I. ĐỌC HIỂU (4,0 điểm)
Đọc đoạn trích:
“Mạch thơ dường như đột ngột chuyển từ cảnh thiên nhiên sang hình ảnh “người ra đi”: một bức tranh với các hình khối, màu sắc và ánh sáng đậm, rất ấn tượng:
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy

Về hai câu thơ trên, đã có nhiều cách hiểu và phân tích khác nhau, thậm chí trái ngược. Điều này cũng không có gì lạ. Không hiếm những câu thơ hay gợi nhiều cách hiểu khác nhau, và nhiều khi chỉ có thể cảm thấy cái hay mà không thể giải thích rõ ràng ra được, hoặc cũng không nhất thiết cứ phải giải thích. Cảm thụ thơ nhiều khi cần đến trực cảm để thâm nhập vào toàn bộ thế giới nghệ thuật của bài thơ, một sự cảm nhận mang tính toàn vẹn, nguyên khối. “Người ra đi” ở đây là ai? Có người cho rằng câu thơ này nói về những chiến sĩ Trung đoàn Thủ đô giã từ Hà Nội vào đầu năm 1947, sau hai tháng chiến đấu anh dũng cầm chân giặc Pháp trong lòng Hà Nội. Việc gán cho câu thơ một nội dung sự kiện lịch sử cụ thể như thế chẳng những là khiên cưỡng mà có thể hiện một cách cảm và hiểu thơ quá “thật thà” đến máy móc! “Người ra đi” là người giã từ Hà Nội đi vào cuộc kháng chiến. Hình ảnh “người ra đi” này mới chỉ xuất hiện trong bài “Đất nước”, còn trong “tiền thân” của những câu thơ này (ở bài “Sáng mát trong như sáng năm xưa”) thì chỉ có khung cảnh vắng vẻ mà không có hình ảnh con người: “Nắng soi ngõ vắng/ Thềm cũ lối ra đi/ Lá rụng đầy” (một hình ảnh buồn vắng mà vẫn đẹp của Hà Nội trong vùng giặc chiếm). Người ra đi trong câu thơ này có cái dứt khoát của một sự lựa chọn, một cuộc ra đi vì nghĩa lớn, nhưng kẻ ra đi đâu phải là không vương vấn, lưu luyến Hà Nội, với bao nhiêu kỉ niệm của một quãng đời. Nếu câu trên: “Người ra đi đầu không ngoảnh lại” có cái cốt cách “trượng phu” mạnh mẽ, dứt khoát như một tráng sĩ, thì sự lưu luyến lại hàm chứa trong âm điệu bâng khuâng của câu sau cùng với hình ảnh của một Hà Nội thật đẹp mà buồn, vắng: “Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy”, lớp lớp lá rơi đầy trên thềm vắng, rực vàng trong ánh nắng. Câu thơ này có thể ngắt nhịp theo nhiều cách: “Sau lưng/ thềm nắng/lá rơi đầy”; “Sau lưng thềm/ nắng lá/ rơi đầy”; “Sau lưng thềm nắng/ lá rơi đầy”. Mỗi cách ngắt nhịp sẽ tạo ra những hình ảnh khác nhau cho câu thơ nhưng theo lời của tác giả thì ông muốn diễn tả một cách giản dị chứ không cầu kì, vì thế nên ngắt nhịp câu thơ này theo cách thứ nhất ở trên. Đoạn đầu (gồm bảy dòng thơ) được sáng tạo bởi một hồn thơ thật tinh tế, nhạy cảm và một ngòi bút tài hoa, đầy màu sắc, ấn tượng.
Từ hoài niệm năm xưa về mùa thu của Hà Nội, tác giả quay trở lại với mùa thu hiện tại của đất nước, trong khung cảnh rộng lớn của chiến khu Việt Bắc. Câu thơ chuyển hẳn về nhịp điệu: những câu thơ ngắn với nhịp nhanh, rộn ràng, với các vần liên tiếp “rồi”, “đồi”, “phới”, “mới” trong bốn câu thơ liền nhau mà nổi lên là hai vần trắc ở hai câu sau (“phơi phới”, “áo mới”). Đoạn thơ mở ra một không gian rộng rãi với những cảnh sắc trong trẻo, tươi sáng, sinh động (“gió thổi”, “rừng tre phấp phới”, “trời thu thay áo mới”, “trong biếc”, “nói cười”), hoà với tâm trạng vui, náo nức, phấn chấn của con người trong khung cảnh mùa thu mới của đất nước, trong buổi sáng mùa thu, không gian cũng như xa rộng hơn bởi làn không khí nhẹ và khô, bầu trời như trong và cao xanh hơn. Cả đất trời như mới mẻ, tinh khôi (“Trời thu thay áo mới”) và trong không gian mùa thu đang ngân lên những âm thanh rộn ràng, trong trẻo, cái tiếng thu đã hơn một lần được các thi sĩ cảm, nghe tinh tế (“Em không nghe mùa thu/ Dưới trăng mờ thổn thức” - Lưu Trọng Lư; “Thu đến nơi nơi động tiếng huyền” - Xuân Diệu), nhưng không còn là tiếng thu buồn muôn thuở mà là tiếng náo nức, rạo rực, rộn ràng của một mùa thu mới của đất nước.”
