I. ĐỌC HIỂU (4,0 điểm)
Đọc đoạn trích:
“Truyện ngắn của Bảo Ninh được dựng từ mô-típ gặp gỡ. Đó là cuộc gặp gỡ bên đường chiến tranh, trước khi anh tân binh vào chiến trường, giữa không gian núi đồi hậu phương trong xanh và lãng mạn (Giang). Là cuộc gặp gỡ bất ngờ của những người lính tăng T54 và thiếu nữ trên đà tiến công vũ bão vào tháng 3/ 1975 ở một thị trấn thuộc Nha Trang (Ba lẻ một). Là cuộc gặp gỡ giữa rừng mưa thâm u, nơi chiến trường B3 sau tan tành bom đạn để lắng nghe những kỉ niệm đau đớn dai dẳng về tình yêu và phận người (Trại 7 chú lùn). Những cuộc gặp gỡ thường bất ngờ. Có khi thoáng chốc, có khi giằng dứ miên man. Nhiều cuộc gặp gỡ diễn ra trong không khí sặc mùi súng đạn, cận kề chết chóc, giữa rừng hoang đồi cháy heo hút phận người (Ngôi sao vô danh). Những phút giây như thế trôi đi chóng vánh. Nhưng chúng không bao giờ bị lãng quên, bởi niềm hoài nhớ luôn day dứt, bởi kết cục của những phận người trong bom đạn là rất khó đoàn viên, là chia lìa, li biệt. Có những kí ức bi hùng, đau đớn, như một mảnh bom sắc lẻm găm mạnh, cứa cắt, gây ra vết thương nhức nhối. Nhức nhối những phận người bị đẩy vào chiến tranh, bị kẹt giữa hai làn đạn (Gió dại). Nhức nhối một thế hệ đẹp đẽ của hai phía thù nghịch lao vào cuộc tàn sát, bị tước hủy hiện tại, đoạt mất tương lai (Lá thư từ Quý Sửu). Nhức nhối bởi những hi sinh, mất mát và bất ngờ trước sự truyền sinh bí ẩn (Bí ẩn của làn nước, Bằng chứng). Buồn bã, day dứt, giày vò, nuối tiếc, hi vọng là cảm giác mà người đọc nhận được qua các truyện ngắn của Bảo Ninh.”
“Truyện ngắn của Bảo Ninh được dựng từ mô-típ gặp gỡ. Đó là cuộc gặp gỡ bên đường chiến tranh, trước khi anh tân binh vào chiến trường, giữa không gian núi đồi hậu phương trong xanh và lãng mạn (Giang). Là cuộc gặp gỡ bất ngờ của những người lính tăng T54 và thiếu nữ trên đà tiến công vũ bão vào tháng 3/ 1975 ở một thị trấn thuộc Nha Trang (Ba lẻ một). Là cuộc gặp gỡ giữa rừng mưa thâm u, nơi chiến trường B3 sau tan tành bom đạn để lắng nghe những kỉ niệm đau đớn dai dẳng về tình yêu và phận người (Trại 7 chú lùn). Những cuộc gặp gỡ thường bất ngờ. Có khi thoáng chốc, có khi giằng dứ miên man. Nhiều cuộc gặp gỡ diễn ra trong không khí sặc mùi súng đạn, cận kề chết chóc, giữa rừng hoang đồi cháy heo hút phận người (Ngôi sao vô danh). Những phút giây như thế trôi đi chóng vánh. Nhưng chúng không bao giờ bị lãng quên, bởi niềm hoài nhớ luôn day dứt, bởi kết cục của những phận người trong bom đạn là rất khó đoàn viên, là chia lìa, li biệt. Có những kí ức bi hùng, đau đớn, như một mảnh bom sắc lẻm găm mạnh, cứa cắt, gây ra vết thương nhức nhối. Nhức nhối những phận người bị đẩy vào chiến tranh, bị kẹt giữa hai làn đạn (Gió dại). Nhức nhối một thế hệ đẹp đẽ của hai phía thù nghịch lao vào cuộc tàn sát, bị tước hủy hiện tại, đoạt mất tương lai (Lá thư từ Quý Sửu). Nhức nhối bởi những hi sinh, mất mát và bất ngờ trước sự truyền sinh bí ẩn (Bí ẩn của làn nước, Bằng chứng). Buồn bã, day dứt, giày vò, nuối tiếc, hi vọng là cảm giác mà người đọc nhận được qua các truyện ngắn của Bảo Ninh.”
(Trích Truyện ngắn về chiến tranh của Bảo Ninh - Nguyễn Văn Thuấn, theo vannghequandoi.com.vn)
Thực hiện các yêu cầu:
Câu 1 [704981]: Nêu luận điểm của đoạn trích.
Luận điểm của đoạn trích: Truyện ngắn của Bảo Ninh được dựng từ mô-típ gặp gỡ.
Câu 2 [704982]: Theo đoạn trích, cảm giác mà người đọc nhận được qua các truyện ngắn của Bảo Ninh là gì?
Theo đoạn trích, cảm giác mà người đọc nhận được qua các truyện ngắn của Bảo Ninh là buồn bã, day dứt, giày vò, nuối tiếc, hi vọng.
Câu 3 [704983]: Có những kí ức bi hùng, đau đớn, như một mảnh bom sắc lẻm găm mạnh, cứa cắt, gây ra vết thương nhức nhối.
Nêu tác dụng của biện pháp tu từ so sánh được sử dụng trong câu văn trên.
Nêu tác dụng của biện pháp tu từ so sánh được sử dụng trong câu văn trên.
Có những kí ức bi hùng, đau đớn, như một mảnh bom sắc lẻm găm mạnh, cứa cắt, gây ra vết thương nhức nhối.
- So sánh: kí ức với mảnh bom.
- Tác dụng:
+ Làm cho lời văn trở nên sinh động, hấp dẫn, giàu sức gợi hình gợi cảm.
+ Khắc sâu ấn tượng về sức tác động ghê gớm (găm mạnh, cắt cứa) của những kí ức bi hùng, đau đớn đối với tâm hồn con người (gây ra vết thương nhức nhối).
- So sánh: kí ức với mảnh bom.
- Tác dụng:
+ Làm cho lời văn trở nên sinh động, hấp dẫn, giàu sức gợi hình gợi cảm.
+ Khắc sâu ấn tượng về sức tác động ghê gớm (găm mạnh, cắt cứa) của những kí ức bi hùng, đau đớn đối với tâm hồn con người (gây ra vết thương nhức nhối).
Câu 4 [704984]: Đoạn trích bộc lộ tình cảm, thái độ nào của người viết đối với Bảo Ninh và các sáng tác của nhà văn?
Tình cảm, thái độ của người viết đối với Bảo Ninh và các sáng tác của nhà văn được thể hiện trong đoạn trích:
- Yêu quý, trân trọng nhà văn cùng các sáng tác của nhà văn (thể hiện qua việc lựa chọn và tìm hiểu kĩ đối tượng nghị luận).
- Thấu hiểu, đồng điệu với xúc cảm của nhà văn trong các trang viết (thể hiện qua các từ ngữ, câu văn gợi cảm xúc trong đoạn trích, như: Những cuộc gặp gỡ thường bất ngờ. Có khi thoáng chốc, có khi giằng dứ miên man.; Có những kí ức bi hùng, đau đớn, như một mảnh bom sắc lẻm găm mạnh, cứa cắt, gây ra vết thương nhức nhối.; Buồn bã, day dứt, giày vò, nuối tiếc, hi vọng là cảm giác mà người đọc nhận được qua các truyện ngắn của Bảo Ninh. hay các dẫn chứng minh hoạ cho luận điểm của đoạn trích).
- Yêu quý, trân trọng nhà văn cùng các sáng tác của nhà văn (thể hiện qua việc lựa chọn và tìm hiểu kĩ đối tượng nghị luận).
- Thấu hiểu, đồng điệu với xúc cảm của nhà văn trong các trang viết (thể hiện qua các từ ngữ, câu văn gợi cảm xúc trong đoạn trích, như: Những cuộc gặp gỡ thường bất ngờ. Có khi thoáng chốc, có khi giằng dứ miên man.; Có những kí ức bi hùng, đau đớn, như một mảnh bom sắc lẻm găm mạnh, cứa cắt, gây ra vết thương nhức nhối.; Buồn bã, day dứt, giày vò, nuối tiếc, hi vọng là cảm giác mà người đọc nhận được qua các truyện ngắn của Bảo Ninh. hay các dẫn chứng minh hoạ cho luận điểm của đoạn trích).
