I. ĐỌC HIỂU (4,0 điểm)
Đọc đoạn trích:
“Không chỉ là “hành động”, mà còn phải là “hành động ngay lập tức”. Tuyên bố Glasgow - được đưa ra tại Hội nghị lần thứ 26 Các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về Biến đổi khí hậu (COP26) - đánh dấu sự đồng thuận giữa các bên liên quan ngành du lịch toàn cầu, về khả năng của ngành trong việc áp dụng lộ trình carbon thấp cũng như mục tiêu cắt giảm 50% lượng khí thải vào năm 2030, tiến tới phát thải ròng hạ xuống mức 0 vào năm 2050.
Một tiến trình chung đã được Tổ chức Du lịch Liên hợp quốc (UN Tourism) phác thảo qua Báo cáo thực hiện Tuyên bố Glasgow lần đầu (năm 2023). Báo cáo trình bày kết quả của một đánh giá có hệ thống, về tất cả các bản cập nhật tiến độ từ các bên tham gia kí kết Tuyên bố Glasgow. Nó thể hiện sự nghiêm túc của ngành du lịch quốc tế, trước đòi hỏi hành động nhằm chặn đứng các hệ lụy từ tình trạng biến đổi khí hậu cũng như ô nhiễm môi trường - “kẻ thù” của “ngành công nghiệp không khói”.
[...]
Singapore, quốc gia láng giềng của chúng ta trong khu vực Đông Nam Á, là một thí dụ điển hình và mẫu mực. Trong thực tiễn, bao trùm lên cả khái niệm “Du lịch Net Zero” , Singapore đã xây dựng cả một thiết chế phát triển bền vững với các trụ cột “kinh tế xanh”. Từ năm 2021, Kế hoạch Xanh Singapore 2030 đã nêu ra các mục tiêu cụ thể, phù hợp Chương trình nghị sự Phát triển bền vững 2030 của Liên hợp quốc và Thỏa thuận Paris, nhắm tới đích hạ mức phát thải ròng xuống bằng 0 vào năm 2050.
Các mục tiêu chính theo Kế hoạch xanh của Singapore bao gồm: Tăng thêm 1.000 ha không gian xanh vào năm 2035; tăng gấp năm lần mức triển khai năng lượng mặt trời; và tăng sản lượng lương thực địa phương để đáp ứng 30% nhu cầu của cả nước. Nói cách khác, đây là một kế hoạch tổng thể, toàn diện, đầy tham vọng, mà trong đó du lịch bền vững là một bộ phận cấu thành, cũng được hưởng lợi rất nhiều từ quyết sách này.
Sau ba năm triển khai, Singapore đã có thể tự hào tuyên bố: “Việc tham dự bất cứ sự kiện nào tại quốc gia của chúng tôi đều không phải trả giá đắt cho môi trường”. Bên cạnh chuyện có thể di chuyển khắp đảo quốc Sư tử bằng xe điện, tổ chức các cuộc họp tại vô số tòa nhà đã được trao chứng nhận Green Mark (Giá trị Xanh), các vị khách cũng có thể thoải mái lựa chọn nơi lưu trú phù hợp ngân sách, từ số lượng lớn các khách sạn xanh.
(Trích Từ tuyên bố Glasgow tới những hình mẫu bền vững - Thiên Thư, theo nhandan.vn)
Thực hiện các yêu cầu:
Câu 1 [701569]: Chỉ ra nội dung chính của đoạn trích.
Nội dung chính của đoạn trích: nỗ lực hành động của ngành du lịch quốc tế trong việc chặn đứng các hệ luỵ từ biến đổi khí hậu cũng như ô nhiễm môi trường.
Câu 2 [701570]: Theo đoạn trích, kẻ thù của ngành du lịch quốc tế là gì?
Theo đoạn trích, kẻ thù của ngành du lịch quốc tế là tình trạng biến đổi khí hậu cũng như ô nhiễm môi trường.
Câu 3 [701571]: Việc viện dẫn Singapore như là một ví dụ điển hình và mẫu mực cho tuyên bố Glasgow có ý nghĩa gì?
Việc viện dẫn Singapore như là một ví dụ điển hình và mẫu mực cho tuyên bố Glasgow có ý nghĩa:
- Khẳng định nỗ lực của quốc gia này trong việc thực hiện Tuyên bố Glasgow về đóng góp của ngành du lịch trong việc chặn đứng các hệ luỵ từ biến đổi khí hậu cũng như ô nhiễm môi trường.