(Trích Đất nước - Nguyễn Văn Long, theo Văn bản đọc hiểu Ngữ văn 10, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2022)
Thực hiện các yêu cầu:
Câu 1 [706152]: Đoạn trích viết về vấn đề gì?
Đoạn trích viết về hình ảnh “người ra đi” trong mùa thu xưa và mùa thu hiện tại của đất nước trong bài thơ Đất nước (Nguyễn Đình Thi).
Câu 2 [706153]: Người viết đã minh hoạ cho cách ngắt nhịp linh hoạt trong lời thơ của Nguyễn Đình Thi như thế nào?
Người viết đã minh hoạ cho cách ngắt nhịp linh hoạt trong lời thơ của Nguyễn Đình Thi bằng các dẫn chứng: “Sau lưng/ thềm nắng/ lá rơi đầy”; “Sau lưng thềm/ nắng lá/ rơi đầy”; “Sau lưng thềm nắng/ lá rơi đầy”.
Câu 3 [706154]: Việc gán cho câu thơ một nội dung sự kiện lịch sử cụ thể như thế chẳng những là khiên cưỡng mà có thể hiện một cách cảm và hiểu thơ quá “thật thà” đến máy móc!
Chỉ ra giọng điệu của người viết được thể hiện trong câu văn trên.
Việc gán cho câu thơ một nội dung sự kiện lịch sử cụ thể như thế chẳng những là khiên cưỡng mà có thể hiện một cách cảm và hiểu thơ quá “thật thà” đến máy móc!
Giọng điệu của người viết được thể hiện trong câu văn: chê trách, phê phán lối cảm nhận thơ ca áp đặt, thiếu tinh tế (trong khi thơ là tiếng lòng cảm xúc của con người, việc tri nhận thơ ca đòi hỏi yếu tố cốt lõi là sự đồng điệu trong tâm hồn của người đọc và người viết).
Câu 4 [706155]: Nêu tác dụng của thao tác lập luận so sánh được sử dụng trong đoạn văn:
Cả đất trời như mới mẻ, tinh khôi (“Trời thu thay áo mới”) và trong không gian mùa thu đang ngân lên những âm thanh rộn ràng, trong trẻo, cái tiếng thu đã hơn một lần được các thi sĩ cảm, nghe tinh tế (“Em không nghe mùa thu/ Dưới trăng mờ thổn thức” - Lưu Trọng Lư; “Thu đến nơi nơi động tiếng huyền” - Xuân Diệu), nhưng không còn là tiếng thu buồn muôn thuở mà là tiếng náo nức, rạo rực, rộn ràng của một mùa thu mới của đất nước.”
Cả đất trời như mới mẻ, tinh khôi (“Trời thu thay áo mới”) và trong không gian mùa thu đang ngân lên những âm thanh rộn ràng, trong trẻo, cái tiếng thu đã hơn một lần được các thi sĩ cảm, nghe tinh tế (“Em không nghe mùa thu/ Dưới trăng mờ thổn thức” - Lưu Trọng Lư; “Thu đến nơi nơi động tiếng huyền” - Xuân Diệu), nhưng không còn là tiếng thu buồn muôn thuở mà là tiếng náo nức, rạo rực, rộn ràng của một mùa thu mới của đất nước.”
Tác dụng của thao tác lập luận so sánh trong đoạn văn: Làm nổi bật sự khác biệt trong xúc cảm của Nguyễn Đình Thi với các nhà thơ mới (Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu) khi viết về mùa thu; đồng thời, thao tác lập luận so sánh cũng gợi cảm nhận về tài năng, sự sáng tạo của các nhà thơ.
Câu 5 [706156]: Nêu một bài học kinh nghiệm khi viết văn nghị luận mà anh/chị nhận được từ đoạn trích trên.
Từ đoạn trích, thí sinh nêu một bài học kinh nghiệm khi viết văn nghị luận (văn học). Chẳng hạn:
- Lí lẽ đi liền với dẫn chứng.
