I. ĐỌC HIỂU (4,0 điểm)
Đọc đoạn trích:
“Trở lại văn đàn năm 2012 với tập truyện ngắn “Thành phố đi vắng”, Nguyễn Thị Thu Huệ thường đặt nhân vật của mình trong những không gian cá nhân nhỏ hẹp. Sự xuất hiện hình ảnh những căn phòng mười bốn, mười sáu mét vuông hoặc rộng hơn là không gian của một ngôi nhà cổ với nhiều thế hệ, nhiều gia đình chung sống. Trái ngược với sự giãn nở đến chóng mặt của không gian đô thị chung, không gian cá nhân ngày càng teo tóp và bức bối. Trong không gian hẹp dễ va động và cọ xát này, trớ trêu thay con người cá nhân không tìm thấy sự an toàn và cảm giác ấm áp. Ngôi nhà đánh mất hàm nghĩa tổ ấm, chỉ đơn thuần là nơi trú ngụ của những thân xác rã rời. Với nhân vật Quang trong “Chủ nhật được xem phim hoạt hình” khi người yêu đã đi xa, không gian quen thuộc của anh là “Căn phòng mười bốn mét vuông, tầng xép của một khu nhà Pháp cổ” [2, tr.231], không gian ấy là nơi để những chiều chủ nhật thừa thãi nằm nghiên cứu các chương trình tivi và luôn dừng lại ở phim hoạt hình. Với nhân vật nữ trong truyện ngắn “Trong lúc ăn một bát phở gia truyền”: “góc phòng mười hai mét vuông, không cửa sổ” [2, tr.76] giữa một chung cư cũ là lựa chọn duy nhất cho ngày cuối tuần nếu không muốn ra đường và đối mặt với “bọn cướp chuyên nghiệp” có trang bị vũ khí. Đặt nhân vật của mình trong không gian nhỏ hẹp để gặm nhấm nỗi cô đơn, chán nản, tác giả đã cho người đọc nhận thấy xã hội ngày càng phát triển, cuộc sống của con người đủ đầy về vật chất nhưng tinh thần họ lại cảm thấy bất an, vô vị và cảm nhận cuộc sống thật vô nghĩa.
Nhân vật chính trong truyện ngắn “Thành phố đi vắng”, trở về xứ sở thân yêu của mình sau ba năm xa cách nhưng tất cả đều vỡ òa trong sự thất vọng bởi cảnh vật vẫn như xưa nhưng tình người đã đi vắng. Cô chọn cho mình không gian là căn phòng khách sạn ngày xưa, nơi ở này cô cảm nhận rõ rệt những mất mát, đổi thay của tình đời, tình người và những mất mát khó gọi thành tên. “Ba năm qua rồi, giờ cô đứng một mình nơi cửa sổ, nhìn xuống đường. Sau lưng cô, trong phòng, không có những bức phác thảo rải kín mặt giường. Không quần áo bừa bãi vắt khắp nơi. Không có anh. Không có bia. Mùa hè nhưng lạnh. Giá vẽ mini gập nguyên dựng góc cửa. Bảng màu và những ống sơn gọn gàng im lặng chân giường” [2, tr.275 - 276]. Nhốt mình trong căn phòng nhỏ, cô gái đã cảm nhận một cách sâu sắc sự đổi thay của cuộc sống phố phường. Trong môi trường sống ấy con người dường như chỉ biết sống cho bản thân mình và bàng quan với tất cả mọi thứ xung quanh. Điều đó sẽ dẫn đến sự thiếu vắng tình người, thiếu sự cảm thông chia sẻ giữa con người với nhau trong cuộc sống. Với lối viết trung tính, tác giả đã chuyển tải thành công cái mất mát trong cái đang tồn tại, cái trống trải lặng im trong cái ồn ào giữa cuộc sống nhộn nhịp, đông đúc.”