- Nêu gương tới các quốc gia khác trong khu vực Đông Nam Á và trên thế giới về nỗ lực “hành động” và “hành động ngay lập tức” trong việc chặn đứng các hệ luỵ từ biến đổi khí hậu cũng như ô nhiễm môi trường.
- Khẳng định việc chặn đứng các hệ luỵ từ biến đổi khí hậu cũng như ô nhiễm môi trường hoàn toàn có thể thực hiện được nếu các quốc gia “hành động ngay lập tức”.
Câu 4 [701572]: Nêu tác dụng của biện pháp tu từ được sử dụng trong cụm từ khách sạn xanh (in đậm).
- Biện pháp tu từ được sử dụng trong cụm từ khách sạn xanh: ẩn dụ.
- Tác dụng: gợi hình ảnh không gian lưu trú tồn tại giữa thiên nhiên (được vây bọc bởi thiên nhiên); hoà hợp với thiên nhiên (hoà hợp: không gây ra những tác hại, hệ luỵ làm ảnh hưởng tới thiên nhiên, ví dụ: giảm thiểu lượng carbon phát thải ra môi trường).
Câu 5 [701573]: Anh/Chị có đồng tình với “mệnh lệnh” “hành động ngay lập tức” trong tuyên bố Glasgow tại COP16 không? Vì sao?
Thí sinh có thể đồng tình/ không đồng tình/ đồng tình một phần với “mệnh lệnh” “hành động ngay lập tức” trong tuyên bố Glasgow tại COP16; tuy nhiên, cần lí giải rõ lí do. Chẳng hạn:
- Tôi hoàn toàn đồng tình với “mệnh lệnh” “hành động ngay lập tức” trong tuyên bố Glasgow tại COP16 vì ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu đã trở thành vấn đề vô cùng cấp thiết đối với thời đại của chúng ta. Mọi sự trì hoãn, chậm trễ trong hành động lúc này có thể gây nên những hệ luỵ nghiêm trọng khiến cho tình trạng ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu trở nên tệ hơn nữa.
Hoặc:
- Tôi không đồng tình với “mệnh lệnh” “hành động ngay lập tức” trong tuyên bố Glasgow tại COP16 vì bất cứ hành động nào cũng cần có sự chuẩn bị kĩ lưỡng ở nhiều phương diện trước đó. Việc “hành động ngay lập tức” nếu thiếu đi những sự chuẩn bị hoặc những điều kiện cần thiết khó có thể thành công.
II. VIẾT (6,0 điểm)
Câu 6 [701574]: (2,0 điểm)

Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) trả lời câu hỏi: Người trẻ hôm nay cần làm gì để không phải trả giá đắt cho môi trường?.
Đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) trả lời cho câu hỏi: Người trẻ hôm nay cần làm gì để không phải trả giá đắt cho môi trường? thực chất yêu cầu thí sinh bàn về trách nhiệm, đóng góp của thế hệ trẻ hiện đại trong việc bảo vệ môi trường. Đoạn văn có thể được triển khai theo theo hướng:
- Người trẻ cần nhận thức đúng thực trạng ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu ở nước ta cũng như trên toàn cầu cùng những hệ luỵ kéo theo từ thực trạng này; nhận thức về sứ mệnh, trách nhiệm của bản thân đối với môi trường sống hiện tại và tương lai. (Dẫn chứng: siêu bão Yagi đầu tháng 9/2024 đổ bộ vào Việt Nam gây ra những thiệt hại nghiêm trọng về người và tài sản; tình trạng hạn hán và xâm nhập mặn ở Đồng bằng sông Cửu Long đã khiến hàng chục nghìn hộ dân mất đất canh tác; ô nhiễm không khí ở các thành phố lớn như Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh đã khiến nhiều người mắc các bệnh hô hấp....)
- Người trẻ có thể tham gia bảo vệ môi trường từ những việc nhỏ nhặt thường ngày (như tiết kiệm nước, tiết kiệm điện, phân loại rác, bỏ rác đúng nơi quy định, trồng và bảo vệ cây xanh, bảo vệ các vật nuôi,...) đến những việc mang tính chất cộng đồng (như tuyên truyền, vận động mọi người chung tay bảo vệ môi trường; tham gia các dự án bảo vệ môi trường của các bạn trẻ tích cực như “Đổi rác lấy cây”, “Đổi giấy lấy cây”, thu gom rác thải nhựa; sáng lập các dự án bảo vệ môi trường;...).