- Đưa ý kiến thể hiện sự nhìn nhận, đánh giá chủ quan của mình về đối tượng.
- Liên hệ, so sánh vấn đề nghị luận với đối tượng liên quan.
- Đa dạng các kiểu câu (trần thuật, câu hỏi, câu cảm thán).
-...
II. VIẾT (6,0 điểm)
Câu 6 [706157]: (2,0 điểm)
Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) phân tích vẻ đẹp ngôn ngữ trong bài thơ sau:
NGƯỜI ĐẸP
(Lò Ngân Sủn)
“Ai viết tên em bằng ánh sáng
Ai vẽ hình em bằng ánh trăng”
(Dân ca Dáy)
Người đẹp trông như tuyết
Chạm vào lại thấy nóng
Người đẹp trông như lửa
Sờ vào lại thấy mát
Người không khát - nhìn thấy người đẹp cũng khát
Người không đói - nhìn thấy người đẹp cũng đói
Người muốn chết - gặp người đẹp lại không muốn chết nữa

Ơ!
Người đẹp là ước mơ
Treo trước mắt mọi người!
                                          1993
(Theo Tuyển tập Thơ Việt Nam 1975 - 2000, tập 3, NXB Hội Nhà văn, 2001)
Đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) phân tích vẻ đẹp ngôn ngữ của bài thơ Người đẹp (Lò Ngân Sủn) có thể được triển khai theo hướng:
- Lò Ngân Sủn là một nhà thơ người dân tộc Dáy, tác giả của thi phẩm nổi tiếng Chiều biên giới. Cùng với Chiều biên giới, Người đẹp là một bài thơ đặc sắc, thú vị của Lò Ngân Sủn.
- Vẻ đẹp ngôn ngữ của bài thơ:
+ Từ ngữ mộc mạc, giản dị, gần gũi (tuyết, lửa, nóng, mát, khát, đói, chết, ước mơ), không hề cầu kì, trau chuốt; cách nói gần với lời ăn tiếng nói của người dân tộc thiểu số ⟶ thể hiện xúc cảm chân thực, tự nhiên, hồn nhiên của nhân vật trữ tình về người đẹp.
+ Biện pháp tu từ
• So sánh: Người đẹp trông như tuyết, Người đẹp trông như lửa ⟶ hữu hình hoá cái đẹp. Tuyết gợi vẻ đẹp lạnh lùng, kiêu hãnh, lửa gợi vẻ nóng bỏng, quyến rũ.
• Phép nói ngược: Người đẹp trông như tuyết/ Chạm vào thấy nóng, Người đẹp trông như lửa/ Sờ vào thấy mát ⟶ Nhấn mạnh vẻ đẹp kì lạ, huyền diệu của người đẹp: lạnh lùng, kiêu hãnh nhưng hấp dẫn, lôi cuốn (chạm vào thấy nóng - cái nóng của sự mê đắm, rạo rực); nóng bỏng, quyến rũ nhưng vẫn dịu dàng (sờ vào thấy mát - cái mát của cảm giác êm ái, hạnh phúc trong tâm hồn khi được gần người đẹp).
• Phép điệp:
o Người đẹp trông như.../ Chạm vào, Sờ vào... nhấn mạnh vẻ đẹp huyền diệu của người đẹp.
o Người không khát/ đói/ muốn chết - nhìn thấy người đẹp cũng khát/ đói/ không muốn chết tô đậm sức hấp dẫn kì lạ của người đẹp. Sức mạnh của cái đẹp từ người đẹp đã được đẩy lên mức độ cực đỉnh khi nó có khả năng cứu rỗi linh hồn con người (Người muốn chết - gặp người đẹp lại không muốn chết nữa).
+ Giọng điệu hồn nhiên, tự nhiên bộc lộ cảm nghĩ thành thực của nhân vật trữ tình khi “bàn” về người đẹp: ngợi ca, tôn vinh; khao khát, trân trọng;...
- Ngôn ngữ trong bài thơ đã góp phần chuyển tải thành công tư tưởng chủ đề của thi phẩm: Mê đắm, tôn vinh người đẹp.
<*> Tham khảo bài viết:
LỜI BÌNH BÀI THƠ NGƯỜI ĐẸP (LÒ NGÂN SỦN)
Những năm gần đây các cuộc thi hoa hậu thường được tổ chức với một ban giám khảo khá nghiêm cẩn. Trong đó có cả chuyên gia nhân trắc học khi đo các vòng số thật chi li để chọn người đẹp. Nhà thơ Lò Ngân Sủn cũng là một giám khảo khi ông chọn một mẫu số chung của người đẹp bằng cách riêng của mình - cách chiêm ngưỡng của thơ.