Câu 5 [704985]: Từ đoạn trích, anh/chị hãy rút ra cho mình một bài học kinh nghiệm khi viết nghị luận văn học.
Từ đoạn trích, thí sinh có thể rút ra cho mình một bài học kinh nghiệm khi viết nghị luận văn học, chẳng hạn:
- Lập luận chặt chẽ, lí lẽ luôn đi liền với dẫn chứng (chẳng hạn: Để chứng minh cho luận điểm được nêu, người viết đã sử dụng rất nhiều dẫn chứng: cuộc gặp gỡ trong các truyện Giang, Ba lẻ một, Trại 7 chú lùn, Ngôi sao vô danh,...).
- Đưa ra bình luận, ý kiến về vấn đề nghị luận (chẳng hạn: Những cuộc gặp gỡ thường bất ngờ. Có khi thoáng chốc, có khi giằng dứ miên man.).
- Sử dụng ngôn ngữ giàu sức gợi hình, gợi cảm (chẳng hạn: Có những kí ức bi hùng, đau đớn, như một mảnh bom sắc lẻm găm mạnh, cứa cắt, gây ra vết thương nhức nhối.; Buồn bã, day dứt, giày vò, nuối tiếc, hi vọng là cảm giác mà người đọc nhận được qua các truyện ngắn của Bảo Ninh.).
- ...
- Lập luận chặt chẽ, lí lẽ luôn đi liền với dẫn chứng (chẳng hạn: Để chứng minh cho luận điểm được nêu, người viết đã sử dụng rất nhiều dẫn chứng: cuộc gặp gỡ trong các truyện Giang, Ba lẻ một, Trại 7 chú lùn, Ngôi sao vô danh,...).
- Đưa ra bình luận, ý kiến về vấn đề nghị luận (chẳng hạn: Những cuộc gặp gỡ thường bất ngờ. Có khi thoáng chốc, có khi giằng dứ miên man.).
- Sử dụng ngôn ngữ giàu sức gợi hình, gợi cảm (chẳng hạn: Có những kí ức bi hùng, đau đớn, như một mảnh bom sắc lẻm găm mạnh, cứa cắt, gây ra vết thương nhức nhối.; Buồn bã, day dứt, giày vò, nuối tiếc, hi vọng là cảm giác mà người đọc nhận được qua các truyện ngắn của Bảo Ninh.).
- ...
II. VIẾT (6,0 điểm)
Câu 6 [704986]: (2,0 điểm)
Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ), cảm nhận về tiếng cuốc kêu trong đoạn thơ sau:
“[...]
Cuốc kêu ngoài bến xa!
Cuốc kêu từ ngày em lạy mẹ lạy cha
Đi theo một sợi tơ hồng
Về với anh thành vợ thành chồng
Tình yêu nhiều đứt nối
Ta xin rừng một chiếc giường con
Xin đất một chiếc ấm nhỏ
Một đời người mà chiến chinh nhiều quá
Em níu giường níu chiếu đợi anh
Em tránh mặt những người con trai đẹp
Đợi anh
Chỉ mong anh về
Áo rách cũng thơm
Chiếc chạn nhỏ với vài đôi đũa mộc
Anh cứ tưởng sau chiến tranh thì toàn là hạnh phúc
Chúng ta đã từng vò võ đợi nhau
Nhưng không phải em ơi, cuốc kêu không phải thế
*
Trưa nay có điều gì mà cuốc kêu như xé
Tôi mất hai người anh
Cả hai đều rất trẻ
Sáng nay lại có người hàng xóm chạy sang
Mỗi lần sau đám tang
Lòng ai cũng héo
Dạ ai cũng sầu
Tôi cứ tưởng không ai còn xấu nữa
Tôi cứ tưởng tốt với nhau bao nhiêu cũng còn chưa đủ
Nhưng không phải, trời ơi, cuốc kêu không phải thế.
Giếng nước than lắm kẻ chao chân
Khu vườn than: có những con sên ngấp nghé lên trời
Qua mùa hoa thì bướm cũng bay đi
Tôi ngồi buồn như lá sen rách.
Cuốc kêu gì mà khắc khoải trưa nay
Tôi ngồi buồn tôi đếm ngón tay
Có mười ngón tay đếm đi đếm lại
Đếm đi đếm lại trời ngả sang chiều
Chúng ta bị cái chết gạt về một phía
Bị hư danh gạt về một phía
Phải vượt mấy trùng khơi mới bắt gặp nụ cười.
Vừa bắt gặp nụ cười
Thì lại nghe tiếng cuốc.”
7 - 1989
Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ), cảm nhận về tiếng cuốc kêu trong đoạn thơ sau:
“[...]
Cuốc kêu ngoài bến xa!
Cuốc kêu từ ngày em lạy mẹ lạy cha
Đi theo một sợi tơ hồng
Về với anh thành vợ thành chồng
Tình yêu nhiều đứt nối
Ta xin rừng một chiếc giường con
Xin đất một chiếc ấm nhỏ
Một đời người mà chiến chinh nhiều quá
Em níu giường níu chiếu đợi anh
Em tránh mặt những người con trai đẹp
Đợi anh
Chỉ mong anh về
Áo rách cũng thơm
Chiếc chạn nhỏ với vài đôi đũa mộc
Anh cứ tưởng sau chiến tranh thì toàn là hạnh phúc
Chúng ta đã từng vò võ đợi nhau
Nhưng không phải em ơi, cuốc kêu không phải thế
*
Trưa nay có điều gì mà cuốc kêu như xé
Tôi mất hai người anh
Cả hai đều rất trẻ
Sáng nay lại có người hàng xóm chạy sang
Mỗi lần sau đám tang
Lòng ai cũng héo
Dạ ai cũng sầu
Tôi cứ tưởng không ai còn xấu nữa
Tôi cứ tưởng tốt với nhau bao nhiêu cũng còn chưa đủ
Nhưng không phải, trời ơi, cuốc kêu không phải thế.
Giếng nước than lắm kẻ chao chân
Khu vườn than: có những con sên ngấp nghé lên trời
Qua mùa hoa thì bướm cũng bay đi
Tôi ngồi buồn như lá sen rách.
Cuốc kêu gì mà khắc khoải trưa nay
Tôi ngồi buồn tôi đếm ngón tay
Có mười ngón tay đếm đi đếm lại
Đếm đi đếm lại trời ngả sang chiều
Chúng ta bị cái chết gạt về một phía
Bị hư danh gạt về một phía
Phải vượt mấy trùng khơi mới bắt gặp nụ cười.
Vừa bắt gặp nụ cười
Thì lại nghe tiếng cuốc.”
7 - 1989
(Trích Nghe tiếng cuốc kêu - Hữu Thỉnh, theo Tuyển tập Thơ Việt Nam 1975 - 2000, tập 3, NXB Hội Nhà văn, 2001)
Đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) cảm nhận về tiếng cuốc kêu trong đoạn thơ được trích từ bài thơ Nghe tiếng cuốc kêu (Hữu Thỉnh) có thể được triển khai theo hướng:
- Chim cuốc là một loại chim sống nhiều ở các vùng nông thôn. Từ đầu hè đến cuối thu, lúc chiều tà hay trong đêm thanh vắng, loài chim này thường cất tiếng kêu thảng thốt mà khắc khoải, khiến nhiều người ưu tư. Loài chim này cũng xuất hiện khá nhiều ở truyện cổ tích, ca dao, thành ngữ dân gian, điển tích, điển cố, thơ ca (Qua đèo Ngang - Bà Huyện Thanh Quan, Cuốc kêu cảm hứng - Nguyễn Khuyến),...
- Trong đoạn trích:
+ Âm thanh tiếng cuốc không chỉ có mặt ở nhan đề bài thơ mà còn xuyên suốt đoạn trích và kết thúc ở cuối đoạn trích (cũng là cuối thi phẩm), tạo nên một nỗi ám ảnh ghê gớm trong lòng người đọc.