“Trở lại văn đàn năm 2012 với tập truyện ngắn “Thành phố đi vắng”, Nguyễn Thị Thu Huệ thường đặt nhân vật của mình trong những không gian cá nhân nhỏ hẹp. Sự xuất hiện hình ảnh những căn phòng mười bốn, mười sáu mét vuông hoặc rộng hơn là không gian của một ngôi nhà cổ với nhiều thế hệ, nhiều gia đình chung sống. Trái ngược với sự giãn nở đến chóng mặt của không gian đô thị chung, không gian cá nhân ngày càng teo tóp và bức bối. Trong không gian hẹp dễ va động và cọ xát này, trớ trêu thay con người cá nhân không tìm thấy sự an toàn và cảm giác ấm áp. Ngôi nhà đánh mất hàm nghĩa tổ ấm, chỉ đơn thuần là nơi trú ngụ của những thân xác rã rời. Với nhân vật Quang trong “Chủ nhật được xem phim hoạt hình” khi người yêu đã đi xa, không gian quen thuộc của anh là “Căn phòng mười bốn mét vuông, tầng xép của một khu nhà Pháp cổ” [2, tr.231], không gian ấy là nơi để những chiều chủ nhật thừa thãi nằm nghiên cứu các chương trình tivi và luôn dừng lại ở phim hoạt hình. Với nhân vật nữ trong truyện ngắn “Trong lúc ăn một bát phở gia truyền”: “góc phòng mười hai mét vuông, không cửa sổ” [2, tr.76] giữa một chung cư cũ là lựa chọn duy nhất cho ngày cuối tuần nếu không muốn ra đường và đối mặt với “bọn cướp chuyên nghiệp” có trang bị vũ khí. Đặt nhân vật của mình trong không gian nhỏ hẹp để gặm nhấm nỗi cô đơn, chán nản, tác giả đã cho người đọc nhận thấy xã hội ngày càng phát triển, cuộc sống của con người đủ đầy về vật chất nhưng tinh thần họ lại cảm thấy bất an, vô vị và cảm nhận cuộc sống thật vô nghĩa.
Nhân vật chính trong truyện ngắn “Thành phố đi vắng”, trở về xứ sở thân yêu của mình sau ba năm xa cách nhưng tất cả đều vỡ òa trong sự thất vọng bởi cảnh vật vẫn như xưa nhưng tình người đã đi vắng. Cô chọn cho mình không gian là căn phòng khách sạn ngày xưa, nơi ở này cô cảm nhận rõ rệt những mất mát, đổi thay của tình đời, tình người và những mất mát khó gọi thành tên. “Ba năm qua rồi, giờ cô đứng một mình nơi cửa sổ, nhìn xuống đường. Sau lưng cô, trong phòng, không có những bức phác thảo rải kín mặt giường. Không quần áo bừa bãi vắt khắp nơi. Không có anh. Không có bia. Mùa hè nhưng lạnh. Giá vẽ mini gập nguyên dựng góc cửa. Bảng màu và những ống sơn gọn gàng im lặng chân giường” [2, tr.275 - 276]. Nhốt mình trong căn phòng nhỏ, cô gái đã cảm nhận một cách sâu sắc sự đổi thay của cuộc sống phố phường. Trong môi trường sống ấy con người dường như chỉ biết sống cho bản thân mình và bàng quan với tất cả mọi thứ xung quanh. Điều đó sẽ dẫn đến sự thiếu vắng tình người, thiếu sự cảm thông chia sẻ giữa con người với nhau trong cuộc sống. Với lối viết trung tính, tác giả đã chuyển tải thành công cái mất mát trong cái đang tồn tại, cái trống trải lặng im trong cái ồn ào giữa cuộc sống nhộn nhịp, đông đúc.”
(Trích Không gian đời tư trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ - Đoàn Thị Lan, theo vanvn.vn)
Thực hiện các yêu cầu:
Câu 1 [706159]: Chỉ ra luận điểm của đoạn trích.
Luận điểm của đoạn trích: Tập truyện ngắn Thành phố đi vắng của Nguyễn Thị Thu Huệ thường đặt nhân vật của mình trong những không gian cá nhân nhỏ hẹp.
Câu 2 [706160]: Các dẫn chứng nào được sử dụng để minh hoạ cho luận điểm được triển khai?
Các dẫn chứng được sử dụng để minh hoạ cho luận điểm:
- những căn phòng mười bốn, mười sáu mét vuông hoặc rộng hơn là không gian của một ngôi nhà cổ với nhiều thế hệ, nhiều gia đình chung sống
- “Căn phòng mười bốn mét vuông, tầng xép của một khu nhà Pháp cổ” của nhân vật Quang trong Chủ nhật được xem phim hoạt hình.
- “góc phòng mười hai mét vuông, không cửa sổ” của nhân vật nữ trong truyện ngắn Trong lúc ăn một bát phở gia truyền.
- Căn phòng nhỏ ở một khách sạn trong truyện Thành phố đi vắng.
- những căn phòng mười bốn, mười sáu mét vuông hoặc rộng hơn là không gian của một ngôi nhà cổ với nhiều thế hệ, nhiều gia đình chung sống
- “Căn phòng mười bốn mét vuông, tầng xép của một khu nhà Pháp cổ” của nhân vật Quang trong Chủ nhật được xem phim hoạt hình.