Vị giám khảo thi sĩ thật vui tính, hóm hỉnh với cách tư duy thuần phác, trực cảm của người miền núi. Như là một kiểu nói mệnh đề, vừa nhìn bằng mắt, vừa sờ bằng tay, vừa bộc lộ trực tiếp cảm xúc của con tim, thật hồn nhiên, ngạc nhiên trước những bất ngờ mới mẻ, những cảm thấu mới mẻ nối tiếp nhau có đặc tả, có khái quát. Rõ ràng đây là một bức tranh sống động của một con người thật, một biểu tượng cái đẹp vĩnh hằng của nhân loại. Không phải ngẫu nhiên mà ông thi sĩ người Dáy này lại đưa hai câu dân ca của dân tộc mình như là một quan niệm gắn bó con người với thiên nhiên, con người hòa trong thiên nhiên. Và thiên nhiên là cái phong, cái nền để tôn vinh người đẹp - một vẻ đẹp thuần khiết trong trẻo, lấp lánh của ánh trăng, ánh sáng,...
Cái hay độc đáo của bài thơ là ông không tả mà chỉ kể - kể một hơi. Và hiệu ứng tâm lí được biểu hiện nâng cao dần cấp độ được phản ứng từ các trạng thái, tính chất của các cặp nước - lửa; nóng - lạnh; đói - khát; cái chết và sự hồi sinh. Chính cái sự nghịch lí: “Người đẹp trông như tuyết - Chạm vào lại thấy nóng - Người đẹp trông như lửa - Sờ vào lại thấy mát” theo kiểu tung hứng này đã gây được ấn tượng không những bằng thị giác, bằng xúc giác mà bằng cả cảm giác, tạo ra cái độ chênh chao, nghiêng ngã, bối rối trước một sắc đẹp không cụ thể mà cứ lan tỏa từ bất ngờ này đến ngạc nhiên khác. “Người đẹp trông như tuyết” thì rõ ràng “Nhất dáng nhì da” như ông cha đã đúc kết - Một vẻ đẹp tổng thể, hình thể. Nhưng “người đẹp trông như lửa” thì tôi tin rằng ngọn lửa này là trong lòng thi sĩ. Vẻ đẹp không còn lạnh lùng vô cảm nữa mà sinh động hẳn lên, ấm áp hẳn lên và giao cảm hẳn lên. Cái ấm nóng nồng nàn tỏa ra từ thân nhiệt người đẹp đã “bốc lửa lòng” cho người chiêm ngưỡng. Từ một phản ứng tình cảm tự nhiên từ “chạm” e dè đến “sờ” đã xóa đi cái mặc cảm thiếu tự tin, nhưng vẫn giữ được cái ranh giới của giới tính để rồi tự vấn: “Không khát - cũng khát”, “không đói - cũng đói” bằng bản năng thật thà của con người. Đói và khát mới chỉ là cấp độ thường trực hằng ngày, nhưng khi nâng lên “muốn chết - không muốn chết nữa” thì rõ ràng “cái đẹp đã cứu rỗi thế giới” như văn hào Đốt đã từng nói.
Bài thơ ngắn chỉ vỏn vẹn mười câu. Bảy câu thơ đầu Lò Ngân Sủn dùng để trào lộng, phiếm chỉ. Còn lại ba câu cuối là tiếng reo ngạc nhiên, hồn nhiên và khá nghiêm trang như một khúc ngoặt đường rừng đang bí ẩn, rậm rịt bỗng mở ra cả một ánh sáng của vẻ đẹp cánh đồng hoa tam giác mạch ở xứ Hà Giang: “Ơ! - Người đẹp là ước mơ - Treo trước mắt mọi người”. Lấy cái đẹp vĩnh hằng làm cảm xúc thức dậy trong tâm hồn mình về phía ánh sáng của cõi thiện, mĩ rất nhân văn: người đẹp không của riêng ai mà là một ước mơ - Uớc mơ ngàn đời mà ta bao giờ cũng khát khao vươn tới. Thơ hay chính là nâng cánh lãng mạn của tâm hồn như vậy.
(Nguyễn Ngọc Phú, theo vanhocnghethuathatinh.org.vn)
Câu 7 [706158]: (4,0 điểm)
Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ), trình bày suy nghĩ của anh/ chị về giá trị đích thực của cuộc sống.