+ Đặc điểm của âm thanh tiếng cuốc:
• Tiếng cuốc kêu trong đoạn thơ trước hết là âm thanh vang lên từ không gian ở chốn làng quê: Cuốc kêu ngoài bến xa!. Hai chữ bến xa không chỉ định vị không gian, nơi khởi phát âm thanh tiếng cuốc mà còn gợi tả sự vắng lặng, yên tĩnh của không gian ấy.
• Tiếng cuốc kêu vang gắn liền với nhiều thời khắc trong cuộc đời của con người: có quá khứ (thời chiến chinh) - có hiện tại (sau chiến tranh, trưa nay, sáng nay, khi trời ngả sang chiều), có khoảnh khắc trọng đại (ngày em lạy mẹ lạy cha (...) về với anh) - có giây phút tương tranh (Phải vượt mấy trùng khơi mới bắt gặp nụ cười./ Vừa bắt gặp nụ cười),...
• Tiếng cuốc như một lời đối thoại, phản biện lại những nghĩ suy của nhân vật trữ tình về thế cuộc, về con người. Điệp khúc cuốc kêu không phải thế liên tục bác bỏ những suy tưởng trong nhân vật trữ tình: Anh cứ tưởng sau chiến tranh thì toàn là hạnh phúc - Nhưng không phải em ơi, cuốc kêu không phải thế; Tôi cứ tưởng không ai còn xấu nữa/ Tôi cứ tưởng tốt với nhau bao nhiêu cũng còn chưa đủ - Nhưng không phải, trời ơi, cuốc kêu không phải thế. Cấu trúc được trở đi trở lại khiến lời thơ như một lời phản tỉnh thành thực, buộc nhân vật trữ tình phải nghĩ khác đi những điều đã từng; từ đó, đưa đến một thông điệp: cuộc sống không hề giản đơn, một chiều, sự sống không phải chỉ có những điều tốt đẹp.
• Tiếng cuốc khắc khoải trước thế thái nhân tình đảo điên: Giếng nước than lắm kẻ chao chân/ Khu vườn than: có những con sên ngấp nghé lên trời/ Qua mùa hoa thì bướm cũng bay đi, khiến nhân vật trữ tình mỗi ngày một thấm thía nỗi buồn, thậm chí có lúc phải sững sờ, cay đắng: Vừa bắt gặp nụ cười/ Thì lại nghe tiếng cuốc.
- Âm thanh tiếng cuốc trong đoạn trích gắn liền với những cảm xúc, chiêm nghiệm sâu sắc của nhân vật trữ tình về cuộc đời, về con người, về sự xói mòn trong nhân cách con người thời hậu chiến. Lời thơ giản dị, gần gũi, chứa chan tình cảm. Thể thơ tự do và sự đan xen giữa chất suy tư và chất trữ tình đã góp phần gieo khắc tiếng chim cuốc trong tâm trí bạn đọc.
<*> Tham khảo bài viết:
Hữu Thỉnh xuất thân từ phong trào văn nghệ quần chúng rồi trưởng thành làm nhà thơ; ông từng là cán sự văn, soạn kịch rồi diễn kịch từ hồi học lớp 8, đi bộ đội làm Đội trưởng Đội tuyên văn kiêm Tổng biên tập báo (thuộc binh chủng) Tăng thiết giáp.
Khi lên đến đỉnh cao của thơ rồi, ông vẫn không thoát được tập tính phong trào, như một định mệnh. Cố nhiên là phong trào trên phạm vi cả nước: Ông hiện là Chủ tịch Ủy ban toàn quốc các Hội liên hiệp VHNT Việt Nam, Ông còn là Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam, một chức vụ mà các vị tiền nhiệm hầu như không làm gì, Tổng thư kí Hội suốt 30 năm, nhà văn Nguyễn Đình Thi nói đấy là chức vụ to thì có to, nhưng không mấy khi phải làm gì, có làm cũng không ra gì; chả lẽ lại chỉ thị rằng, nhà thơ ơi, anh hãy viết cho hay, đại khái nó na ná Tổng thư kí Liên hiệp quốc.
Nhưng với Hữu Thỉnh thì khác, ông lăn lộn với phong trào, mở trại sáng tác, xin kinh phí đầu tư/ tài trợ sáng tác, mở hội thảo về văn học nhiều vùng miền, các đề tài, thăm viếng các nhà văn lão thành, ốm đau, lâm nạn hoặc các nhà văn sống ở vùng nghèo đói, lắm thiên tai lũ lụt. Đặc biệt, Hữu Thỉnh có biệt tài viết và đọc diễn văn, tổng kết hội thảo; vừa đầy tính học thuật vừa hùng hồn mà thuyết phục chứ không sáo; nhưng đặc biệt là các điếu văn, nhiều nhà văn ao ước mình chết được Hữu Thỉnh đọc điếu văn, có người di ngôn cho con cháu niềm ao ước ấy. Cả nước không biết chị Tuyển làm sao có thể vác đạn ở cầu Hàm Rồng gấp đôi trọng lượng mình, còn tôi, thật tình, tôi không sao hiểu nổi Hữu Thỉnh lấy đâu ra năng lượng để làm việc từ 16 đến 18 giờ mỗi ngày suốt mấy chục năm qua? Năm 2009, tôi theo Hữu Thỉnh lên Đền Hùng xin lửa thiêng về làm Ngày thơ Văn Miếu, ông dẫn đầu đoàn hành hương, đi cứ phăm phăm, tôi và nhiều người theo ông lên được đền Trung thì mệt quá ngồi bệt xuống gốc đại trong khi ông sang sảng đọc khấn chức xin lửa trên đền Thượng, sợ thật!
Nhà văn Trần Chiến một lần nghe ông tổng kết hội thảo đã nhận xét, ông nghiện đám đông. Nhưng tôi thì tôi thấy ông yêu công việc, nếu không có việc thì ông sẽ ốm, nó như một cái nghiệp. Năm 1983, khi Hữu Thỉnh làm BTV ở Tạp chí Văn nghệ quân đội, tôi gửi đến một chùm thơ; ông nhắn đến để bàn bạc. Vừa mở cửa phòng, ông đã nói ngay, chỉ có tôi và ông, nhưng ông lại nói:
- Hỡi các nhà thơ, hãy khẩn trương thoát khỏi vũng bùn của sự kể lể; để thơ được bay lên bầu trời của tầm cao khái quát!
Đó là phép bút nó sẽ làm thơ Hữu Thỉnh có những bước chuyển động nhanh và dứt khoát. Có thể coi bài thơ làm năm 1962 là nơi bắt đầu, nó vừa phảng phất Nguyễn Bính vừa lộ tình lai láng:
Lá sả đấy gội đây say
Ru em bên ấy bên này thiu thiu
Chỉ hơn chục năm sau, thơ đã khác hẳn, không còn kể lể, dẫu là kể tình:
Ra sông vớt đám củi rều
Cha tôi mang về những khúc ca trôi nổi
Xin hãy đọc khổ thơ như một phác thảo cay đắng về diện mạo nông thôn:
Vạc mảnh bờ con cua mất quê
Rau đay làm lẽ buổi anh về
Ổi đào lên tỉnh xem son phấn
Mẹ vẫn chờ em róc mía de
Câu thứ ba còn vừa có vị ngọt, lại vừa có vị chua xót mà giễu cợt; một dạng thức lạ lùng của văn học trong câu có câu, ngoài vị có vị mà ngoài những tài năng, không phải ai nắm chắc bí quyết cũng vận dụng thành công.
Văn học cách mạng Việt Nam gần 70 năm qua có hai lần được đất nước coi là binh đoàn đặc biệt tinh nhuệ và thơ với hành trang ra trận gọn nhẹ của nó, đã được đưa lên tuyến đầu: 1 - Chống Pháp, Mỹ và 2 - Chống đạo đức xã hội suy thoái. Cả hai tuyến đầu đều có mặt Hữu Thỉnh. Xin không nói nhiều về thơ Hữu Thỉnh trên tuyến đầu lần thứ nhất. Phan Thiết có anh tôi, Sức bền của đất, Đường tới thành phố đã nổi tiếng, được nhiều người nói tới và có vị trí vững vàng trong văn học sử. Tôi chỉ xin thêm: Trên cái mặt bằng thơ chống Mỹ mà đặc trưng của nó là cái chung át cái riêng, kể cả nói về kỉ niệm cũng thường nhắm tới cái kỉ niệm đã trở thành hằng số, bề nổi sự kiện át hẳn chiều sâu triết luận - cái chiều sâu vốn được coi là lõi của văn học.