- “góc phòng mười hai mét vuông, không cửa sổ” của nhân vật nữ trong truyện ngắn Trong lúc ăn một bát phở gia truyền.
- Căn phòng nhỏ ở một khách sạn trong truyện Thành phố đi vắng.
Câu 3 [706161]: Nêu tác dụng kết hợp thao tác lập luận chứng minh, bình luận được sử dụng trong đoạn văn đầu tiên.
- Các thao tác lập luận chứng minh, bình luận:
+ Chứng minh: tác giả dùng một số dẫn chứng từ các truyện ngắn trong tập Thành phố đi vắng của Nguyễn Thị Thu Huệ để chứng minh nhà văn thường đặt nhân vật vào trong những không gian cá nhân nhỏ hẹp.
+ Bình luận:
• Trái ngược với sự giãn nở đến chóng mặt của không gian đô thị chung, không gian cá nhân ngày càng teo tóp và bức bối. Trong không gian hẹp dễ va động và cọ xát này, trớ trêu thay con người cá nhân không tìm thấy sự an toàn và cảm giác ấm áp. Ngôi nhà đánh mất hàm nghĩa tổ ấm, chỉ đơn thuần là nơi trú ngụ của những thân xác rã rời.
• Đặt nhân vật của mình trong không gian nhỏ hẹp để gặm nhấm nỗi cô đơn, chán nản, tác giả đã cho người đọc nhận thấy xã hội ngày càng phát triển, cuộc sống của con người đủ đầy về vật chất nhưng tinh thần họ lại cảm thấy bất an, vô vị và cảm nhận cuộc sống thật vô nghĩa.
- Tác dụng của sự kết hợp thao tác lập luận chứng minh, bình luận được sử dụng trong đoạn văn:
+ Tạo nên một lập luận chặt chẽ gồm đủ luận điểm, ý kiến, bằng chứng.
+ Tạo nên tính thuyết phục của luận điểm; đồng thời giúp người viết bày tỏ được ý kiến cá nhân của mình về vấn đề bàn luận, cho thấy hiểu biết sâu rộng của người viết về vấn đề nghị luận.
+ Chứng minh: tác giả dùng một số dẫn chứng từ các truyện ngắn trong tập Thành phố đi vắng của Nguyễn Thị Thu Huệ để chứng minh nhà văn thường đặt nhân vật vào trong những không gian cá nhân nhỏ hẹp.
+ Bình luận:
• Trái ngược với sự giãn nở đến chóng mặt của không gian đô thị chung, không gian cá nhân ngày càng teo tóp và bức bối. Trong không gian hẹp dễ va động và cọ xát này, trớ trêu thay con người cá nhân không tìm thấy sự an toàn và cảm giác ấm áp. Ngôi nhà đánh mất hàm nghĩa tổ ấm, chỉ đơn thuần là nơi trú ngụ của những thân xác rã rời.
• Đặt nhân vật của mình trong không gian nhỏ hẹp để gặm nhấm nỗi cô đơn, chán nản, tác giả đã cho người đọc nhận thấy xã hội ngày càng phát triển, cuộc sống của con người đủ đầy về vật chất nhưng tinh thần họ lại cảm thấy bất an, vô vị và cảm nhận cuộc sống thật vô nghĩa.
- Tác dụng của sự kết hợp thao tác lập luận chứng minh, bình luận được sử dụng trong đoạn văn:
+ Tạo nên một lập luận chặt chẽ gồm đủ luận điểm, ý kiến, bằng chứng.
+ Tạo nên tính thuyết phục của luận điểm; đồng thời giúp người viết bày tỏ được ý kiến cá nhân của mình về vấn đề bàn luận, cho thấy hiểu biết sâu rộng của người viết về vấn đề nghị luận.
Câu 4 [706162]: Đoạn văn nghị luận về không gian trong tác phẩm “Thành phố đi vắng” được trình bày dài hơn không gian trong hai truyện “Chủ nhật được xem phim hoạt hình” và “Trong lúc ăn một bát phở gia truyền”. Điều đó có ý nghĩa gì?
Đoạn văn nghị luận về không gian trong tác phẩm Thành phố đi vắng được trình bày dài hơn không gian trong hai truyện Chủ nhật được xem phim hoạt hình và Trong lúc ăn một bát phở gia truyền. Điều đó cho thấy:
- Không gian trong Thành phố đi vắng điển hình cho kiểu không gian cá nhân nhỏ hẹp của tập truyện cùng tên.
- Thành phố đi vắng là truyện ngắn tiêu biểu hơn cả cho các truyện ngắn trong tập truyện cùng tên của nhà văn Nguyễn Thị Thu Huệ.
