I. ĐỌC HIỂU (4,0 điểm)
Đọc đoạn trích:
“Bài thơ “Nam quốc sơn hà” được coi là “Tuyên ngôn độc lập đầu tiên của Việt Nam”, bao nhiêu năm nay vẫn được coi là của Lý Thường Kiệt. Khẳng định như thế, theo tôi, không có nghĩa Lý Thường Kiệt “giữ bản quyền” bài thơ đó. Bây giờ, một số nhà sử học cố gắng chứng minh bài thơ ấy không phải của Lý Thường Kiệt (?). Nhưng nó là của ai, thì họ chịu, không chỉ ra được. Nếu người ta hỏi ngược: “Vì sao quý vị biết bài thơ đó không phải của Lý Thường Kiệt?”, thì tôi chắc, những nhà sử học phản biện sẽ không tìm ra được câu trả lời nào thỏa đáng. Cũng phải thôi, vì bài thơ ấy ra đời cách đây đã nghìn năm, lại được in trong sách “Việt Điện U Linh” dưới dạng một truyền thuyết “tương truyền là của Lý Thường Kiệt”, mà cuốn sách này cũng có tuổi thọ gần 800 năm rồi, nên bài thơ gần như khuyết danh cũng là dễ hiểu. Nhưng “khuyết mà không khuyết”, tôi tán thành lịch sử chống xâm lược phương Bắc coi bài thơ ấy là của đại danh tướng Lý Thường Kiệt. Dù có thể Lý đại tướng quân không tự mình sáng tác bài thơ, nhưng dưới tên mình, bài thơ đã được Lý Thường Kiệt cho rao truyền như một vũ khí tinh thần cực lợi hại, khiến quân Bắc Tống chưa bị đánh đã “vỡ trận”. Vì thế mới gọi là thơ thần.
Thơ thần thì cũng do con người sáng tác, nhưng ở đây đừng quá xơ cứng khi buộc phải tìm cho ra tác giả. Nhân dân đã coi đó là bài thơ của Lý Thường Kiệt, là nhân dân đã đúng đấy! Phải là Lý Thường Kiệt đứng tên, bài thơ ấy mới có được sức mạnh vô song của thần linh, và bài thơ theo đúng truyền thống đánh giặc cứu nước của người Việt Nam, đã “lên đường ra trận”. Đó là bài thơ yêu nước đầu tiên của Việt Nam, bài thơ khẳng định chủ quyền và nền độc lập đầu tiên của Việt Nam. Nó ngắn gọn, khúc chiết, rõ ràng, và khi vào sách giáo khoa, nó phải được chú giải đàng hoàng xem “Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm” là ai? Nếu là quân giặc Tống, thì phải nói rõ quân giặc Tống ấy thuộc nước nào, từ đâu tới? Đừng như sách giáo khoa viết về cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, mà các cháu học trò không biết quân xâm lược là ai cả (?). Vì bài sử cứ viết chung chung, cố tình né tránh, cứ như sợ “phạm húy” vậy.”
“Bài thơ “Nam quốc sơn hà” được coi là “Tuyên ngôn độc lập đầu tiên của Việt Nam”, bao nhiêu năm nay vẫn được coi là của Lý Thường Kiệt. Khẳng định như thế, theo tôi, không có nghĩa Lý Thường Kiệt “giữ bản quyền” bài thơ đó. Bây giờ, một số nhà sử học cố gắng chứng minh bài thơ ấy không phải của Lý Thường Kiệt (?). Nhưng nó là của ai, thì họ chịu, không chỉ ra được. Nếu người ta hỏi ngược: “Vì sao quý vị biết bài thơ đó không phải của Lý Thường Kiệt?”, thì tôi chắc, những nhà sử học phản biện sẽ không tìm ra được câu trả lời nào thỏa đáng. Cũng phải thôi, vì bài thơ ấy ra đời cách đây đã nghìn năm, lại được in trong sách “Việt Điện U Linh” dưới dạng một truyền thuyết “tương truyền là của Lý Thường Kiệt”, mà cuốn sách này cũng có tuổi thọ gần 800 năm rồi, nên bài thơ gần như khuyết danh cũng là dễ hiểu. Nhưng “khuyết mà không khuyết”, tôi tán thành lịch sử chống xâm lược phương Bắc coi bài thơ ấy là của đại danh tướng Lý Thường Kiệt. Dù có thể Lý đại tướng quân không tự mình sáng tác bài thơ, nhưng dưới tên mình, bài thơ đã được Lý Thường Kiệt cho rao truyền như một vũ khí tinh thần cực lợi hại, khiến quân Bắc Tống chưa bị đánh đã “vỡ trận”. Vì thế mới gọi là thơ thần.