Các tác giả trong “tiểu đội thơ chống Mỹ” đã đi đến đỉnh cao với tất cả những ưu và khuyết điểm ấy (có lần tôi đã hình dung Phạm Tiến Duật là tiểu đội trưởng, ông đã bàn giao chức vụ ấy cho Hữu Thỉnh vào cuối cuộc chiến tranh) nhưng, nếu như độ chín của thơ Hữu Thỉnh chậm hơn cả trong tiểu đội của mình thì, không hiểu bằng bí quyết nào, thời gian chín của thơ ông lại kéo rất dài. Mặt khác, nhờ “chậm hơn” nên Đường tới thành phố có được nhiều câu nói về nỗi đau mất mát, về cái giá của chiến thắng:
Hai mươi năm chị tôi đi đò đầy
Chỉ sợ đắm vì mình còn nhan sắc
(…) Chiến dịch này ăn cơm không phải độn
Mừng thì mừng nhưng thương mẹ biết bao nhiêu
Có câu viết cứ như không mà đọc xong chợt thấy gai người:
Sau trận bom vùi gặp toàn lính mới
Lại có câu chạm được tới cõi tâm linh mà vào thời bấy giờ còn như một cấm kị:
Quàng vai bạn ta vô tình chạm phải
Cái cựa mình tin cậy của rừng đêm
Với thành công của thơ tuyến đầu lần thứ nhất, Hữu Thỉnh được chọn làm người lãnh đạo của Hội Nhà văn Việt Nam, từ thấp đến cao. Ở “ngôi” cao mà quyền lực không tương xứng, Hữu Thỉnh chịu nhiều chuyện thị phi, phải là một học trò số một của chữ nhẫn, không, đúng hơn là phải có tình yêu con người ghê gớm như ông mới chịu nổi. Chứ cả như tôi, tôi tung hê tất để viết hồi kí nghìn trang về những kẻ nói xấu ông thực ra vì cái gì; nhưng ông cứ nuốt oan ức vào lòng, để làm thơ như một nhắn nhủ: Đối với mẹ sẽ là đòn đau nhất/ Có kẻ nào rình ném bẩn lên tôi. Mà có lẽ số ông nó vậy, ông làm nô bộc cho cả ngàn người thì khá chu đáo, càng những người hay la ó ông lại càng chu đáo; chứ ít kẻ vì ông như ông đã vì họ. Nhưng ở đây có một nghịch lí, tưởng mất nhiều mà hóa ra không, từ vũng lầy của thị phi thơ như sen đã mọc, thơ đã khắc khoải trước nhân tính mà mọc lên, đưa Hữu Thỉnh lần thứ hai đứng trên tuyến đầu của thơ Việt.
Ngay sau cuộc chiến tranh chống Mỹ không lâu, vào đầu thập kỷ 80 trên mặt trận tư tưởng đã xuất hiện khái niệm tiêu cực và suy thoái xã hội. Đấy cũng là lúc chúng ta thấy thơ Hữu Thỉnh như một niềm khắc khoải trước xói mòn nhân tính:
Mỗi lần sau đám tang
Lòng ai cũng héo
Dạ ai cũng sầu
Tôi cứ tưởng tốt với nhau bao nhiêu cũng còn chưa đủ
Nhưng không phải, trời ơi, cuốc kêu không phải thế
(…) Chúng ta bị cái chết gạt về một phía
Bị hư danh gạt về một phía
Phải vượt mấy trùng khơi mới bắt gặp nụ cười
(…) Vừa mới gặp nụ cười
Thì lại nghe tiếng cuốc
Bài thơ Nghe tiếng cuốc kêu viết năm 1989, liền mấy năm sau đó, năm nào Hữu Thỉnh cũng có những bài như tiếng kêu khẩn thiết về cõi người. Đây là mấy câu trích ở Buổi sáng thức dậy:
Đi qua nhiều mũ áo
Để tìm một bàn tay
(…) Thấm mệt tôi ngồi nghỉ
Bóng mát một chùm gai
Những câu sau đây trích từ bài Một ngày:
Thêm một ngày yên tâm nhìn các con
Chưa bôi xóa chưa phản loạn
Uống nước còn biết tự xấu hổ
Chưa hắt cặn sang người khác
(…) Thêm một lần đi trên gai
Thêm một ngày được làm người lương thiện
Đây là lời của cái cây từng thiết tha xin người đổi bóng cho mình:
Mới một thoáng làm người
Cây bỗng đòi bóng lại
(…) - Bão trời ta coi khinh
Bão người không chịu nổi
Đây nữa, một câu thơ xé lòng lại cũng gắn với cây:
Một lời như thể lưỡi cưa
Khi tỉnh lại bao thân cây đã đổ
Vẫn chưa hết:
Ta đâu có đề phòng từ phía những người yêu
Cây đổ về nơi không có vết rìu
Sao lại nói về cây nhiều đến thế? Phải chăng, lí do có mặt trên đời của cây cũng giống như câu trả lời vì sao đời cần thơ, cần những nhà thơ? Chúng giống nhau cả sự yếu bấy:
Những hàng cây lặng lẽ bảo vệ mình
Bằng chính búp của thói quen đem tặng
Trên kia tôi có nói về tình yêu người ghê gớm của Hữu Thỉnh, tôi nói thế còn là bởi sau tất cả những gì phải chịu, cái lắng cặn trong thơ Hữu Thỉnh là khát vọng đẹp về con người. Đó cũng là lí do của văn học:
Cha tôi gặp trăm điều có một điều chưa gặp
Hạnh phúc
Cây rơm vẫn mơ thành đám mây vàng
Cũng có thể ông chỉ coi chúng như cái Nghiệp phải gánh:
Thu hết mọi tiếng chuông thành một sắc áo vàng
Cõi thiện xa xăm câu kinh vượt dốc
Trong cái gánh nặng căn nghiệp, ông tựa vào đâu? Có lẽ với câu trên, ông tựa vào triết luận Phật vô thường, còn câu dưới này, ông tựa vào chính tình yêu của con người:
Ước gì có chút hương bồ kết
Cho đá mềm đi núi ấm lên
Hữu Thỉnh có một mảng thơ nữa làm nên tầm vóc thơ ông, ấy là lòng yêu nước. Nhưng, khi nói về điều này, tôi chợt lại nhớ đến tập tính văn nghệ quần chúng. Năm 1977, là năm mà cái TV đen trắng Neptun của Ba Lan còn vô cùng quý hiếm, chúng tôi những văn nghệ sĩ tỉnh lẻ còn đang chúi mũi vào xem tất cả mọi chương trình. Một lần như thế, Hữu Thỉnh xuất hiện và đây là lời chào hỏi của ông:
- Hỡi các nhà văn thi sĩ, hãy vươn tầm mắt khỏi tầm ăng ten của sự ngắn ngủi trước mặt để nhìn cho rõ hình bóng quân thù và nghe thấy những bước chân rậm rịch của chúng nơi biên thùy Tổ quốc!