Câu 7 [701575]: (4,0 điểm)
Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) so sánh hình tượng bác sĩ Đặng Thuỳ Trâm và chiến sĩ Nguyễn Văn Thạc trong hai đoạn trích:
(1) “27.4 69
[...] Chiều nay mình từ ngoài rừng trở lại bệnh xá, địch cách không xa - Mình nhìn lại những nếp nhà thân yêu mà lòng trào dâng một nỗi căm hờn. Những mái nhà này ghi nhận biết bao công sức của chúng ta. Bao nhiêu mồ hôi đã thấm trong từng cọng tranh, từng hòn đá xây nên những cơ sở này. Và nếu ra đi thì biết bao giờ mới có được một cơ sở điều trị như ở đây nữa. Không bi quan nhưng sao cứ lo âu suy nghĩ và xen lẫn một nỗi buồn kì lạ.
Đêm qua một giấc mơ hòa bình đã đến với mình giữa căn nhà lộn xộn vắng vẻ của cảnh chạy càn đó. Mình mơ thấy Hà Nội với những căn phòng lộng mát sơn màu vôi vàng nhạt của trường Chu Văn An, mơ thấy quyển sổ chép nhạc với hình ảnh một mớ tóc vàng tơ của bé Thanh Trà và bông cúc của Hảo đính trên đầu quyển sổ đó. Và mình đã gặp ba má, gặp cậu Hiền, gặp anh Biểu và tất cả mọi người thân yêu ngoài Bắc. Ôi, giấc mơ đâu là của riêng mình mà giấc mơ Hòa bình độc lập đã cháy bỏng trong lòng ba mươi triệu người Việt Nam và cả ba ngàn triệu nhân dân trên thế giới mình là giấc mơ Hoà bình độc lập đã cháy bỏng trong lòng ba mươi triệu người Việt Nam và cả ba ngàn triệu nhân dân trên thế giới.”
(Trích Nhật kí Đặng Thuỳ Trâm, NXB Hội Nhà văn, 2020)
(2) “7.1.1972
Cái đẹp đẽ của cuộc đời, cái tươi mới của cuộc đời nhất định không đến khi anh bo bo giữ gìn cái “tôi” của mình. Cũng có một thời kì như thế, mình luôn luôn lo lắng cho bản thân. Mình luôn hướng tới tương lai. Nhưng tương lai trong suy nghĩ của mình là một màu hồng rực rỡ pha chút gì ánh biếc phù hoa. Cái tương lai đó bó hẹp trong một hạnh phúc ngọt ngào, trong một niềm mê say học tập, nhưng học để mà học, để mà “có triển vọng”, nhưng mãi không thấy chút thành quả gì. Bởi ước mơ phù phiếm nên khi vấp phải thực tại khô khốc, mình chưa kịp quen ngay. Không ít thanh niên sớm chán nản với cuộc sống này, muốn trốn tránh, muốn hưởng thụ mặc dù bản thân mình chưa cống hiến được chút gì. Hình như mình cũng thuộc vào loại đó. Chán nản, buồn, buồn lắm, mênh mông như buổi tối tắt đèn...
Gặp nhiều người chán nản như thế, mình tự rút cho bản thân một điều quan trọng: Mình giống họ ư? Chẳng lẽ mình giống họ trong cái bi quan, hèn mạt ấy chăng?
Những ngày đó qua rồi. Mỗi ngày lại thêm một ngày đẹp đẽ. Ao ước gì ở ngày mai khi hôm nay được nhìn, được cảm cuộc sống xôn xao của dân tộc. Cô gái mặc áo da trời bơm thuốc trừ sâu, những gánh bùn lên cải tạo ruộng đồng sau trận lụt, và luỹ tre thân thuộc, bốn mùa lúc nào lá cũng xanh, lúc nào cũng thì thào muôn điều kì lạ... [...]”
(Trích Mãi mãi tuổi hai mươi, NXB Thanh niên, 2005)
Bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) so sánh hình tượng bác sĩ Đặng Thuỳ Trâm và chiến sĩ Nguyễn Văn Thạc trong hai đoạn trích có thể triển khai theo nhiều cách, song cần bảo đảm các ý:
* Giới thiệu ngắn gọn hai cuốn nhật kí Nhật kí Đặng Thuỳ Trâm Mãi mãi tuổi hai mươi
(Xem bài viết tham khảo bên dưới để có thêm thông tin)
* So sánh hình tượng bác sĩ Đặng Thuỳ Trâm và chiến sĩ Nguyễn Văn Thạc trong hai đoạn trích
- Cơ sở so sánh: Bác sĩ Đặng Thuỳ Trâm và chiến sĩ Nguyễn Văn Thạc là nhân vật trữ tình - tác giả của hai cuốn nhật kí (Nhật kí Đặng Thuỳ TrâmMãi mãi tuổi hai mươi); cả hai đều là những người trẻ tuổi tình nguyện xung phong vào chiến trường lửa đạn, dâng hiến tuổi xuân của mình cho công cuộc giành lại độc lập, tự do cho đất nước và nhân dân.