Thơ thần thì cũng do con người sáng tác, nhưng ở đây đừng quá xơ cứng khi buộc phải tìm cho ra tác giả. Nhân dân đã coi đó là bài thơ của Lý Thường Kiệt, là nhân dân đã đúng đấy! Phải là Lý Thường Kiệt đứng tên, bài thơ ấy mới có được sức mạnh vô song của thần linh, và bài thơ theo đúng truyền thống đánh giặc cứu nước của người Việt Nam, đã “lên đường ra trận”. Đó là bài thơ yêu nước đầu tiên của Việt Nam, bài thơ khẳng định chủ quyền và nền độc lập đầu tiên của Việt Nam. Nó ngắn gọn, khúc chiết, rõ ràng, và khi vào sách giáo khoa, nó phải được chú giải đàng hoàng xem “Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm” là ai? Nếu là quân giặc Tống, thì phải nói rõ quân giặc Tống ấy thuộc nước nào, từ đâu tới? Đừng như sách giáo khoa viết về cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, mà các cháu học trò không biết quân xâm lược là ai cả (?). Vì bài sử cứ viết chung chung, cố tình né tránh, cứ như sợ “phạm húy” vậy.”
(Trích Về bài thơ “Nam quốc sơn hà” - Thanh Thảo, theo baovannghe.vn)
Thực hiện các yêu cầu:
Câu 1 [706118]: Đoạn trích gồm mấy phần? Nêu nội dung chính của từng phần.
Đoạn trích gồm các phần:
- Phần thứ nhất (từ đầu đến Vì thế mới gọi là thơ thần.): Bàn luận về tác giả của bài thơ thần Nam quốc sơn hà.
- Phần thứ hai (còn lại): Từ vấn đề tác giả của bài thơ thần Nam quốc sơn hà, tác giả khẳng định giá trị của thi phẩm, đồng thời nêu ý kiến đề xuất về việc gọi đích danh kẻ thù khi giáo dục con trẻ.
- Phần thứ nhất (từ đầu đến Vì thế mới gọi là thơ thần.): Bàn luận về tác giả của bài thơ thần Nam quốc sơn hà.
- Phần thứ hai (còn lại): Từ vấn đề tác giả của bài thơ thần Nam quốc sơn hà, tác giả khẳng định giá trị của thi phẩm, đồng thời nêu ý kiến đề xuất về việc gọi đích danh kẻ thù khi giáo dục con trẻ.
Câu 2 [706119]: Theo đoạn trích, vì sao các nhà sử học phản biện sẽ không tìm ra được câu trả lời nào thỏa đáng nếu được hỏi “Vì sao quý vị biết bài thơ đó không phải của Lý Thường Kiệt?”?
Theo đoạn trích, nếu được hỏi “Vì sao quý vị biết bài thơ đó không phải của Lý Thường Kiệt?”, các nhà sử học phản biện sẽ không tìm ra được câu trả lời nào thỏa đáng vì bài thơ ấy ra đời cách đây đã nghìn năm, lại được in trong sách “Việt Điện U Linh” dưới dạng một truyền thuyết “tương truyền là của Lý Thường Kiệt”, mà cuốn sách này cũng có tuổi thọ gần 800 năm rồi (tức là bài thơ đã ra đời cách nay quá lâu rồi và lại đường truyền thuyết hoá).