- Thể hiện cách nghị luận của linh hoạt của người viết: dẫn chứng đưa ra có nhấn có lướt, có trọng tâm có phụ hoạ.
- Không gian trong Thành phố đi vắng điển hình cho kiểu không gian cá nhân nhỏ hẹp của tập truyện cùng tên.
- Thành phố đi vắng là truyện ngắn tiêu biểu hơn cả cho các truyện ngắn trong tập truyện cùng tên của nhà văn Nguyễn Thị Thu Huệ.
- Thể hiện cách nghị luận của linh hoạt của người viết: dẫn chứng đưa ra có nhấn có lướt, có trọng tâm có phụ hoạ.
Câu 5 [706163]: Cảm nhận của anh/ chị về ngôn ngữ của người viết qua các từ ngữ mô tả, tái hiện không gian trong truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ trong đoạn trích trên.
- Các từ ngữ mô tả, tái hiện không gian trong truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ:
+ Từ ngữ trực tiếp miêu tả đặc điểm không gian cá nhân: nhỏ hẹp, teo tóp và bức bối, dễ va động và cọ xát, đánh mất hàm nghĩa tổ ấm, nơi trú ngụ của những thân xác rã rời,...); không gian đô thị: giãn nở đến chóng mặt.
+ Từ ngữ gián tiếp miêu tả không gian (qua cảm giác của nhân vật): cô đơn, chán nản, bất an, vô vị, mất mát, đổi thay, thiếu vắng tình người, thiếu sự cảm thông chia sẻ, trống trải lặng im.
- Các từ ngữ trên thể hiện vốn ngôn ngữ linh hoạt; giàu hình ảnh (miêu tả rõ nét đặc điểm của không gian); giàu sức gợi cảm (gợi cảm giác chật chội, ngột ngạt, vô tình,...).
+ Từ ngữ trực tiếp miêu tả đặc điểm không gian cá nhân: nhỏ hẹp, teo tóp và bức bối, dễ va động và cọ xát, đánh mất hàm nghĩa tổ ấm, nơi trú ngụ của những thân xác rã rời,...); không gian đô thị: giãn nở đến chóng mặt.
+ Từ ngữ gián tiếp miêu tả không gian (qua cảm giác của nhân vật): cô đơn, chán nản, bất an, vô vị, mất mát, đổi thay, thiếu vắng tình người, thiếu sự cảm thông chia sẻ, trống trải lặng im.
- Các từ ngữ trên thể hiện vốn ngôn ngữ linh hoạt; giàu hình ảnh (miêu tả rõ nét đặc điểm của không gian); giàu sức gợi cảm (gợi cảm giác chật chội, ngột ngạt, vô tình,...).
II. VIẾT (6,0 điểm)
Câu 6 [706164]: (2,0 điểm)
Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) phân tích những hình ảnh siêu thực trong bài thơ sau:
Đã năm năm, mười lăm năm, ba mươi năm và nửa đời tôi thấy
Những người đàn bà xuống gánh nước sông.
Những bối tóc vỡ xối xả trên lưng áo mềm và ướt
Một bàn tay họ bám vào đầu đòn gánh bé bỏng chơi vơi
Bàn tay kia bấu vào mây trắng
Sông gục mặt vào bờ đất lần đi
Những người đàn ông mang cần câu và cơn mơ biển ra khỏi nhà lặng lẽ
Những con cá thiêng quay mặt khóc
Những chiếc phao ngô chết nổi
Những người đàn ông giận dữ, buồn bã và bỏ đi
Đã năm năm, mười lăm năm, ba mươi năm và nửa đời tôi thấy
Sau những người đàn bà gánh nước sông là lũ trẻ cởi truồng
Chạy theo mẹ và lớn lên.
Con gái lại đặt đòn gánh lên vai và xuống bến
Con trai lại vác cần câu và cơn mơ biển ra khỏi nhà lặng lẽ
Và cá thiêng lại quay mặt khóc
Trước những lưỡi câu ngơ ngác lộ mồi.
1992
Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) phân tích những hình ảnh siêu thực trong bài thơ sau:
NHỮNG NGƯỜI ĐÀN BÀ GÁNH NƯỚC SÔNG
(Nguyễn Quang Thiều)
Những ngón chân xương xẩu, móng dài và đen tõe ra như móng chân gà máiĐã năm năm, mười lăm năm, ba mươi năm và nửa đời tôi thấy
Những người đàn bà xuống gánh nước sông.