- Mục đích so sánh: làm rõ điểm tương đồng, khác biệt giữa hai nhân vật
- Nội dung so sánh:
+ Sự tương đồng: Bác sĩ Đặng Thuỳ Trâm và chiến sĩ Nguyễn Văn Thạc đều là những người trẻ:
• Nhạy cảm, giàu cảm xúc: Những trang nhật kí họ viết không viết không chỉ tường thuật lại các sự việc, sự kiện diễn ra trong ngày mà còn ăm ắp cảm xúc, suy tư của mỗi người về những gì họ trông nhìn thấy mỗi ngày.
Ở bác sĩ Đặng Thuỳ Trâm, đó là nỗi căm hờn quân xâm lăng, là niềm trân trọng trước biết bao công sức đã đổ xuống để xây nên bệnh xá này, là dự cảm tiếc nuối nếu phải dời đi (bao giờ mới có được một cơ sở điều trị như ở đây), là nỗi lo âu xen lẫn nỗi buồn kì lạ, là khát vọng hoà bình cháy bỏng để được gặp lại bao người thân yêu,...
Ở chiến sĩ Nguyễn Văn Thạc, đó là suy tư, trăn trở về cái “tôi” vị kỉ hẹp hòi một thời trong chính anh và trong nhiều người của một thời kì, là sự “tự nhận thức lại” những nghĩ suy về một tương lai có màu hồng rực rỡ pha chút gì ánh biếc phù hoa, là cảm giác chán nản, buồn, buồn lắm đầy nghiêm khắc với bản thân, là niềm vui xốn xang khi được sống giữa cuộc sống xôn xao của dân tộc,...
• Có lí tưởng: Cả hai nhân vật đều là những người trẻ có lí tưởng sống vị tha cao cả, sẵn sàng hoà mình vào cộng đồng lớn lao và sẵn sàng chiến đấu hết mình vì cộng đồng ấy. (Bác sĩ Đặng Thuỳ Trâm: Ôi, giấc mơ đâu là của riêng mình mà giấc mơ Hòa bình độc lập đã cháy bỏng trong lòng ba mươi triệu người Việt Nam và cả ba ngàn triệu nhân dân trên thế giới.; chiến sĩ Nguyễn Văn Thạc: Cái đẹp đẽ của cuộc đời, cái tươi mới của cuộc đời nhất định không đến khi anh bo bo giữ gìn cái “tôi” của mình.).
• Biết trân trọng những giá trị của hiện tại: Đứng trước bệnh xá, bác sĩ Đặng Thuỳ Trâm nghĩ đến và trân trọng công sức của biết bao con người: Bao nhiêu mồ hôi đã thấm trong từng cọng tranh, từng hòn đá xây nên những cơ sở này. Và nếu ra đi thì biết bao giờ mới có được một cơ sở điều trị như ở đây nữa; chiến sĩ Nguyễn Văn Thạc cũng lặng nhìn và rưng rưng trước cuộc sống xôn xao của dân tộc với những vẻ đẹp giản dị, đời thường của khoảnh khắc yên bình nơi làng quê miền Bắc trong tương quan đối lập với khói lửa chiến tranh ngút trời ở miền Nam phía trước: Cô gái mặc áo da trời bơm thuốc trừ sâu, những gánh bùn lên cải tạo ruộng đồng sau trận lụt, và luỹ tre thân thuộc, bốn mùa lúc nào lá cũng xanh, lúc nào cũng thì thào muôn điều kì lạ...
• Không ngừng nghĩ đến tương lai: Với bác sĩ Đặng Thuỳ Trâm, ngày mai ấy đến trong giấc mơ hoà bình, giấc mơ được gặp lại những người thân yêu, những bạn bè mến thương, trường học màu vôi vàng nhạt,...; với chiến sĩ Nguyễn Văn Thạc, ngày mai ấy là cuộc đời đẹp đẽ, tươi mới được gầy dựng từ những con người biết cống hiến hôm nay.