Câu 3 [706120]: Đó là bài thơ yêu nước đầu tiên của Việt Nam, bài thơ khẳng định chủ quyền và nền độc lập đầu tiên của Việt Nam.
Chi tiết trên thể hiện tình cảm, thái độ nào của người viết đối với bài thơ Nam quốc sơn hà?
Chi tiết trên thể hiện tình cảm, thái độ nào của người viết đối với bài thơ Nam quốc sơn hà?
Đó là bài thơ yêu nước đầu tiên của Việt Nam, bài thơ khẳng định chủ quyền và nền độc lập đầu tiên của Việt Nam.
Chi tiết trên thể hiện tình cảm tôn kính, thái độ trân trọng, thành kính của người viết đối với bài thơ Nam quốc sơn hà.
Chi tiết trên thể hiện tình cảm tôn kính, thái độ trân trọng, thành kính của người viết đối với bài thơ Nam quốc sơn hà.
Câu 4 [706121]: Việc Thanh Thảo muốn người viết sách giáo khoa cần chú giải rõ ràng về quân xâm lược qua chi tiết Nếu là quân giặc Tống, thì phải nói rõ quân giặc Tống ấy thuộc nước nào, từ đâu tới? có ý nghĩa gì?
Việc Thanh Thảo muốn người viết sách giáo khoa cần chú giải rõ ràng về quân xâm lược qua chi tiết Nếu là quân giặc Tống, thì phải nói rõ quân giặc Tống ấy thuộc nước nào, từ đâu tới?:
- Thể hiện tinh thần thẳng thắn, trực diện của người viết đối với quân xâm lược Trung Quốc. Thanh Thảo muốn truy nguyên bè lũ cướp nước, muốn nêu rõ gốc tích cùng âm mưu xâm lược hàng ngàn năm của chúng đối với đất nước ta. (Trong một thời gian, bởi nhiều lí do, chúng ta thường né tránh việc gọi tên trực diện quân xâm lược Trung Quốc.)
- Trước thực trạng nhiều người trẻ hôm nay do thờ ơ với lịch sử đất nước nên không hề biết đến những cuộc chiến tranh xâm lược mà quân đội phương Bắc đã tiến hành đối với đất nước ta, Thanh Thảo muốn có sự chú thích rõ ràng để hậu thể được tiếp cận đầy đủ thông tin.
- Thể hiện tinh thần thẳng thắn, trực diện của người viết đối với quân xâm lược Trung Quốc. Thanh Thảo muốn truy nguyên bè lũ cướp nước, muốn nêu rõ gốc tích cùng âm mưu xâm lược hàng ngàn năm của chúng đối với đất nước ta. (Trong một thời gian, bởi nhiều lí do, chúng ta thường né tránh việc gọi tên trực diện quân xâm lược Trung Quốc.)
- Trước thực trạng nhiều người trẻ hôm nay do thờ ơ với lịch sử đất nước nên không hề biết đến những cuộc chiến tranh xâm lược mà quân đội phương Bắc đã tiến hành đối với đất nước ta, Thanh Thảo muốn có sự chú thích rõ ràng để hậu thể được tiếp cận đầy đủ thông tin.
Câu 5 [706122]: Trình bày quan điểm riêng của anh/ chị về tác giả của bài thơ Nam quốc sơn hà (trình bày khoảng 5 - 7 dòng).
Thí sinh tự do trình bày quan điểm riêng của mình về tác giả của bài thơ Nam quốc sơn hà. Chẳng hạn:
- Tôi cho rằng Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt, bởi lẽ đúng như nhà thơ Thanh Thảo lập luận, Phải là Lý Thường Kiệt đứng tên, bài thơ ấy mới có được sức mạnh vô song của thần linh...
Hoặc
- Bằng một số thông tin qua bài học trong sách giáo khoa (Ngữ văn 9 Cánh Diều) và một số bài viết của các nhà nghiên cứu văn học, tôi đồng tình với ý kiến cho rằng bài thơ Nam quốc sơn hà hiện chưa rõ tác giả.