Đó cũng là năm Hữu Thỉnh chuẩn bị để viết Trường ca Biển và ông đã khởi thảo ngay trong những năm tháng mà vinh quang của Đường tới thành phố còn đang chói lọi. Biết làm sao, khi cái nhậy cảm trời phú cho thi sĩ khiến ông sớm nhận ra:
Cơn lốc đen đánh úp lá bàng
Tôi cảm thấy mùa thu đang mất máu
Còn một chút hoa rong giềng cuối giậu
Sợ một ngày sương muối đến mang đi
Biết làm sao, khi kinh nghiệm của chiến thắng mấy ngàn năm và của cuộc chiến vừa qua chỉ còn là những đồng tiền để tiêu trên mặt đất:
- Tôi đã đi suốt hai đầu đất nước
Biển hiu hiu thán phục
- Những vết thương của tôi nhiều hơn cả tuổi đời
Biển hiu hiu thán phục
Và biển chỉ hỏi anh đơn giản điều này:
- Anh có biết bơi không
Và, biết làm sao, khi trong trận tuyến mà ông tiên cảm có rất nhiều vấn đề trong đội ngũ:
- Người lính nói:
- Không phải ai cũng biết bơi. Thế mà sao vẫn rất nhiều cái huơ tay hãnh tiến
Biển nói:
- Họ đang bơi trên số phận của mình
Một nửa trí khôn của con người là tìm cách chứng nhận mình và chứng nhận lẫn nhau
Trong những vấn đề thuộc đội ngũ, có nhược điểm căn tính của người Việt là nhạt biển, xa rừng như nhà văn hóa TS Ngô Đức Thịnh đã chỉ ra. Và Hữu Thỉnh là nhà thơ nhiều âu lo về căn tính ấy, ông như các sĩ phu tiền nhân, lo trước cái lo của thiên hạ; ông trở thành tham mưu trưởng trên mặt trận văn học. Chiến lược của ông là quê hương hóa biển khơi, kéo biển gần lại với mỗi con người. Đây là câu thơ thuộc chương Hóa thạch những dòng sông:
Khi gặp biển là lúc dòng sông đem cho lần cuối, một cuộc cho trọn vẹn huy hoàng như thơ cho, như mùa dâng quả, cô gái đi lấy chồng làm mẹ nơi xa để lại sau lưng bao tiếng thở dài. Và khi không còn gì để cho, sông như tráng sĩ không còn vũ khí, giáo chủ không còn mật kinh, võ sư không còn bí quyết; sông như nghệ sĩ đã sắm xong vai, một kẻ trắng tay giầu có đo mình bằng kích thước của biển.
Còn câu thơ sau lại biến cái vô cùng là biển khơi thành một góc quê hương vừa cụ thể trước mắt vừa ngàn năm da diết:
Ta bới sóng đi tìm các dòng sông
Gặp cái chao chân khi em mười tám tuổi
Ta đi vớt tiếng sáo diều đắm đuối
Thúc ba hồi trống quân
Như một đặc sản trong trường ca Hữu Thỉnh, ở Trường ca Biển cũng có rất nhiều câu thơ hay nhưng thi pháp để viết chúng đã có bước chuyển động mạnh mẽ để dứt khoát hiện đại:
Đảo nhỏ quá nói một câu là hết
(…) Đảo có lính, cát non thành Tổ quốc
(…) Nổi chìm bao kiếp người
Dìu nhau ngoi trên sóng
Hữu Thỉnh có biệt tài chênh chao hóa cái cô đơn:
Em muốn đem tóc xanh
Buộc trời cho khỏi bão
Em muốn gửi tròn tay
Gối mềm trên cát đảo
Cũng như có biệt tài bình dân hóa, cố nông hóa sự vĩ đại:
Anh đã húp bát cháo loãng cuối cùng của chiến tranh
Rồi lặng lẽ đi rửa bát
Như thế, tôi nghĩ Trường ca Biển đứng ở hàng đầu những tác phẩm văn học xứng đáng nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh lần này.
- Chim cuốc là một loại chim sống nhiều ở các vùng nông thôn. Từ đầu hè đến cuối thu, lúc chiều tà hay trong đêm thanh vắng, loài chim này thường cất tiếng kêu thảng thốt mà khắc khoải, khiến nhiều người ưu tư. Loài chim này cũng xuất hiện khá nhiều ở truyện cổ tích, ca dao, thành ngữ dân gian, điển tích, điển cố, thơ ca (Qua đèo Ngang - Bà Huyện Thanh Quan, Cuốc kêu cảm hứng - Nguyễn Khuyến),...
- Trong đoạn trích:
+ Âm thanh tiếng cuốc không chỉ có mặt ở nhan đề bài thơ mà còn xuyên suốt đoạn trích và kết thúc ở cuối đoạn trích (cũng là cuối thi phẩm), tạo nên một nỗi ám ảnh ghê gớm trong lòng người đọc.
+ Đặc điểm của âm thanh tiếng cuốc:
• Tiếng cuốc kêu trong đoạn thơ trước hết là âm thanh vang lên từ không gian ở chốn làng quê: Cuốc kêu ngoài bến xa!. Hai chữ bến xa không chỉ định vị không gian, nơi khởi phát âm thanh tiếng cuốc mà còn gợi tả sự vắng lặng, yên tĩnh của không gian ấy.
• Tiếng cuốc kêu vang gắn liền với nhiều thời khắc trong cuộc đời của con người: có quá khứ (thời chiến chinh) - có hiện tại (sau chiến tranh, trưa nay, sáng nay, khi trời ngả sang chiều), có khoảnh khắc trọng đại (ngày em lạy mẹ lạy cha (...) về với anh) - có giây phút tương tranh (Phải vượt mấy trùng khơi mới bắt gặp nụ cười./ Vừa bắt gặp nụ cười),...
• Tiếng cuốc như một lời đối thoại, phản biện lại những nghĩ suy của nhân vật trữ tình về thế cuộc, về con người. Điệp khúc cuốc kêu không phải thế liên tục bác bỏ những suy tưởng trong nhân vật trữ tình: Anh cứ tưởng sau chiến tranh thì toàn là hạnh phúc - Nhưng không phải em ơi, cuốc kêu không phải thế; Tôi cứ tưởng không ai còn xấu nữa/ Tôi cứ tưởng tốt với nhau bao nhiêu cũng còn chưa đủ - Nhưng không phải, trời ơi, cuốc kêu không phải thế. Cấu trúc được trở đi trở lại khiến lời thơ như một lời phản tỉnh thành thực, buộc nhân vật trữ tình phải nghĩ khác đi những điều đã từng; từ đó, đưa đến một thông điệp: cuộc sống không hề giản đơn, một chiều, sự sống không phải chỉ có những điều tốt đẹp.
• Tiếng cuốc khắc khoải trước thế thái nhân tình đảo điên: Giếng nước than lắm kẻ chao chân/ Khu vườn than: có những con sên ngấp nghé lên trời/ Qua mùa hoa thì bướm cũng bay đi, khiến nhân vật trữ tình mỗi ngày một thấm thía nỗi buồn, thậm chí có lúc phải sững sờ, cay đắng: Vừa bắt gặp nụ cười/ Thì lại nghe tiếng cuốc.
- Âm thanh tiếng cuốc trong đoạn trích gắn liền với những cảm xúc, chiêm nghiệm sâu sắc của nhân vật trữ tình về cuộc đời, về con người, về sự xói mòn trong nhân cách con người thời hậu chiến. Lời thơ giản dị, gần gũi, chứa chan tình cảm. Thể thơ tự do và sự đan xen giữa chất suy tư và chất trữ tình đã góp phần gieo khắc tiếng chim cuốc trong tâm trí bạn đọc.
<*> Tham khảo bài viết:
Hữu Thỉnh xuất thân từ phong trào văn nghệ quần chúng rồi trưởng thành làm nhà thơ; ông từng là cán sự văn, soạn kịch rồi diễn kịch từ hồi học lớp 8, đi bộ đội làm Đội trưởng Đội tuyên văn kiêm Tổng biên tập báo (thuộc binh chủng) Tăng thiết giáp.
Khi lên đến đỉnh cao của thơ rồi, ông vẫn không thoát được tập tính phong trào, như một định mệnh. Cố nhiên là phong trào trên phạm vi cả nước: Ông hiện là Chủ tịch Ủy ban toàn quốc các Hội liên hiệp VHNT Việt Nam, Ông còn là Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam, một chức vụ mà các vị tiền nhiệm hầu như không làm gì, Tổng thư kí Hội suốt 30 năm, nhà văn Nguyễn Đình Thi nói đấy là chức vụ to thì có to, nhưng không mấy khi phải làm gì, có làm cũng không ra gì; chả lẽ lại chỉ thị rằng, nhà thơ ơi, anh hãy viết cho hay, đại khái nó na ná Tổng thư kí Liên hiệp quốc.