Những bối tóc vỡ xối xả trên lưng áo mềm và ướt
Một bàn tay họ bám vào đầu đòn gánh bé bỏng chơi vơi
Bàn tay kia bấu vào mây trắng
Sông gục mặt vào bờ đất lần đi
Những người đàn ông mang cần câu và cơn mơ biển ra khỏi nhà lặng lẽ
Những con cá thiêng quay mặt khóc
Những chiếc phao ngô chết nổi
Những người đàn ông giận dữ, buồn bã và bỏ đi
Đã năm năm, mười lăm năm, ba mươi năm và nửa đời tôi thấy
Sau những người đàn bà gánh nước sông là lũ trẻ cởi truồng
Chạy theo mẹ và lớn lên.
Con gái lại đặt đòn gánh lên vai và xuống bến
Con trai lại vác cần câu và cơn mơ biển ra khỏi nhà lặng lẽ
Và cá thiêng lại quay mặt khóc
Trước những lưỡi câu ngơ ngác lộ mồi.
1992
(Theo Tuyển tập Thơ Việt Nam 1975 - 2000, tập 3, NXB Hội Nhà văn, 2001)
Đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) phân tích những hình ảnh siêu thực trong bài thơ Những người đàn bà gánh nước sông (Nguyễn Quang Thiều) có thể được triển khai theo hướng:
- Nguyễn Quang Thiều là một trong những gương mặt tiêu biểu của thơ ca Việt Nam đương đại với nhiều thi phẩm có yếu tố siêu thực (như Sông Đáy, Bài hát về cố hương,...). Những người đàn bà gánh nước sông là sáng tác có nhiều yếu tố siêu thực, từ cách viết phóng túng, việc đưa vào lời thơ những liên tưởng tự do, việc không tuân thủ trật tự ngữ pháp đến những dòng thơ, câu thơ được tổ chức theo hướng “lạ hoá”, phi lô gích với sự kết hợp bất thường của các từ ngữ. Song có lẽ đặc sắc hơn cả cho tính chất siêu thực trong bài thơ này chính là sự xuất hiện của hàng loạt hình ảnh hư ảo, mơ hồ, trừu tượng, khó hình dung, lí giải một cách tường minh.
- Màu sắc siêu thực từ hệ thống hình ảnh trong bài thơ Những người đàn bà gánh nước sông:
+ Nhiều nhất là những hình ảnh gắn liền với hình tượng nổi bật trong bài thơ - những người đàn bà gánh nước: Những ngón chân xương xẩu, móng dài và đen toẽ ra như móng chân gà mái, Những bối tóc vỡ xối xả trên lưng áo mềm và ướt, bàn tay - bấu vào mây trắng;
+ Sông gục mặt vào bờ đất;
+ Những con cá thiêng quay mặt khóc;
+ Những chiếc phao ngô chết nổi, những lưỡi câu ngơ ngác lộ mồi.
⟶ Điểm chung của các hình ảnh này là tính chất không thực của chúng, chẳng hạn: bàn chân của những người đàn bà gánh nước sông được miêu tả y như chân của những con gà mái, búi tóc lại có thể vỡ xối xả như bọng nước, một bàn tay có thể bấu vào mây trắng trên trời cao; hoặc các sự vật tưởng như vô tri vô giác lại sống động y như con người: sông vô tri gục mặt vào bờ đất; những con cá vô tri quay mặt khóc,...
- Ý nghĩa của các hình ảnh siêu thực trong bài thơ:
+ Các hình ảnh siêu thực gợi tả những người đàn bà gánh nước sông vừa tô đậm sự lam lũ, vất vả, cực nhọc của họ trong cuộc sống đời thường, khi phải bấm châm xuống nền đất trơn trượt để vững đôi chân trong trạng thái trên vai là hai gánh nước nặng hai đầu (những ngón chân xương xẩu, móng dài và đen toẽ ra như móng chân gà mái) vừa gợi hình dung trong người đọc về vẻ đẹp nữ tính - dẫu trong nhọc nhằn (những bối tóc vỡ xối xả trên lưng áo mềm và ướt) cùng tâm hồn khao khát, mộng mơ ở họ (bàn tay - bấu vào mây trắng). Hoá ra, cái lam lũ, nhọc nhằn kia chỉ là vẻ bề ngoài khổ sở, nó không thể xoá nhoà bao vẻ đẹp khuất lấp trong tâm hồn những người đàn bà này. Đặc điểm này không chỉ thuộc về một thế hệ đàn bà gánh nước sông mà như được lưu truyền khắp các thế hệ, suốt mấy mươi năm, từ những người đàn bà thuở trước đến những cô con gái bây giờ.
