trong ca dao: “Chiều chiều lại nhớ chiều chiều - Bâng khuâng nhớ mẹ chín chiều ruột đau”. Thuý Kiều khi ở lầu Ngưng Bích: “Buồn trông cửa bể chiều hôm - Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa”. Thi sĩ Thôi Hiệu thời Đường, trên lầu Hoàng Hạc: “Nhật mộ hương quan hà xứ thị - Yên ba giang thượng sử nhân sầu” (Quê hương khuất bóng hoàng hôn - Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai - Tản Đà dịch).
Sau ấn tượng về thời gian là ấn tượng về không gian. Không gian được cảm nhận qua hình tượng và âm thanh. Hai từ “bảng lảng” diễn tả bóng hoàng hôn chập chờn, lờ mờ, không rõ nét, ánh nắng nhạt dần nhưng chưa tắt hẳn, tạo nên những khoảng sáng tối đan xen. Âm thanh “Tiếng ốc xa đưa” gợi một không gian rộng và có phần vắng lặng. Âm thanh của “tiếng trống đồn” kia tuy có phần gấp gáp nhưng cũng là âm thanh từ xa vọng lại lẫn vào thinh không. Từ hình tượng đến âm thanh đều gợi lên một không gian mờ ảo. Không gian, và cả thời gian, đã diễn tả tâm trạng tác giả: một nỗi nhớ vừa cụ thể vừa mơ hồ không xác định.
Cảnh chiều hôm được gợi tả cụ thể hơn trong hai câu thực và hai câu luận. Ở đây có sự kết hợp giữa bút pháp tượng trưng ước lệ quen thuộc của thơ cổ và đôi ba nét bút cụ thể. Trong bốn hình ảnh đã trở thành công thức, ước lệ của thơ cổ là ngư, tiêu, canh, mục thì ở câu thực tác giả đã lấy ra hai hình ảnh “ngư ông” và “mục tử”:
           Gác mái, ngư ông về viễn phố,
           Gõ sừng, mục tử lại cô thôn.
Những từ Hán Việt xuất hiện nhiều trong hai câu thực đã đem đến cho bức tranh cảnh chiều hôm những đường nét thanh nhẹ, chuyển cảnh thực ngoài đời thành bức tranh thuỷ mặc. “Các từ Hán - Việt nữ thi sĩ dùng đã đẩy ta vào thế giới muôn đời. Trên đời chỉ có những ông chài, những thôn vắng, những trẻ chăn trâu,... làm gì có những ngư ông, những viễn phố, những mục tử, những cô thôn?... Bằng cách này Bà Huyện Thanh Quan kéo ta về cõi vĩnh viễn của ý niệm và nỗi u hoài của nhà thơ là nỗi u hoài của cái kiếp người không biết đến tháng năm, thời đại” .
Hình ảnh trong hai câu luận cũng là hình ảnh quen thuộc của văn chương cổ: dặm liễu, ngàn mai, cánh chim, người lữ khách. Thơ xưa khi viết về buổi chiều thường điểm xuyết một vài cánh chim bay về núi, rừng để gợi tả thời gian, gợi sự hiu hắt: “Chim bay về núi tối rồi” (Ca dao), “Chim hôm thoi thót về rừng” (“Truyện Kiều”).
Hình ảnh trong hai câu luận bài “Chiều hôm nhớ nhà” cũng được lấy ra từ văn chương cổ nhưng lại rất phù hợp với hoàn cảnh, tâm trạng nhà thơ. Để đạt tới sự tinh tế này, nữ thi sĩ đã gợi tả cảnh chiều hôm với ít nhiều nét bút cụ thể. Giữa hai câu thực và hai câu luận có sự đối lập trong trạng thái hoạt động nhưng đó là sự đối lập thống nhất. Hành động “gác mái” của ngư ông, “gõ sừng” của mục tử gọi sự chậm rãi, thảnh thơi, ngược lại hoạt động “bay mỏi” của cánh chim, “bước dồn” của lữ khách lại gợi sự dồn dập, gấp gáp. Tuy nhiên, nét thống nhất của những hành động đó là đều hướng tới sự nghỉ ngơi. Cũng vậy, các chuyển động toả ra nhiều phương (kẻ về, người lại, cánh chim trên không, bước chân trên đường) nhưng tất cả đều quy về một hướng: trở lại, trở về tổ ấm. Trong sự trở về chung đó, trừ người lữ thứ (người xa nhà, đang sống trên đất khách quê người) là chưa biết về đâu. Cách gợi tả này rất phù hợp với thực tế khách quan. Sự xuất hiện nhiều động từ thuần Việt trong hai câu thực và hai câu luận có giá trị biểu cảm cao. Nếu các danh từ Hán - Việt “ngư ông”, “viễn phố”, “mục tử”, “cô thôn” đã đẩy ta vào thế giới muôn đời thì các động từ thuần Việt “gác”, “về”, “gõ”, “lại”, “cuốn”, “bay”, “sa”, “bước” lại đưa ta trở về với thế giới hiện thực cụ thể, sinh động.