Hoặc
- Cá nhân tôi không quá quan trọng chuyện tác giả của bài thơ Nam quốc sơn hà. Với tôi, dẫu bài thơ đó do ai viết thì cũng đều thể hiện hùng khí của cả dân tộc qua những lời tuyên bố về chủ quyền đất nước và quyết tâm đánh giặc để bảo vệ bờ cõi của nhân dân ta.
- Tôi cho rằng Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt, bởi lẽ đúng như nhà thơ Thanh Thảo lập luận, Phải là Lý Thường Kiệt đứng tên, bài thơ ấy mới có được sức mạnh vô song của thần linh...
Hoặc
- Bằng một số thông tin qua bài học trong sách giáo khoa (Ngữ văn 9 Cánh Diều) và một số bài viết của các nhà nghiên cứu văn học, tôi đồng tình với ý kiến cho rằng bài thơ Nam quốc sơn hà hiện chưa rõ tác giả.
Hoặc
- Cá nhân tôi không quá quan trọng chuyện tác giả của bài thơ Nam quốc sơn hà. Với tôi, dẫu bài thơ đó do ai viết thì cũng đều thể hiện hùng khí của cả dân tộc qua những lời tuyên bố về chủ quyền đất nước và quyết tâm đánh giặc để bảo vệ bờ cõi của nhân dân ta.
II. VIẾT (6,0 điểm)
Câu 6 [706123]: (2,0 điểm)
Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) cảm nhận về giọng điệu của bài thơ sau:
Đáo để và sắc sảo thường đi đôi với nhau
Người ta bảo cô kia hiền
Hiền và nhẫn nhịn cũng thường đi đôi với nhau
Người ta khen cô nọ thông minh
Thông minh và nhạy cảm cũng thường đi đôi với nhau
Anh kén vợ ở cặp phạm trù nào?
Em không biết
Em chỉ thấy phần nhiều những người đàn bà ngơ ngác
Thường gặp may hơn những kẻ thông minh.
Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) cảm nhận về giọng điệu của bài thơ sau:
NGHỊCH LÍ
(Nguyễn Thị Hồng Ngát)
Người ta bảo cô này đáo đểĐáo để và sắc sảo thường đi đôi với nhau
Người ta bảo cô kia hiền
Hiền và nhẫn nhịn cũng thường đi đôi với nhau
Người ta khen cô nọ thông minh
Thông minh và nhạy cảm cũng thường đi đôi với nhau
Anh kén vợ ở cặp phạm trù nào?
Em không biết
Em chỉ thấy phần nhiều những người đàn bà ngơ ngác
Thường gặp may hơn những kẻ thông minh.
(Theo Các nhà thơ nữ Việt Nam sáng tác và phê bình, NXB Giáo dục, 2001)
Đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) cảm nhận về giọng điệu của bài thơ Nghịch lí (Nguyễn Thị Hồng Ngát ) có thể được triển khai theo hướng:
- Có thể giải thích ngắn gọn giọng điệu: Thái độ, tình cảm, lập trường, tư tưởng, đạo đức của nhà văn đối với hiện tượng được miêu tả thể hiện trong lời văn, quy định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách cảm thụ xa gần, thân sơ, thành kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm biếm” (Từ điển thuật ngữ văn học - Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi)
- Giọng điệu của bài thơ Nghịch lí thực chất cũng chính là giọng điệu của nhân vật trữ tình “em”. Giọng điệu chủ đạo bài thơ là giọng suy tư, chiêm nghiệm, đậm chất triết lí.