Bài văn trình bày suy nghĩ về giá trị đích thực của cuộc sống có thể được triển khai nhiều cách. Song cần bảo đảm các ý:
1. Mở bài (gián tiếp)
- Dẫn dắt vấn đề
- Nêu vấn đề
Ví dụ: Với từng giây khắc đang lặng lẽ trôi qua, chúng ta cũng như hàng tỉ người trên hành tinh này vẫn đang sống. Nhưng phải chăng tất cả chúng ta đều đang có cuộc sống đích thực? Đã khi nào chúng ta chậm lại nhịp sống hối hả này để chiêm nghiệm về giá trị thực sự của sự sống này?
2. Thân bài
- “Giá trị đích thực của cuộc sống” là gì?
+ Giá trị: cái làm cho một vật có ích lợi, có ý nghĩa, là đáng quý về một mặt nào đó.
+ Thực tế, không có một định nghĩa hay khái niệm duy nhất nào cho “giá trị đích thực của cuộc sống” bởi cuộc sống thuộc về mỗi người và mỗi người có một quan niệm riêng về giá trị đích thực của cuộc sống ấy. Song, khái quát, có thể hiểu “giá trị đích thực của cuộc sống” là (những) điều góp phần làm nên ý nghĩa trong cuộc sống của mỗi chúng ta. Chẳng hạn: Người đề cao đời sống tình cảm sẽ coi trọng giá trị của tình yêu đôi lứa, tình cảm gia đình, tình bạn, tình làng xóm,... Người đề cao đời sống vật chất sẽ lấy những thành quả vật chất như tiền bạc, của cải, nhà cửa, xe cộ,... làm thước đo chất lượng cuộc sống của mình.
Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa là không có một quan niệm phù hợp nhất về “giá trị đích thực của cuộc sống”. Một cuộc sống lí tưởng nhất đó là khi chúng ta có thể cân bằng, hài hoà được các giá trị vật chất và tinh thần.
- Những giá trị đích thực của cuộc sống được mang đến từ đâu?
+ Giá trị vật chất có thể được mang đến từ sự chăm chỉ, cần cù; từ trí tuệ sắc sảo; từ khả năng nhạy bén trước thời cuộc; từ vận may;... Nếu chúng ta hội tụ được nhiều nhất có thể những điều kiện này thì cơ hội đạt được các giá trị vật chất càng cao.
+ Giá trị tinh thần được mang đến từ thế giới cảm xúc, tâm hồn của mỗi người. Những cảm xúc yêu - ghét, vui - buồn, hi vọng - thất vọng,... bắt nguồn từ chính nội tâm chúng ta. Nội tâm ấy nghèo nàn, nhạt nhẽo hay giàu có, phong phú là do chúng ta có chịu khó bồi đắp, nuôi dưỡng nó hay không.
+ Cuộc sống tốt đẹp là cuộc sống có sự hài hoà, cân bằng giữa các giá trị vật chất và tinh thần. Sự ít ỏi của mỗi giá trị sẽ khiến cho cán cân bị lệch, từ đó dẫn đến những bất an trong cuộc sống. Nghèo về vật chất khiến cuộc sống của chúng ta cơ cực, nghèo về tinh thần khiến cuộc sống chúng ta khô khan.
- Giá trị đích thực của cuộc sống mang lại những điều gì tốt đẹp cho con người? - Cuộc sống với những giá trị đích thực là thành quả xứng đáng cho những người biết tìm kiếm, kiến tạo nó; mang lại ý nghĩa thực sự của sự sống; là động lực để chúng ta vui sống mỗi ngày; góp phần làm cho sự sống của nhân loại trở nên đẹp đẽ hơn;...
- Làm thế nào để đạt được những giá trị đích thực ấy?
+ Chăm chỉ học tập, lao động; không ngừng rèn luyện bản thân; chủ động nắm bắt các cơ hội;... để tạo ra của cải vật chất đủ để phục vụ nhu cầu cuộc sống của chúng ta.
+ Không ngừng bồi đắp cảm xúc, tâm hồn bằng việc quan tâm đến thế giới nội tâm của bản thân, chăm sóc thế giới ấy (tự đối thoại với nội tâm của mình, đọc sách, nghe nhạc,...), gắn các mối quan hệ cốt lõi (gia đình, người yêu thương, bạn bè,...),...
3. Kết bài
Rút ra bài học nhận thức và hành động
- Không ngừng trau dồi bản thân để đạt được các mục tiêu giá trị vật chất và tinh thần.
- Biết cân bằng giữa các giá trị vật chất và tinh thần. Biết đủ để không đẩy mình vào những tham vọng không cùng.