Nhưng với Hữu Thỉnh thì khác, ông lăn lộn với phong trào, mở trại sáng tác, xin kinh phí đầu tư/ tài trợ sáng tác, mở hội thảo về văn học nhiều vùng miền, các đề tài, thăm viếng các nhà văn lão thành, ốm đau, lâm nạn hoặc các nhà văn sống ở vùng nghèo đói, lắm thiên tai lũ lụt. Đặc biệt, Hữu Thỉnh có biệt tài viết và đọc diễn văn, tổng kết hội thảo; vừa đầy tính học thuật vừa hùng hồn mà thuyết phục chứ không sáo; nhưng đặc biệt là các điếu văn, nhiều nhà văn ao ước mình chết được Hữu Thỉnh đọc điếu văn, có người di ngôn cho con cháu niềm ao ước ấy. Cả nước không biết chị Tuyển làm sao có thể vác đạn ở cầu Hàm Rồng gấp đôi trọng lượng mình, còn tôi, thật tình, tôi không sao hiểu nổi Hữu Thỉnh lấy đâu ra năng lượng để làm việc từ 16 đến 18 giờ mỗi ngày suốt mấy chục năm qua? Năm 2009, tôi theo Hữu Thỉnh lên Đền Hùng xin lửa thiêng về làm Ngày thơ Văn Miếu, ông dẫn đầu đoàn hành hương, đi cứ phăm phăm, tôi và nhiều người theo ông lên được đền Trung thì mệt quá ngồi bệt xuống gốc đại trong khi ông sang sảng đọc khấn chức xin lửa trên đền Thượng, sợ thật!
Nhà văn Trần Chiến một lần nghe ông tổng kết hội thảo đã nhận xét, ông nghiện đám đông. Nhưng tôi thì tôi thấy ông yêu công việc, nếu không có việc thì ông sẽ ốm, nó như một cái nghiệp. Năm 1983, khi Hữu Thỉnh làm BTV ở Tạp chí Văn nghệ quân đội, tôi gửi đến một chùm thơ; ông nhắn đến để bàn bạc. Vừa mở cửa phòng, ông đã nói ngay, chỉ có tôi và ông, nhưng ông lại nói:
- Hỡi các nhà thơ, hãy khẩn trương thoát khỏi vũng bùn của sự kể lể; để thơ được bay lên bầu trời của tầm cao khái quát!
Đó là phép bút nó sẽ làm thơ Hữu Thỉnh có những bước chuyển động nhanh và dứt khoát. Có thể coi bài thơ làm năm 1962 là nơi bắt đầu, nó vừa phảng phất Nguyễn Bính vừa lộ tình lai láng:
Lá sả đấy gội đây say
Ru em bên ấy bên này thiu thiu
Chỉ hơn chục năm sau, thơ đã khác hẳn, không còn kể lể, dẫu là kể tình:
Ra sông vớt đám củi rều
Cha tôi mang về những khúc ca trôi nổi
Xin hãy đọc khổ thơ như một phác thảo cay đắng về diện mạo nông thôn:
Vạc mảnh bờ con cua mất quê
Rau đay làm lẽ buổi anh về
Ổi đào lên tỉnh xem son phấn
Mẹ vẫn chờ em róc mía de
Câu thứ ba còn vừa có vị ngọt, lại vừa có vị chua xót mà giễu cợt; một dạng thức lạ lùng của văn học trong câu có câu, ngoài vị có vị mà ngoài những tài năng, không phải ai nắm chắc bí quyết cũng vận dụng thành công.
Văn học cách mạng Việt Nam gần 70 năm qua có hai lần được đất nước coi là binh đoàn đặc biệt tinh nhuệ và thơ với hành trang ra trận gọn nhẹ của nó, đã được đưa lên tuyến đầu: 1 - Chống Pháp, Mỹ và 2 - Chống đạo đức xã hội suy thoái. Cả hai tuyến đầu đều có mặt Hữu Thỉnh. Xin không nói nhiều về thơ Hữu Thỉnh trên tuyến đầu lần thứ nhất. Phan Thiết có anh tôi, Sức bền của đất, Đường tới thành phố đã nổi tiếng, được nhiều người nói tới và có vị trí vững vàng trong văn học sử. Tôi chỉ xin thêm: Trên cái mặt bằng thơ chống Mỹ mà đặc trưng của nó là cái chung át cái riêng, kể cả nói về kỉ niệm cũng thường nhắm tới cái kỉ niệm đã trở thành hằng số, bề nổi sự kiện át hẳn chiều sâu triết luận - cái chiều sâu vốn được coi là lõi của văn học.
Các tác giả trong “tiểu đội thơ chống Mỹ” đã đi đến đỉnh cao với tất cả những ưu và khuyết điểm ấy (có lần tôi đã hình dung Phạm Tiến Duật là tiểu đội trưởng, ông đã bàn giao chức vụ ấy cho Hữu Thỉnh vào cuối cuộc chiến tranh) nhưng, nếu như độ chín của thơ Hữu Thỉnh chậm hơn cả trong tiểu đội của mình thì, không hiểu bằng bí quyết nào, thời gian chín của thơ ông lại kéo rất dài. Mặt khác, nhờ “chậm hơn” nên Đường tới thành phố có được nhiều câu nói về nỗi đau mất mát, về cái giá của chiến thắng:
Hai mươi năm chị tôi đi đò đầy
Chỉ sợ đắm vì mình còn nhan sắc
(…) Chiến dịch này ăn cơm không phải độn
Mừng thì mừng nhưng thương mẹ biết bao nhiêu
Có câu viết cứ như không mà đọc xong chợt thấy gai người:
Sau trận bom vùi gặp toàn lính mới
Lại có câu chạm được tới cõi tâm linh mà vào thời bấy giờ còn như một cấm kị:
Quàng vai bạn ta vô tình chạm phải
Cái cựa mình tin cậy của rừng đêm
Với thành công của thơ tuyến đầu lần thứ nhất, Hữu Thỉnh được chọn làm người lãnh đạo của Hội Nhà văn Việt Nam, từ thấp đến cao. Ở “ngôi” cao mà quyền lực không tương xứng, Hữu Thỉnh chịu nhiều chuyện thị phi, phải là một học trò số một của chữ nhẫn, không, đúng hơn là phải có tình yêu con người ghê gớm như ông mới chịu nổi. Chứ cả như tôi, tôi tung hê tất để viết hồi kí nghìn trang về những kẻ nói xấu ông thực ra vì cái gì; nhưng ông cứ nuốt oan ức vào lòng, để làm thơ như một nhắn nhủ: Đối với mẹ sẽ là đòn đau nhất/ Có kẻ nào rình ném bẩn lên tôi. Mà có lẽ số ông nó vậy, ông làm nô bộc cho cả ngàn người thì khá chu đáo, càng những người hay la ó ông lại càng chu đáo; chứ ít kẻ vì ông như ông đã vì họ. Nhưng ở đây có một nghịch lí, tưởng mất nhiều mà hóa ra không, từ vũng lầy của thị phi thơ như sen đã mọc, thơ đã khắc khoải trước nhân tính mà mọc lên, đưa Hữu Thỉnh lần thứ hai đứng trên tuyến đầu của thơ Việt.