+ Ở đoạn thơ đầu tiên, nhân vật trữ tình vừa hết sức khách quan khi tường thuật lại những lời người ta nói (Người ta bảo cô này đáo để; Người ta bảo cô kia hiền; Người ta khen cô nọ thông minh) lại vừa hết sức thông minh và thẳng thắn khi liên tục đưa ra những phản biện (Đáo để và sắc sảo thường đi đôi với nhau; Hiền và nhẫn nhịn cũng thường đi đôi với nhau; Thông minh và nhạy cảm cũng thường đi đôi với nhau). Những phản biện này chỉ có thể được nêu lên bởi một người có cái nhìn sâu sắc và đầy trải nghiệm về cuộc đời, về con người.
+ Trong đoạn thứ hai, nhân vật trữ tình cất tiếng hỏi “anh” nhưng không nhằm mục đích kiếm tìm câu trả lời. Câu hỏi của cô gái chỉ là lời đưa dẫn để tiếp tục đi đến một chiêm nghiệm khác: Em chỉ thấy phần nhiều những người đàn bà ngơ ngác/ Thường gặp may hơn những kẻ thông minh. Phát hiện này của “em” có lẽ xuất phát từ chính cuộc đời “em” hay chí ít từ những gì “em” đã trông nhìn thấy trong cuộc đời. Nó gần với cảm nghiệm “hồng nhan bạc phận”, “hồng nhan đa truân” mà dân gian hay nói, nó gần với thuyết “tài mệnh tương đố” mà Nguyễn Du đã đặt ra trong “Truyện Kiều”. Bởi lẽ đó, bên cạnh giọng chiêm nghiệm, triết lí, ở đoạn này, ta còn thấy lời thơ phảng phất một chút gì như là chạnh lòng của chính “em”, vì “em” - nhân vật trữ tình trong bài thơ này - hẳn là người thông minh. Mà kẻ thông minh thì đâu có gặp may như những người đàn bà ngơ ngác.
- Giọng điệu độc đáo trong bài thơ góp phần tô đậm cho sự sắc sảo, thông minh của chính nhân vật trữ tình; đồng thời tô đậm những nghịch lí được nêu lên trong thi phẩm, tạo ấn tượng sâu sắc trong người đọc.
- Có thể giải thích ngắn gọn giọng điệu: Thái độ, tình cảm, lập trường, tư tưởng, đạo đức của nhà văn đối với hiện tượng được miêu tả thể hiện trong lời văn, quy định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách cảm thụ xa gần, thân sơ, thành kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm biếm” (Từ điển thuật ngữ văn học - Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi)
- Giọng điệu của bài thơ Nghịch lí thực chất cũng chính là giọng điệu của nhân vật trữ tình “em”. Giọng điệu chủ đạo bài thơ là giọng suy tư, chiêm nghiệm, đậm chất triết lí.
+ Ở đoạn thơ đầu tiên, nhân vật trữ tình vừa hết sức khách quan khi tường thuật lại những lời người ta nói (Người ta bảo cô này đáo để; Người ta bảo cô kia hiền; Người ta khen cô nọ thông minh) lại vừa hết sức thông minh và thẳng thắn khi liên tục đưa ra những phản biện (Đáo để và sắc sảo thường đi đôi với nhau; Hiền và nhẫn nhịn cũng thường đi đôi với nhau; Thông minh và nhạy cảm cũng thường đi đôi với nhau). Những phản biện này chỉ có thể được nêu lên bởi một người có cái nhìn sâu sắc và đầy trải nghiệm về cuộc đời, về con người.
+ Trong đoạn thứ hai, nhân vật trữ tình cất tiếng hỏi “anh” nhưng không nhằm mục đích kiếm tìm câu trả lời. Câu hỏi của cô gái chỉ là lời đưa dẫn để tiếp tục đi đến một chiêm nghiệm khác: Em chỉ thấy phần nhiều những người đàn bà ngơ ngác/ Thường gặp may hơn những kẻ thông minh. Phát hiện này của “em” có lẽ xuất phát từ chính cuộc đời “em” hay chí ít từ những gì “em” đã trông nhìn thấy trong cuộc đời. Nó gần với cảm nghiệm “hồng nhan bạc phận”, “hồng nhan đa truân” mà dân gian hay nói, nó gần với thuyết “tài mệnh tương đố” mà Nguyễn Du đã đặt ra trong “Truyện Kiều”. Bởi lẽ đó, bên cạnh giọng chiêm nghiệm, triết lí, ở đoạn này, ta còn thấy lời thơ phảng phất một chút gì như là chạnh lòng của chính “em”, vì “em” - nhân vật trữ tình trong bài thơ này - hẳn là người thông minh. Mà kẻ thông minh thì đâu có gặp may như những người đàn bà ngơ ngác.