+ Các hình ảnh siêu thực còn lại (Sông gục mặt vào bờ đất; Những con cá thiêng quay mặt khóc; Những chiếc phao ngô chết nổi, những lưỡi câu ngơ ngác lộ mồi.) gợi cảm nhận về cuộc sống gieo neo của những người dân bên bến sông quê. Những người đàn ông ngày ngày cần mẫn vác cần câu lặng lẽ ra sông, họ mang theo giấc mơ biển lớn (biết đâu giấc mơ ấy cũng vĩ đại như giấc mơ của ông lão Xan-ti-a-gô trong Ông già và biển cả của Hê-ming-uê!). Có lúc những con cá thiêng phải đầu hàng họ, trở thành “chiến lợi phẩm” của họ (Những con cá thiêng quay mặt khóc) nhưng cũng có lúc họ phải giận dữ, buồn bã và bỏ đi bởi chẳng câu được chút gì...
=> Bài thơ với nhiều hình ảnh siêu thực nhưng lại gợi lên một cách chân thực cuộc sống, nhịp sống nghèo khó của những người dân quê ở một chốn làng quê.
- Nguyễn Quang Thiều là một trong những gương mặt tiêu biểu của thơ ca Việt Nam đương đại với nhiều thi phẩm có yếu tố siêu thực (như Sông Đáy, Bài hát về cố hương,...). Những người đàn bà gánh nước sông là sáng tác có nhiều yếu tố siêu thực, từ cách viết phóng túng, việc đưa vào lời thơ những liên tưởng tự do, việc không tuân thủ trật tự ngữ pháp đến những dòng thơ, câu thơ được tổ chức theo hướng “lạ hoá”, phi lô gích với sự kết hợp bất thường của các từ ngữ. Song có lẽ đặc sắc hơn cả cho tính chất siêu thực trong bài thơ này chính là sự xuất hiện của hàng loạt hình ảnh hư ảo, mơ hồ, trừu tượng, khó hình dung, lí giải một cách tường minh.
- Màu sắc siêu thực từ hệ thống hình ảnh trong bài thơ Những người đàn bà gánh nước sông:
+ Nhiều nhất là những hình ảnh gắn liền với hình tượng nổi bật trong bài thơ - những người đàn bà gánh nước: Những ngón chân xương xẩu, móng dài và đen toẽ ra như móng chân gà mái, Những bối tóc vỡ xối xả trên lưng áo mềm và ướt, bàn tay - bấu vào mây trắng;
+ Sông gục mặt vào bờ đất;
+ Những con cá thiêng quay mặt khóc;
+ Những chiếc phao ngô chết nổi, những lưỡi câu ngơ ngác lộ mồi.
⟶ Điểm chung của các hình ảnh này là tính chất không thực của chúng, chẳng hạn: bàn chân của những người đàn bà gánh nước sông được miêu tả y như chân của những con gà mái, búi tóc lại có thể vỡ xối xả như bọng nước, một bàn tay có thể bấu vào mây trắng trên trời cao; hoặc các sự vật tưởng như vô tri vô giác lại sống động y như con người: sông vô tri gục mặt vào bờ đất; những con cá vô tri quay mặt khóc,...
- Ý nghĩa của các hình ảnh siêu thực trong bài thơ:
+ Các hình ảnh siêu thực gợi tả những người đàn bà gánh nước sông vừa tô đậm sự lam lũ, vất vả, cực nhọc của họ trong cuộc sống đời thường, khi phải bấm châm xuống nền đất trơn trượt để vững đôi chân trong trạng thái trên vai là hai gánh nước nặng hai đầu (những ngón chân xương xẩu, móng dài và đen toẽ ra như móng chân gà mái) vừa gợi hình dung trong người đọc về vẻ đẹp nữ tính - dẫu trong nhọc nhằn (những bối tóc vỡ xối xả trên lưng áo mềm và ướt) cùng tâm hồn khao khát, mộng mơ ở họ (bàn tay - bấu vào mây trắng). Hoá ra, cái lam lũ, nhọc nhằn kia chỉ là vẻ bề ngoài khổ sở, nó không thể xoá nhoà bao vẻ đẹp khuất lấp trong tâm hồn những người đàn bà này. Đặc điểm này không chỉ thuộc về một thế hệ đàn bà gánh nước sông mà như được lưu truyền khắp các thế hệ, suốt mấy mươi năm, từ những người đàn bà thuở trước đến những cô con gái bây giờ.