Ngay sau cuộc chiến tranh chống Mỹ không lâu, vào đầu thập kỷ 80 trên mặt trận tư tưởng đã xuất hiện khái niệm tiêu cực và suy thoái xã hội. Đấy cũng là lúc chúng ta thấy thơ Hữu Thỉnh như một niềm khắc khoải trước xói mòn nhân tính:
Mỗi lần sau đám tang
Lòng ai cũng héo
Dạ ai cũng sầu
Tôi cứ tưởng tốt với nhau bao nhiêu cũng còn chưa đủ
Nhưng không phải, trời ơi, cuốc kêu không phải thế
(…) Chúng ta bị cái chết gạt về một phía
Bị hư danh gạt về một phía
Phải vượt mấy trùng khơi mới bắt gặp nụ cười
(…) Vừa mới gặp nụ cười
Thì lại nghe tiếng cuốc
Bài thơ Nghe tiếng cuốc kêu viết năm 1989, liền mấy năm sau đó, năm nào Hữu Thỉnh cũng có những bài như tiếng kêu khẩn thiết về cõi người. Đây là mấy câu trích ở Buổi sáng thức dậy:
Đi qua nhiều mũ áo
Để tìm một bàn tay
(…) Thấm mệt tôi ngồi nghỉ
Bóng mát một chùm gai
Những câu sau đây trích từ bài Một ngày:
Thêm một ngày yên tâm nhìn các con
Chưa bôi xóa chưa phản loạn
Uống nước còn biết tự xấu hổ
Chưa hắt cặn sang người khác
(…) Thêm một lần đi trên gai
Thêm một ngày được làm người lương thiện
Đây là lời của cái cây từng thiết tha xin người đổi bóng cho mình:
Mới một thoáng làm người
Cây bỗng đòi bóng lại
(…) - Bão trời ta coi khinh
Bão người không chịu nổi
Đây nữa, một câu thơ xé lòng lại cũng gắn với cây:
Một lời như thể lưỡi cưa
Khi tỉnh lại bao thân cây đã đổ
Vẫn chưa hết:
Ta đâu có đề phòng từ phía những người yêu
Cây đổ về nơi không có vết rìu
Sao lại nói về cây nhiều đến thế? Phải chăng, lí do có mặt trên đời của cây cũng giống như câu trả lời vì sao đời cần thơ, cần những nhà thơ? Chúng giống nhau cả sự yếu bấy:
Những hàng cây lặng lẽ bảo vệ mình
Bằng chính búp của thói quen đem tặng
Trên kia tôi có nói về tình yêu người ghê gớm của Hữu Thỉnh, tôi nói thế còn là bởi sau tất cả những gì phải chịu, cái lắng cặn trong thơ Hữu Thỉnh là khát vọng đẹp về con người. Đó cũng là lí do của văn học:
Cha tôi gặp trăm điều có một điều chưa gặp
Hạnh phúc
Cây rơm vẫn mơ thành đám mây vàng
Cũng có thể ông chỉ coi chúng như cái Nghiệp phải gánh:
Thu hết mọi tiếng chuông thành một sắc áo vàng
Cõi thiện xa xăm câu kinh vượt dốc
Trong cái gánh nặng căn nghiệp, ông tựa vào đâu? Có lẽ với câu trên, ông tựa vào triết luận Phật vô thường, còn câu dưới này, ông tựa vào chính tình yêu của con người:
Ước gì có chút hương bồ kết
Cho đá mềm đi núi ấm lên
Hữu Thỉnh có một mảng thơ nữa làm nên tầm vóc thơ ông, ấy là lòng yêu nước. Nhưng, khi nói về điều này, tôi chợt lại nhớ đến tập tính văn nghệ quần chúng. Năm 1977, là năm mà cái TV đen trắng Neptun của Ba Lan còn vô cùng quý hiếm, chúng tôi những văn nghệ sĩ tỉnh lẻ còn đang chúi mũi vào xem tất cả mọi chương trình. Một lần như thế, Hữu Thỉnh xuất hiện và đây là lời chào hỏi của ông:
- Hỡi các nhà văn thi sĩ, hãy vươn tầm mắt khỏi tầm ăng ten của sự ngắn ngủi trước mặt để nhìn cho rõ hình bóng quân thù và nghe thấy những bước chân rậm rịch của chúng nơi biên thùy Tổ quốc!
Đó cũng là năm Hữu Thỉnh chuẩn bị để viết Trường ca Biển và ông đã khởi thảo ngay trong những năm tháng mà vinh quang của Đường tới thành phố còn đang chói lọi. Biết làm sao, khi cái nhậy cảm trời phú cho thi sĩ khiến ông sớm nhận ra:
Cơn lốc đen đánh úp lá bàng
Tôi cảm thấy mùa thu đang mất máu
Còn một chút hoa rong giềng cuối giậu
Sợ một ngày sương muối đến mang đi
Biết làm sao, khi kinh nghiệm của chiến thắng mấy ngàn năm và của cuộc chiến vừa qua chỉ còn là những đồng tiền để tiêu trên mặt đất:
- Tôi đã đi suốt hai đầu đất nước
Biển hiu hiu thán phục
- Những vết thương của tôi nhiều hơn cả tuổi đời
Biển hiu hiu thán phục
Và biển chỉ hỏi anh đơn giản điều này:
- Anh có biết bơi không
Và, biết làm sao, khi trong trận tuyến mà ông tiên cảm có rất nhiều vấn đề trong đội ngũ:
- Người lính nói:
- Không phải ai cũng biết bơi. Thế mà sao vẫn rất nhiều cái huơ tay hãnh tiến
Biển nói:
- Họ đang bơi trên số phận của mình
Một nửa trí khôn của con người là tìm cách chứng nhận mình và chứng nhận lẫn nhau
Trong những vấn đề thuộc đội ngũ, có nhược điểm căn tính của người Việt là nhạt biển, xa rừng như nhà văn hóa TS Ngô Đức Thịnh đã chỉ ra. Và Hữu Thỉnh là nhà thơ nhiều âu lo về căn tính ấy, ông như các sĩ phu tiền nhân, lo trước cái lo của thiên hạ; ông trở thành tham mưu trưởng trên mặt trận văn học. Chiến lược của ông là quê hương hóa biển khơi, kéo biển gần lại với mỗi con người. Đây là câu thơ thuộc chương Hóa thạch những dòng sông:
Khi gặp biển là lúc dòng sông đem cho lần cuối, một cuộc cho trọn vẹn huy hoàng như thơ cho, như mùa dâng quả, cô gái đi lấy chồng làm mẹ nơi xa để lại sau lưng bao tiếng thở dài. Và khi không còn gì để cho, sông như tráng sĩ không còn vũ khí, giáo chủ không còn mật kinh, võ sư không còn bí quyết; sông như nghệ sĩ đã sắm xong vai, một kẻ trắng tay giầu có đo mình bằng kích thước của biển.
Còn câu thơ sau lại biến cái vô cùng là biển khơi thành một góc quê hương vừa cụ thể trước mắt vừa ngàn năm da diết:
Ta bới sóng đi tìm các dòng sông
Gặp cái chao chân khi em mười tám tuổi
Ta đi vớt tiếng sáo diều đắm đuối
Thúc ba hồi trống quân
Như một đặc sản trong trường ca Hữu Thỉnh, ở Trường ca Biển cũng có rất nhiều câu thơ hay nhưng thi pháp để viết chúng đã có bước chuyển động mạnh mẽ để dứt khoát hiện đại:
Đảo nhỏ quá nói một câu là hết
(…) Đảo có lính, cát non thành Tổ quốc
(…) Nổi chìm bao kiếp người
Dìu nhau ngoi trên sóng
Hữu Thỉnh có biệt tài chênh chao hóa cái cô đơn:
Em muốn đem tóc xanh
Buộc trời cho khỏi bão
Em muốn gửi tròn tay
Gối mềm trên cát đảo
Cũng như có biệt tài bình dân hóa, cố nông hóa sự vĩ đại:
Anh đã húp bát cháo loãng cuối cùng của chiến tranh
Rồi lặng lẽ đi rửa bát
Như thế, tôi nghĩ Trường ca Biển đứng ở hàng đầu những tác phẩm văn học xứng đáng nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh lần này.
(Theo Văn Chinh, Vài nét Hữu Thỉnh, nongnghiep.vn)
Câu 7 [704987]: (4,0 điểm)
Viết một bức thư cho người bạn thân thiết, trình bày suy nghĩ của anh/chị về những cơ hội và thách thức đối với giới trẻ trong thời đại 4.0 (trình bày khoảng 600 chữ).
Viết một bức thư cho người bạn thân thiết, trình bày suy nghĩ của anh/chị về những cơ hội và thách thức đối với giới trẻ trong thời đại 4.0 (trình bày khoảng 600 chữ).
Bức thư viết cho người bạn thân thiết, trình bày suy nghĩ về những cơ hội và thách thức đối với giới trẻ trong thời đại 4.0 (trình bày khoảng 600 chữ) có thể được triển khai nhiều cách. Song cần bảo đảm các yêu cầu:
- Về hình thức: Bài viết được thể hiện qua hình thức bức thư (thời gian, địa điểm, danh tính người nhận thư, lời chào đầu; lí do viết thư; nội dung bức thư; kết thúc, chào hỏi)
- Về nội dung:
** Giải thích:
- Thời đại 4.0: thời đại hiện đại, gắn liền với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư của nhân loại.