- Giọng điệu độc đáo trong bài thơ góp phần tô đậm cho sự sắc sảo, thông minh của chính nhân vật trữ tình; đồng thời tô đậm những nghịch lí được nêu lên trong thi phẩm, tạo ấn tượng sâu sắc trong người đọc.
Câu 7 [706124]: (4,0 điểm)
Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ), trình bày suy nghĩ của anh/chị về tình yêu Tổ quốc ở những người trẻ hôm nay.
Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ), trình bày suy nghĩ của anh/chị về tình yêu Tổ quốc ở những người trẻ hôm nay.
Bài văn nghị luận bàn về tình yêu Tổ quốc ở những người trẻ hôm nay có thể được triển khai nhiều cách. Song cần bảo đảm các ý:
1. Mở bài (gián tiếp)
- Dẫn dắt vấn đề
- Nêu vấn đề
Ví dụ: Đừng hỏi Tổ quốc đã làm gì cho ta mà cần hỏi ta đã làm gì cho Tổ quốc hôm nay. Lời hát trong ca khúc Khát vọng tuổi trẻ của nhạc sĩ Vũ Hoàng hẳn không xa lạ với giới trẻ chúng ta. Song, thực tế, có phải người trẻ nào cũng thấm thía ý nghĩa của câu hát để sống trọn tình yêu Tổ quốc?
2. Thân bài
- Sơ lược về lòng yêu nước của dân tộc Việt Nam: Yêu nước là phẩm chất cốt lõi của con người Việt Nam, là truyền thống ngàn đời của dân tộc Việt Nam (Hồ Chí Minh: Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước. Lịch sử đã có nhiều cuộc kháng chiến vĩ đại chứng tỏ tinh thần yêu nước của dân tộc ta. Chúng ta có quyền tự hào về những trang lịch sử vẻ vang thời đại Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung v.v...)
- Bàn luận về lòng yêu nước của người trẻ hôm nay:
+ Biểu hiện đa dạng qua các hành động:
• Học tập, rèn luyện không ngừng để phát triển bản thân, phụng sự, cống hiến cho đất nước (Ví dụ: Nhiều bạn trẻ sau khi du học nước ngoài đã về nước để đóng góp cho đất nước; nhiều bạn trẻ tự nguyện viết đơn tình nguyện tham gia nghĩa vụ quân sự; nhiều bạn trẻ khởi nghiệp và thành công trên chính quê hương mình; nhiều bạn trẻ phát động các dự án ý nghĩa như trồng cây gây rừng, nhặt rác trên các bãi biển;...);
• Tích cực tham gia các hoạt động phong trào để bộc lộ tình yêu Tổ quốc trong chính mình cũng như lan toả tình yêu lớn lao này tới mọi người (Ví dụ: Tưởng nhớ các anh hùng, liệt sĩ đã hi sinh, tri ân các thương bệnh binh, các mẹ Việt Nam anh hùng, mẹ liệt sĩ,... còn sống; vẽ tranh cổ động; sáng tác ca khúc về Tổ quốc;...);...
⟶ Điểm chung nổi bật của các biểu hiện này là sự trẻ trung, sáng tạo,...
+ Lòng yêu nước của người trẻ hôm nay có động lực từ truyền thống yêu nước của cha ông và trách nhiệm của mỗi người trước Tổ quốc - nơi mình và tổ tiên được sinh ra hoặc/và sinh sống.