+ Các hình ảnh siêu thực còn lại (Sông gục mặt vào bờ đất; Những con cá thiêng quay mặt khóc; Những chiếc phao ngô chết nổi, những lưỡi câu ngơ ngác lộ mồi.) gợi cảm nhận về cuộc sống gieo neo của những người dân bên bến sông quê. Những người đàn ông ngày ngày cần mẫn vác cần câu lặng lẽ ra sông, họ mang theo giấc mơ biển lớn (biết đâu giấc mơ ấy cũng vĩ đại như giấc mơ của ông lão Xan-ti-a-gô trong Ông già và biển cả của Hê-ming-uê!). Có lúc những con cá thiêng phải đầu hàng họ, trở thành “chiến lợi phẩm” của họ (Những con cá thiêng quay mặt khóc) nhưng cũng có lúc họ phải giận dữ, buồn bã và bỏ đi bởi chẳng câu được chút gì...
=> Bài thơ với nhiều hình ảnh siêu thực nhưng lại gợi lên một cách chân thực cuộc sống, nhịp sống nghèo khó của những người dân quê ở một chốn làng quê.
Câu 7 [706165]: (4,0 điểm)
Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ), trình bày suy nghĩ của anh/chị về ý nghĩa sự tồn tại của con người.
Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ), trình bày suy nghĩ của anh/chị về ý nghĩa sự tồn tại của con người.
Bài văn trình bày suy nghĩ về ý nghĩa sự tồn tại của con người có thể được triển khai nhiều cách. Song cần bảo đảm các ý:
1. Mở bài (gián tiếp)
- Dẫn dắt vấn đề
- Nêu vấn đề
Ví dụ: Hamlét - nhân vật nổi tiếng trong bi kịch cùng tên của kịch tác gia vĩ đại U. Sếch-xpia từng có một câu hỏi bất hủ: Sống hay không sống?. Hẳn nhiên, câu hỏi ấy không chỉ nhằm vào sự tồn tại sinh học. Giá trị đích thực của câu hỏi ấy nằm trong sự trăn trở về ý nghĩa đích thực của sự tồn tại.
2. Thân bài
- Giải thích ngắn gọn:
+ Tồn tại là là trạng thái sống gắn liền với các hoạt động duy trì sự sống. Các hoạt động duy trì sự sống có ý nghĩa sẽ tạo nên cuộc đời ý nghĩa.
+ Bàn về ý nghĩa sự tồn tại của con người thực chất chính là bàn về sự sống có ý nghĩa.
- Ý nghĩa sự tồn tại của con người
+ Con người là sinh vật cao cấp, là lực lượng nòng cốt góp phần tạo nên sự sống cho Trái đất. Sự tồn tại của con người trước hết có ý nghĩa góp phần duy trì sự sống cho Trái đất. Hãy thử hình dung, Trái đất này sẽ hoang vu thế nào nếu vắng bóng con người!
+ Song có lẽ, ý nghĩa của sự tồn tại của con người phải nằm ở những giá trị mà sự tồn tại ấy tạo ra cho chính con người và cho sự sống này:
• Một sự tồn tại có ý nghĩa trước hết phải mang đến những điều tốt đẹp mang đến cho chính bản thân mình: một hình thức đẹp, một tâm hồn đẹp, một nhân cách đẹp, một trí tuệ đẹp,... Hẳn nhiên, cái đẹp này phải gắn liền với cái thiện. Khi con người biết vươn đến cái đẹp, cái thiện, nỗ lực không ngừng để hoàn thiện bản thân mình, khi đó sự tồn tại của con người mang đến ý nghĩa.
• Nhưng nếu sự tồn tại của mỗi người chỉ nhằm thu vén cho chính bản thân họ thì sự tồn tại ấy cũng trở nên vô vị bởi tính chất ích kỉ của nó. Một sự tồn tại có ý nghĩa quan trọng hơn cả là phải mang lại những điều tốt đẹp, những giá trị tuyệt vời cho cuộc đời: lòng nhân ái, bao dung, vị tha; tinh thần đoàn kết, gắn bó; khát vọng dựng xây cuộc sống tươi đẹp;...
- Để sự tồn tại của mỗi người có ý nghĩa:
+ Nhận thức đúng đắn, sâu sắc về ý nghĩa sự tồn tại của bản thân trong cuộc đời.
+ Hành động:
• Mỗi người hãy nỗ lực không ngừng để phát triển và hoàn thiện bản thân trên mọi phương diện, từ thể lực đến trí lực, đến tâm hồn, nhân cách: tăng cường luyện tập thể dục thể thao; trau dồi học hỏi tri thức nhân loại qua sách vở, mạng internet; thực hiện các hoạt động bồi dưỡng tâm hồn như đọc sách, nghe nhạc, kết nối trực tiếp với người thân trong gia đình, hàng xóm láng giềng, đồng nghiệp,...