+ Sự khác biệt
• Bác sĩ Đặng Thuỳ Trâm hiện lên là một người con gái với trái tim đa cảm, nữ tính, giàu yêu thương (thể hiện ở sự đa dạng trong các sắc điệu cảm xúc, ở tình cảm chị dành cho gia đình, bè bạn, quê hương,...)
• Chiến sĩ Nguyễn Văn Thạc hiện lên là một chàng trai nghiêm khắc với bản thân, quyết liệt đấu tranh với thói vị kỉ trong chính mình (Cũng có một thời kì như thế, mình luôn luôn lo lắng cho bản thân.; ước mơ phù phiếm; Không ít thanh niên sớm chán nản với cuộc sống này, muốn trốn tránh, muốn hưởng thụ mặc dù bản thân mình chưa cống hiến được chút gì. Hình như mình cũng thuộc vào loại đó; Chẳng lẽ mình giống họ trong cái bi quan, hèn mạt ấy chăng?...)
- Đánh giá
+ Bác sĩ Đặng Thuỳ Trâm và chiến sĩ Nguyễn Văn Thạc đều là những người trẻ ưu tú của thế hệ thanh niên Việt Nam những năm tháng chiến tranh chống Mĩ; xứng đáng là biểu tượng của thế hệ thanh niên đương thời và mãi mãi sau này.
+ Tính phi hư cấu cùng sự kết hợp giữa tự sự và trữ tình (trong nhật kí của bác sĩ Đặng Thuỳ Trâm), sự kết hợp giữa nghị luận và trữ tình (trong nhật kí của chiến sĩ Nguyễn Văn Thạc) là yếu tố hình thức góp phần nâng đỡ những cảm xúc, suy tư của hai nhân vật trữ tình, giúp mỗi nhân vật trữ tình bộc lộ cảm nghĩ của mình một cách tự nhiên, thành thực, cảm động.
+ Lí giải:
• Sự tương đồng giữa hai hình tượng nhân vật bắt nguồn từ sự gặp gỡ của những phẩm chất tốt đẹp ở những người trẻ ưu tú của một thời đại anh hùng.
• Sự khác biệt xuất phát từ cá tính của mỗi người viết nhật kí.
* Đánh giá chung
Cả hai trích đoạn nhật kí đều khắc hoạ những nhân cách đáng yêu, đáng mến, những con người luôn bất tử trong lòng mọi thế hệ người dân Việt Nam.
<*> Tham khảo bài viết:

CHUYỆN VỀ CUỐN NHẬT KÍ SAU 35 NĂM LƯU LẠC
Một cuốn nhật kí được một sĩ quan quân báo Mỹ tham chiến ở chiến trường Đức Phổ, Quảng Ngãi nhặt được sau trận tập kích vào một “căn cứ của Việt cộng” đã suýt bị ném vào lửa, nhưng người phiên dịch đã khuyên anh ta “Đừng đốt, vì trong đó đã có lửa rồi!”.
Cuốn nhật kí đó tràn đầy chất lí tưởng và tình người của người con gái Hà Nội đã hi sinh anh dũng khi tuổi đời chưa đầy 28. Đó là bác sĩ, liệt sĩ Đặng Thùy Trâm. Chị đã trở thành biểu tượng và niềm tự hào của một thế hệ cầm súng vào giai đoạn lịch sử không thể nào quên của dân tộc Việt Nam.

Hiến dâng cho lí tưởng cao đẹp
Bác sĩ Đặng Thùy Trâm sinh ngày 26/11/1942 trong một gia đình trí thức bố là bác sĩ, mẹ là dược sĩ. Sau khi tốt nghiệp Đại học Y Hà Nội năm 1966, nghe theo tiếng gọi của miền Nam ruột thịt, người con gái Hà Nội ấy đã xung phong vào miền Nam chiến đấu, nơi mà có những người dân nghèo khổ, nơi mà những chiến sĩ của ta đang chiến đấu ác liệt nhất, anh dũng nhất. Chị được phân công phụ trách Trạm xá Đức Phổ (Quảng Ngãi), một bệnh viện dân y nhưng chủ yếu điều trị cho các thương bệnh binh.
Những năm tháng thanh xuân hào hùng ấy đã được chị ghi lại tường tận, chi tiết trong cuốn nhật kí của mình mà sau này đã được xuất bản thành cuốn sách nổi tiếng “Nhật kí Đặng Thùy Trâm” không chỉ trong nước mà trên toàn thế giới. Chị quan niệm: “... Nhật kí này đâu phải chỉ là cuộc sống của riêng mình mà nó phải là những trang ghi lại những mảnh đời rực lửa chiến đấu và chồng chất đau thương của những con người gang thép trên mảnh đất miền Nam này”.