+ Lòng yêu nước có ý nghĩa lớn lao trong việc hình thành nhân cách của mỗi người trẻ; kết nối mỗi người trẻ với nguồn cội, gia đình, quê hương mình; tạo động lực để mỗi người trẻ không ngừng phấn đấu, phát triển bản thân;...
+ Người trẻ có thể bồi dưỡng lòng yêu nước qua:
• Nhận thức: chủ động tìm hiểu để có nhận thức đúng đắn về lịch sử, cương vực lãnh thổ, chính trị, văn hoá,... của đất nước; tỉnh táo trước các âm mưu xâm lược của kẻ thù;...
• Hành động:
o Rèn luyện bản thân (thể lực, trí lực), không ngừng học tập, lao động, góp sức dựng xây đất nước,
o Lan toả hiểu biết đúng đắn về đất nước và tình yêu Tổ quốc tới mọi người,
o Cảnh giác trước âm mưu xâm lược của các thế lực thù địch,...
(Triết gia người Ý, Silvio Pellico (1789 - 1854): Chỉ người nào hiểu rõ và yêu quý các bổn phận của mình và tự mình buộc mình phải làm cho trọn vẹn các bổn phận ấy đối với đất nước mới được gọi là người có lòng yêu nước chân chính.)
- Liên hệ, mở rộng:
+ Phê phán những người trẻ có lối sống vị kỉ, không quan tâm đến lợi ích dân tộc
+ Lên án những người trẻ tiếp tay cho các hành vi chống phá Đảng, Nhà nước,...
3. Kết bài
Rút ra bài học nhận thức và hành động
- Nhận thức: Lòng yêu nước có thể được nuôi dưỡng, bồi đắp từ những việc nhỏ nhất; lòng yêu nước gắn với tình yêu gia đình, tình yêu quê hương,...
- Hành động: Lòng yêu nước cần được thể hiện đúng đắn và cần được cụ thể hoá bằng các việc làm cụ thể, có ý nghĩa.; Tuổi trẻ thường nông nổi, người trẻ yêu nước cần biết khắc phục đặc điểm này để không bị dụ dỗ, lôi kéo vào các tổ chức phản động hoặc ít nhất không bị tiêm nhiễm các tư tưởng phản động.
<*> Tham khảo bài viết:
(1) Yêu nước theo cách của người trẻ tại link https://thanhnien.vn/yeu-nuoc-theo-cach-cua-nguoi-tre-185230901195642542.htm
(2) Giới trẻ Việt Nam bày tỏ tình yêu Tổ quốc tại link https://phapluat.tuoitrethudo.vn/gioi-tre-viet-nam-bay-to-tinh-yeu-to-quoc-95187.html
1. Mở bài (gián tiếp)
- Dẫn dắt vấn đề
- Nêu vấn đề
Ví dụ: Đừng hỏi Tổ quốc đã làm gì cho ta mà cần hỏi ta đã làm gì cho Tổ quốc hôm nay. Lời hát trong ca khúc Khát vọng tuổi trẻ của nhạc sĩ Vũ Hoàng hẳn không xa lạ với giới trẻ chúng ta. Song, thực tế, có phải người trẻ nào cũng thấm thía ý nghĩa của câu hát để sống trọn tình yêu Tổ quốc?
2. Thân bài
- Sơ lược về lòng yêu nước của dân tộc Việt Nam: Yêu nước là phẩm chất cốt lõi của con người Việt Nam, là truyền thống ngàn đời của dân tộc Việt Nam (Hồ Chí Minh: Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước. Lịch sử đã có nhiều cuộc kháng chiến vĩ đại chứng tỏ tinh thần yêu nước của dân tộc ta. Chúng ta có quyền tự hào về những trang lịch sử vẻ vang thời đại Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung v.v...)