- Các cuộc cách mạng công nghiệp:
+ Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất (1.0): cuối thế kỉ XVIII - đầu thế kỉ XIX, gắn liền với phát minh ra động cơ hơi nước, động cơ đốt trong.; Cách mạng công nghiệp lần thứ hai (2.0): cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX, gắn liền với phát minh ra điện, động cơ điện.; Cách mạng công nghiệp lần thứ ba (3.0): thập niên 70 của thế kỉ XX, gắn liền với sự ra đời của máy tính, điện tử, Internet và cách mạng số hoá.
+ Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (4.0): đầu thế kỉ XXI, dựa trên sự tích hợp và hội tụ của nhiều công nghệ, mà trụ cột là công nghệ thông tin, Internet, công nghệ số và công nghệ sinh học.
Thực chất của cách mạng công nghiệp 4.0 là sự hình thành thế giới số (thế giới ảo), vốn dĩ là sự phản ánh phức tạp và sinh động thế giới vật lí (thế giới thực) cùng với sự kết nối giữa hai thế giới đó tạo nên sự biến đổi mang tính cách mạng tác động đến mọi lĩnh vực đời sống xã hội. Ở đây, số hoá và dữ liệu hoá không chỉ tác động nâng cao hiệu quả hoạt động mà còn làm thay đổi mô hình và phương thức sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp. Đồng thời, nó cũng tác động, làm thay đổi phương thức hoạt động của con người trong mọi lĩnh vực, nhất là lĩnh vực khoa học - công nghệ, văn hoá, giáo dục - đào tạo, y tế.
** Bình luận:
- Nhận diện những cơ hội và thách thức đối với người trẻ trong thời địa 4.0:
+ Cơ hội:
• Có trải nghiệm về thành quả kì diệu của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0
• Áp dụng những thành quả đó để học tập, phát triển bản thân, kết nối, khẳng định bản thân; từ đó có những đóng góp lớn lao cho xã hội
• Có nhiều việc làm mới, phù hợp với đặc điểm của giới trẻ năng động, hiện đại
+ Thách thức:
• Phải có điều kiện tiếp nhận (tinh thần, cơ sở vật chất,...)
VD: Tinh thần - không phải ai cũng sẵn sàng tiếp nhận và nhạy bén để nắm bắt những thay đổi kéo theo từ cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Cơ sở vật chất - không phải người trẻ nào cũng có điều kiện để bắt kịp những đòi hỏi từ cơ sở hạ tầng của việc
• Khả năng tiếp cận và tiếp nhận những thay đổi của thời đại 4.0
• Tình trạng thất nghiệp (do lao động máy móc thay cho lao động con người)
- Những điều kiện người trẻ cần chuẩn bị để đón nhận cơ hội, thách thức ấy
+ Tinh thần: tâm lí đón nhận (Thực tế cho thấy không phải ai cũng sẵn sàng đốn nhận những thành quả của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.); ý chí, nghị lực trước những thách thức;...
+ Nhận thức: hiểu biết đúng đắn về cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và những cơ hội, thách thức mang đến cho người trẻ;...
+ Nỗ lực hành động linh hoạt, nhạy bén trước những thay đổi của thời đại; không ngừng học tập, rèn luyện, nang cao hiểu biết để đối diện với những thách thức;...
- Chia sẻ bài học nhận thức, hành động của bản thân khi đối diện với những cơ hội và thách thức mà người trẻ phải đối mặt trong bối cảnh thời đại 4.0 hiện nay.
Lưu ý:
- Dung lượng: 600 chữ (khoảng 1,5 - 2 trang giấy thi).
- Bổ sung dẫn chứng để minh hoạ cho lập luận.
<*> Tham khảo bài viết:
Link 1: https://www.vlu.edu.vn/news/co-hoi-va-thach-thuc-cua-gen-z-truoc-suc-manh-cong-nghe-4-0
Link 2: https://thanhnien.vn/thach-thuc-cua-the-he-tre-thoi-dai-so-nhieu-co-hoi-nhung-loan-dinh-huong-1851513563.htm
- Về nội dung:
** Giải thích:
- Thời đại 4.0: thời đại hiện đại, gắn liền với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư của nhân loại.
- Các cuộc cách mạng công nghiệp:
+ Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất (1.0): cuối thế kỉ XVIII - đầu thế kỉ XIX, gắn liền với phát minh ra động cơ hơi nước, động cơ đốt trong.; Cách mạng công nghiệp lần thứ hai (2.0): cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX, gắn liền với phát minh ra điện, động cơ điện.; Cách mạng công nghiệp lần thứ ba (3.0): thập niên 70 của thế kỉ XX, gắn liền với sự ra đời của máy tính, điện tử, Internet và cách mạng số hoá.
+ Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (4.0): đầu thế kỉ XXI, dựa trên sự tích hợp và hội tụ của nhiều công nghệ, mà trụ cột là công nghệ thông tin, Internet, công nghệ số và công nghệ sinh học.
Thực chất của cách mạng công nghiệp 4.0 là sự hình thành thế giới số (thế giới ảo), vốn dĩ là sự phản ánh phức tạp và sinh động thế giới vật lí (thế giới thực) cùng với sự kết nối giữa hai thế giới đó tạo nên sự biến đổi mang tính cách mạng tác động đến mọi lĩnh vực đời sống xã hội. Ở đây, số hoá và dữ liệu hoá không chỉ tác động nâng cao hiệu quả hoạt động mà còn làm thay đổi mô hình và phương thức sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp. Đồng thời, nó cũng tác động, làm thay đổi phương thức hoạt động của con người trong mọi lĩnh vực, nhất là lĩnh vực khoa học - công nghệ, văn hoá, giáo dục - đào tạo, y tế.
** Bình luận:
- Nhận diện những cơ hội và thách thức đối với người trẻ trong thời địa 4.0:
+ Cơ hội:
• Có trải nghiệm về thành quả kì diệu của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0
• Áp dụng những thành quả đó để học tập, phát triển bản thân, kết nối, khẳng định bản thân; từ đó có những đóng góp lớn lao cho xã hội
• Có nhiều việc làm mới, phù hợp với đặc điểm của giới trẻ năng động, hiện đại
+ Thách thức:
• Phải có điều kiện tiếp nhận (tinh thần, cơ sở vật chất,...)
VD: Tinh thần - không phải ai cũng sẵn sàng tiếp nhận và nhạy bén để nắm bắt những thay đổi kéo theo từ cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Cơ sở vật chất - không phải người trẻ nào cũng có điều kiện để bắt kịp những đòi hỏi từ cơ sở hạ tầng của việc
• Khả năng tiếp cận và tiếp nhận những thay đổi của thời đại 4.0
• Tình trạng thất nghiệp (do lao động máy móc thay cho lao động con người)
- Những điều kiện người trẻ cần chuẩn bị để đón nhận cơ hội, thách thức ấy
+ Tinh thần: tâm lí đón nhận (Thực tế cho thấy không phải ai cũng sẵn sàng đốn nhận những thành quả của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.); ý chí, nghị lực trước những thách thức;...
+ Nhận thức: hiểu biết đúng đắn về cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và những cơ hội, thách thức mang đến cho người trẻ;...
+ Nỗ lực hành động linh hoạt, nhạy bén trước những thay đổi của thời đại; không ngừng học tập, rèn luyện, nang cao hiểu biết để đối diện với những thách thức;...
- Chia sẻ bài học nhận thức, hành động của bản thân khi đối diện với những cơ hội và thách thức mà người trẻ phải đối mặt trong bối cảnh thời đại 4.0 hiện nay.
Lưu ý:
- Dung lượng: 600 chữ (khoảng 1,5 - 2 trang giấy thi).
- Bổ sung dẫn chứng để minh hoạ cho lập luận.
<*> Tham khảo bài viết:
Link 1: https://www.vlu.edu.vn/news/co-hoi-va-thach-thuc-cua-gen-z-truoc-suc-manh-cong-nghe-4-0
Link 2: https://thanhnien.vn/thach-thuc-cua-the-he-tre-thoi-dai-so-nhieu-co-hoi-nhung-loan-dinh-huong-1851513563.htm