Qua từng trang, từng trang nhật kí, hình ảnh một cô gái Hà Nỗi sẵn sàng lao vào khói lửa chiến tranh vì không muốn sống hoài, sống phí những năm tháng thanh xuân hiện lên sống động, gần gũi. Với lí tưởng sống đã chọn, chị đã lao vào công việc với một nghị lực phi thường. Chị đã lăn xả vào cứu chữa thương binh, chăm sóc thương binh, tổ chức cho đơn vị di chuyển thương binh, di chuyển địa điểm để chống càn, đi công tác xuống cơ sở. Giữa một vùng đất hẹp ngập trời bom đạn và hằn dấu giày của những tên lính xâm lược, chị vẫn kiên cường bám trụ trong nhiều năm.
Trong nhật kí của chị có một tình yêu rộng lớn, một tình người gắn với lí tưởng sống, lẽ sống của cuộc đời chị, đó là tình cảm với nhân dân, với đồng đội. Khi đứng lớp giảng bài cho học sinh của lớp y tá sơ cấp, xót thương những đứa em và cũng là đồng đội cùng chiến đấu với mình do hoàn cảnh chiến tranh mà không có điều kiện học tập, chị đã tâm sự: “Mình đến với lớp không phải chỉ vì tinh thần trách nhiệm, mà cả bằng tình thương của một người chị đối với những đứa em đã chịu biết bao thiệt thòi đau khổ vì bọn bán nước nên không tìm đến với khoa học được”.
Chị dành cho thương binh một thứ tình cảm như người thân ruột thịt. Chị đã cứu sống biết bao thương binh, cán bộ và nhân dân trong vùng... Nhưng chị cũng đã cắn răng bật khóc biết bao lần, tự dày vò bản thân khi có ca thương binh nặng mà với khả năng và điều kiện của bệnh xá tiền phương không thể cứu chữa.
Chị viết: “Vừa cấp cứu cho anh nước mắt mình vừa chảy tràn trên mặt. Thương anh vô hạn, muốn tìm mọi cách cứu anh nhưng không có cách nào. Mình như một chiến sĩ hai tay đã bị trọng thương, đành nhìn quân thù vũ khí trong tay xông đến giết mình”. Và biểu hiện cao nhất của Đặng Thùy Trâm về tình đồng đội là chị xả thân, chấp nhận hi sinh khi nổ súng vào kẻ thù để bảo vệ đồng đội của mình.
Sống và chiến đấu tại một vùng đất ác liệt ấy, nếu không có lòng dũng cảm, tinh thần và ý chí sắt đá, con người khó có thể tồn tại được. Chị từng viết: “Ngày mai trong tiếng ca khải hoàn sẽ không có con đâu. Con luôn tự hào vì đã dâng trọn đời mình cho Tổ quốc”.
Rất bình dị, Thùy Trâm còn có một trái tim, một trái tim biết giận hờn, biết yêu và biết khóc vì yêu. Tình yêu đó trong sáng nhưng cũng không kém phần lãng mạn, là những nhớ thương và cả những giọt nước mắt mà chị dành cho người yêu tên M. Dù bất kì ở hoàn cảnh nào thì tình yêu vẫn luôn tồn tại và tình yêu là thứ đẹp nhất mà con người có thể dành cho nhau “... anh không phải là của em, nhưng em muốn đem yêu thương xoa dịu đau đớn cho anh...”.
Cuốn “Nhật kí Đặng Thuỳ Trâm” không chỉ là tư liệu lịch sử quý giá, giá trị văn học cao quý, mà cao hơn tất cả, nó là cái giá “rất nhân bản” của một con người luôn trăn trở muốn sống xứng đáng như một con người. Thùy Trâm đã ngoan cường chiến đấu như tinh thần của Marius, của Gavroche trên chiến luỹ thành Paris mà chị từng ngưỡng mộ. Thuỳ Trâm và thế hệ cầm súng của chị mãi mãi toả sáng tuổi 20 khi mà chị viết: “Cuộc đời Thuỳ là một cuốn sổ, những dòng chữ ghi trên đó đẹp như một bài ca nhỏ, xin Thùy hãy ghi tiếp những dòng xứng đáng”.
Ngày 22/6/1970, chị ngã xuống khi còn rất trẻ, khi còn biết bao ước mơ, hoài bão chưa kịp dâng hiến cho đất nước. Những dòng tiếp theo ấy, bác sĩ Đặng Thuỳ Trâm đã vĩnh viễn không ghi được nữa, nó thuộc về chúng ta hôm nay.