- Bàn luận về lòng yêu nước của người trẻ hôm nay:
+ Biểu hiện đa dạng qua các hành động:
• Học tập, rèn luyện không ngừng để phát triển bản thân, phụng sự, cống hiến cho đất nước (Ví dụ: Nhiều bạn trẻ sau khi du học nước ngoài đã về nước để đóng góp cho đất nước; nhiều bạn trẻ tự nguyện viết đơn tình nguyện tham gia nghĩa vụ quân sự; nhiều bạn trẻ khởi nghiệp và thành công trên chính quê hương mình; nhiều bạn trẻ phát động các dự án ý nghĩa như trồng cây gây rừng, nhặt rác trên các bãi biển;...);
• Tích cực tham gia các hoạt động phong trào để bộc lộ tình yêu Tổ quốc trong chính mình cũng như lan toả tình yêu lớn lao này tới mọi người (Ví dụ: Tưởng nhớ các anh hùng, liệt sĩ đã hi sinh, tri ân các thương bệnh binh, các mẹ Việt Nam anh hùng, mẹ liệt sĩ,... còn sống; vẽ tranh cổ động; sáng tác ca khúc về Tổ quốc;...);...
⟶ Điểm chung nổi bật của các biểu hiện này là sự trẻ trung, sáng tạo,...
+ Lòng yêu nước của người trẻ hôm nay có động lực từ truyền thống yêu nước của cha ông và trách nhiệm của mỗi người trước Tổ quốc - nơi mình và tổ tiên được sinh ra hoặc/và sinh sống.
+ Lòng yêu nước có ý nghĩa lớn lao trong việc hình thành nhân cách của mỗi người trẻ; kết nối mỗi người trẻ với nguồn cội, gia đình, quê hương mình; tạo động lực để mỗi người trẻ không ngừng phấn đấu, phát triển bản thân;...
+ Người trẻ có thể bồi dưỡng lòng yêu nước qua:
• Nhận thức: chủ động tìm hiểu để có nhận thức đúng đắn về lịch sử, cương vực lãnh thổ, chính trị, văn hoá,... của đất nước; tỉnh táo trước các âm mưu xâm lược của kẻ thù;...
• Hành động:
o Rèn luyện bản thân (thể lực, trí lực), không ngừng học tập, lao động, góp sức dựng xây đất nước,
o Lan toả hiểu biết đúng đắn về đất nước và tình yêu Tổ quốc tới mọi người,
o Cảnh giác trước âm mưu xâm lược của các thế lực thù địch,...
(Triết gia người Ý, Silvio Pellico (1789 - 1854): Chỉ người nào hiểu rõ và yêu quý các bổn phận của mình và tự mình buộc mình phải làm cho trọn vẹn các bổn phận ấy đối với đất nước mới được gọi là người có lòng yêu nước chân chính.)
- Liên hệ, mở rộng:
+ Phê phán những người trẻ có lối sống vị kỉ, không quan tâm đến lợi ích dân tộc
+ Lên án những người trẻ tiếp tay cho các hành vi chống phá Đảng, Nhà nước,...
3. Kết bài
Rút ra bài học nhận thức và hành động
- Nhận thức: Lòng yêu nước có thể được nuôi dưỡng, bồi đắp từ những việc nhỏ nhất; lòng yêu nước gắn với tình yêu gia đình, tình yêu quê hương,...
- Hành động: Lòng yêu nước cần được thể hiện đúng đắn và cần được cụ thể hoá bằng các việc làm cụ thể, có ý nghĩa.; Tuổi trẻ thường nông nổi, người trẻ yêu nước cần biết khắc phục đặc điểm này để không bị dụ dỗ, lôi kéo vào các tổ chức phản động hoặc ít nhất không bị tiêm nhiễm các tư tưởng phản động.
<*> Tham khảo bài viết:
(1) Yêu nước theo cách của người trẻ tại link https://thanhnien.vn/yeu-nuoc-theo-cach-cua-nguoi-tre-185230901195642542.htm
(2) Giới trẻ Việt Nam bày tỏ tình yêu Tổ quốc tại link https://phapluat.tuoitrethudo.vn/gioi-tre-viet-nam-bay-to-tinh-yeu-to-quoc-95187.html