Chính sự kết hợp giữa bút pháp ước lệ và nét bút cụ thể đã tạo ra bức tranh cảnh chiều hôm vừa như thuộc dĩ vãng vừa như đang diễn ra trong hiện tại, sinh động ở trước mắt. Qua hai câu thực và hai câu luận, người đọc cảm nhận có hoàng hôn muôn đời trong một hoàng hôn cụ thể, có hoàng hôn chung của mọi người trong hoàng hôn riêng của một người. Điều đó cho thấy nỗi nhớ nhà sâu sắc của tác giả, nỗi nhớ như vĩnh viễn vào không gian, thời gian, hoà nhập giữa cái riêng và cái chung. Trong hai câu thực và luận, tác giả đã sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình. Các hình tượng không gian gợi sự xa xăm (“viễn phố”), đơn vắng (“cô thôn”), hiu hắt (“sương sa”) thể hiện tâm trạng cô quạnh, nỗi nhớ nhà u hoài của kẻ tha hương.
Tâm trạng của nhà thơ được thể hiện sâu sắc và trực tiếp hơn trong hai câu kết. Câu thứ bảy mang hai hình tượng đối lập: “Kẻ chốn Chương Đài - người lữ thứ”. Cũng như trong toàn cảnh hoàng hôn, luôn chứa đựng hai thực trạng đối lập: tất cả trở về tổ ấm, trở về gia đình, riêng người lữ thứ chưa biết về đâu vẫn bơ vơ, cô quạnh trên đường. Chính sự đối lập này đã gợi lên trong lòng người lữ thứ “nỗi hàn ôn” chất chứa niềm tâm sự. Hoàn cảnh và tâm trạng người lữ thứ chính là hoàn cảnh, tâm trạng tác giả. Vì nữ sĩ cũng đang trong hoàn cảnh xa nhà, không biết:
           Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn
Có cảm giác nhà thơ đang trong tâm trạng cô đơn, cô đơn đến độ tuyệt đối. Muốn được chia sẻ nỗi niềm nhưng không có điều kiện. Giữa người và cảnh, giữa người với người, tất cả là một thế giới gián cách, chia lìa. Cảm giác này ta đã bắt gặp trong “Qua Đèo Ngang”:
           Dừng chân đứng lại, trời non nước,
           Một mảnh tình riêng, ta với ta.
trong “Thăng Long thành hoài cổ”:
           Cảnh đấy, người đây, luống đoạn trường.
Cảm nhận về sự cô đơn, về tâm trạng riêng của nữ sĩ không chỉ khắc hoạ sâu sắc nỗi niềm nhớ nước, nhớ nhà mà còn ngời lên vẻ đẹp nhân bản: con người đối diện với mình, nhận thức về mình, con người với những khát vọng hạnh phúc đơn sơ bình dị, hạnh phúc sum họp gia đình. Để có vẻ đẹp nhân bản này, hồn thơ Thanh Quan đã hoà đồng cùng thời đại - thời đại của trào lưu nhân đạo chủ nghĩa, con người đã bước đầu ý thức về cá nhân mình. Vì vậy trong một phong cách trang trọng, đài các, một phong cách Đường thi chuẩn mực, thơ Bà Huyện Thanh Quan vẫn không tan biến vào cái chung, không hoà cái riêng vào cái chung như một tư tưởng thẩm mĩ cốt lõi vốn có của thơ Đường. Thơ Bà Huyện Thanh Quan vẫn để lại một bản ngã - cả về nội dung cảm xúc và hình thức nghệ thuật - không phai mờ trong văn học Việt Nam.
(Theo Lã Nhâm Thìn, Phân tích tác phẩm văn học Trung đại Việt Nam từ góc nhìn thể loại, NXB Giáo            dục Việt Nam, 2019)