“Đừng đốt. Bản thân nó đã có lửa rồi!”
Tháng 6/1970, khi Fredric Whitehurst, một lính Mỹ, tại chiến trường Đức Phổ, Quảng Ngãi tính châm lửa đốt quyển sổ tay được bọc bằng vải, thu được sau một trận càn quét, người thông dịch của ông đã cản: “Đừng đốt. Bản thân nó đã có lửa rồi!”. Nghe lời khuyên, người lính Mỹ ấy đã không đốt quyển sổ tay. Đó là cuốn nhật kí của một nữ chiến sĩ, một bác sĩ có cái tên thật đẹp: Đặng Thùy Trâm.
Những dòng chữ rực lửa trong cuốn nhật kí khiến Frideric vô cùng xúc động - mặc dù anh chỉ được nghe qua lời dịch vội. Đó là những dòng chất chứa căm thù đối với quân Mỹ và cả những dòng chữ đầy yêu thương, hi vọng. Anh không hiểu nổi bắt nguồn từ đâu mà một người con gái có thể nhìn thấy cái đẹp của màu xanh giữa chiến trường mịt mù bom đạn, vì sao cô ấy có thể nghe nổi bản giao hưởng êm đềm khi quân Mỹ gần như luôn bám sát sau lưng. Nó khiến anh vô cùng ngạc nhiên và đặc biệt cảm phục.
Và “Ngọn lửa” ấy đã dẫn Fredric và người anh trai là Robert Whitehurst (cũng là một cựu binh Mỹ trong chiến tranh Việt Nam) làm một cuộc hành trình vượt đại dương, tình nguyện đưa nhật kí của Đặng Thùy Trâm về với gia đình chị.
Năm 2005, sau 35 năm lưu lạc trên đất Mỹ, cuốn nhật kí của bác sĩ, liệt sĩ Đặng Thùy Trâm đã trở về Việt Nam trong vòng tay yêu thương của người thân, bạn bè. Từ khi cuốn nhật kí được biết đến, đã có biết bao cuộc vận động, bao phong trào ý nghĩa được phát động để người trẻ hôm nay học tập và noi gương người con gái Hà Nội kiên cường, bất khuất.
Đặc biệt, cuốn nhật kí được dịch ra khoảng 20 thứ tiếng, góp phần giúp độc giả khắp thế giới thấy được những năm tháng chiến tranh ác liệt mà dân tộc ta đã phải trả bằng máu xương để có nền hòa bình độc lập ngày hôm nay. Cuốn nhật kí cũng chính là cảm hứng để NSND Đặng Nhật Minh xây dựng bộ phim chính kịch lịch sử “Đừng đốt” làm xúc động lòng người trong và ngoài nước.
Bác sĩ Đặng Thùy Trâm mãi là tấm gương cho thế hệ trẻ hôm nay - những người sinh ra và lớn lên sau chiến tranh, chưa từng nếm trải trận mạc, gian khổ, mất mát và hi sinh - biết trân trọng cuộc sống mình đang có, biết sống có ước mơ, có hoài bão và luôn vì mọi người.
(Theo Thanh Hoa, baotintuc.vn)

CHUYỆN CHƯA KỂ TRONG NHẬT KÍ “MÃI MÃI TUỔI HAI MƯƠI”
(Trích, Đặng Vương Hưng)
“Những trang nhật kí mà chúng ta vừa được đọc chỉ là một phần của cuốn sách dày 320 trang in. Bản thảo gốc là một cuốn sổ tay khổ nhỏ, bìa bọc nilông màu xanh, với tổng cộng 240 trang chép tay, chữ nhỏ li ti, đều tăm tắp, rất ít gạch xóa, được viết bằng mực xanh và đen.
Cuộc hành trình 33 năm của cuốn sổ tay

Cuốn sổ nói trên được Nguyễn Văn Thạc gửi về nhà từ Kỳ Anh (Hà Tĩnh), trước khi vào mặt trận và hi sinh sau đó gần hai tháng. Tuy nhiên, do điều kiện thời chiến, bưu điện phải gửi giấy báo tới lần thứ ba, gia đình anh mới có người ra nhận. Chỉ chậm một hai ngày nữa là bưu phẩm có thể bị trả lại và chắc chắn sẽ bị thất lạc vì người gửi đã ra mặt trận và hòm thư đơn vị cũng thay đổi.
Ông Nguyễn Văn Thục (anh ruột của Nguyễn Văn Thạc) là người đầu tiên đọc những trang ghi chép nêu trên. Ông cho rằng người giữ cuốn sổ thiêng liêng này không ai xứng đáng hơn là chị Phạm Thị Như Anh. Cũng giống như bao cô gái khác, lúc đầu chị Như Anh không tin người bạn trai thân thiết của mình đã chết.
Nhưng sự thật phũ phàng đã khiến chị sụp đổ, chán chường và buông xuôi số phận. Như Anh đã “xé rào” để kết hôn với một người Đức (thời đó ở miền Bắc, chuyện “lấy Tây” là rất ầm ĩ và không chấp nhận được!). Và cuốn sổ ghi chép của Nguyễn Văn Thạc đã theo TS Phạm Thị Như Anh đi định cư tại nước ngoài...
33 năm sau cuộc chiến đẫm máu ở Quảng Trị, người anh ruột của liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc đã tiết lộ với tôi về cuốn sổ nhật kí nêu trên. Ông nói: “Nếu muốn công bố thì phải được sự đồng ý của Như Anh. Đã từ lâu gia đình tôi coi em nó như dâu con trong nhà”.
Qua địa chỉ e-mail và cả điện thoại, đã nhiều lần chúng tôi liên lạc với TS Phạm Thị Như Anh, một Việt kiều đang định cư tại Hannover (CHLB Đức), để thuyết phục chị. Tháng 12 - 2004, chị Như Anh đã bay về nước và mang theo cuốn sổ nói trên. Ngồi trong phòng làm việc của tôi, người đàn bà nổi tiếng là nghị lực và thông minh này đã vừa khóc vừa kể lại những kỉ niệm của mình với liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc. Chị bảo chính linh hồn của Thạc đã thúc giục chị phải trao “số phận” của cuốn nhật kí này cho một nhà thơ như tôi.
Và “Mãi mãi tuổi hai mươi” đã ra mắt bạn đọc như chúng ta đã biết.
Ngày cuối cùng của người lính Nguyễn Văn Thạc
Trong một trận đánh ác liệt bên thành cổ Quảng Trị sáng 30 - 7 - 1972, chiến sĩ thông tin Nguyễn Văn Thạc được giao nhiệm vụ bảo đảm liên lạc cho trung đoàn 101, sư đoàn 325...
Sau này, một chiến sĩ cùng tiểu đội với anh là Nguyễn Quang Minh đã kể lại: Loạt đạn pháo của địch rơi đúng chỗ Thạc. Khi những tiếng nổ dữ dội vừa dứt, khói và bụi còn chưa hết, Minh và một chiến sĩ nữa là Chương cùng chạy ra thì đã thấy Thạc nằm đó. Một mảnh pháo chém ngang hai đùi của anh, máu chảy ướt đẫm ống quần.
Chương hốt hoảng hỏi:
- Thằng Thạc chết rồi à?
Mắt Thạc nhắm nghiền. Anh rên khe khẽ và nói trong đau đớn:
- Không, Thạc vẫn còn sống mà, chưa chết đâu.
Máu ra nhiều lắm. Mấy anh em vội xúm lại băng bó rồi khiêng Thạc lên trạm phẫu tiểu đoàn, với hi vọng “còn nước còn tát”. Các giấy tờ, sổ sách, quần áo của Thạc được anh em nhét chung vào balô của anh Y, một thương binh khác (nhưng khi ra tới Quảng Bình thì anh Y đã hi sinh, balô đựng di vật liệt sĩ bị thất lạc...; cùng ngày hôm đó, tiểu đội của Thạc hi sinh bốn người: Y, Bình, Được và...).
Minh chạy theo cáng thương, rơm rớm nước mắt động viên Thạc:
- Cố lên Thạc nhé. Gắng điều trị cho nhanh khỏi, hòa bình rồi có điều kiện ghé qua nhà mình chơi...
Thạc nói khẽ, thều thào trong hơi thở đứt quãng:
- Không... Mình tỉnh thế này tức là... sắp chết rồi... Chỉ tiếc là không còn chiến đấu được nữa... Bao dự định còn dang dở...
Kể từ đó Thạc không nói thêm được câu nào nữa. Anh đã tắt thở trong vòng tay của đồng đội. Như nhiều người lính hi sinh ngoài chiến trường, thi hài của anh được bọc trong một tấm tăng nilông và chôn cất ngay tại mặt trận.”
(Theo tuoitre.vn)