• Gắn kết bản thân với cộng đồng, tập thể; nhiệt thành và vô tư cống hiến cho cộng đồng;...
- Phê phán những con người coi nhẹ giá trị của sự sống, sống vô trách nhiệm với bản thân và cộng đồng, đất nước, nhân loại.
3. Kết bài
Rút ra bài học nhận thức và hành động
Sự tồn tại của mỗi người có ý nghĩa hay không phụ thuộc rất lớn vào nhận thức về vai trò của chúng ta tới chính bản thân chúng ta và cuộc đời. Ta không cần phải xuất chúng như Ê-đi-xơn hay Anh-xtanh,... để nhiều người biết đến song ta hoàn toàn có thể ngẩng cao đầu với thế giới để tự hào về bản thân mình khi ta biết sống có ý nghĩa.
(Lưu ý: Bổ sung dẫn chứng để bài viết thuyết phục.)
1. Mở bài (gián tiếp)
- Dẫn dắt vấn đề
- Nêu vấn đề
Ví dụ: Hamlét - nhân vật nổi tiếng trong bi kịch cùng tên của kịch tác gia vĩ đại U. Sếch-xpia từng có một câu hỏi bất hủ: Sống hay không sống?. Hẳn nhiên, câu hỏi ấy không chỉ nhằm vào sự tồn tại sinh học. Giá trị đích thực của câu hỏi ấy nằm trong sự trăn trở về ý nghĩa đích thực của sự tồn tại.
2. Thân bài
- Giải thích ngắn gọn:
+ Tồn tại là là trạng thái sống gắn liền với các hoạt động duy trì sự sống. Các hoạt động duy trì sự sống có ý nghĩa sẽ tạo nên cuộc đời ý nghĩa.
+ Bàn về ý nghĩa sự tồn tại của con người thực chất chính là bàn về sự sống có ý nghĩa.
- Ý nghĩa sự tồn tại của con người
+ Con người là sinh vật cao cấp, là lực lượng nòng cốt góp phần tạo nên sự sống cho Trái đất. Sự tồn tại của con người trước hết có ý nghĩa góp phần duy trì sự sống cho Trái đất. Hãy thử hình dung, Trái đất này sẽ hoang vu thế nào nếu vắng bóng con người!
+ Song có lẽ, ý nghĩa của sự tồn tại của con người phải nằm ở những giá trị mà sự tồn tại ấy tạo ra cho chính con người và cho sự sống này:
• Một sự tồn tại có ý nghĩa trước hết phải mang đến những điều tốt đẹp mang đến cho chính bản thân mình: một hình thức đẹp, một tâm hồn đẹp, một nhân cách đẹp, một trí tuệ đẹp,... Hẳn nhiên, cái đẹp này phải gắn liền với cái thiện. Khi con người biết vươn đến cái đẹp, cái thiện, nỗ lực không ngừng để hoàn thiện bản thân mình, khi đó sự tồn tại của con người mang đến ý nghĩa.
• Nhưng nếu sự tồn tại của mỗi người chỉ nhằm thu vén cho chính bản thân họ thì sự tồn tại ấy cũng trở nên vô vị bởi tính chất ích kỉ của nó. Một sự tồn tại có ý nghĩa quan trọng hơn cả là phải mang lại những điều tốt đẹp, những giá trị tuyệt vời cho cuộc đời: lòng nhân ái, bao dung, vị tha; tinh thần đoàn kết, gắn bó; khát vọng dựng xây cuộc sống tươi đẹp;...
- Để sự tồn tại của mỗi người có ý nghĩa:
+ Nhận thức đúng đắn, sâu sắc về ý nghĩa sự tồn tại của bản thân trong cuộc đời.
+ Hành động:
• Mỗi người hãy nỗ lực không ngừng để phát triển và hoàn thiện bản thân trên mọi phương diện, từ thể lực đến trí lực, đến tâm hồn, nhân cách: tăng cường luyện tập thể dục thể thao; trau dồi học hỏi tri thức nhân loại qua sách vở, mạng internet; thực hiện các hoạt động bồi dưỡng tâm hồn như đọc sách, nghe nhạc, kết nối trực tiếp với người thân trong gia đình, hàng xóm láng giềng, đồng nghiệp,...
• Gắn kết bản thân với cộng đồng, tập thể; nhiệt thành và vô tư cống hiến cho cộng đồng;...
- Phê phán những con người coi nhẹ giá trị của sự sống, sống vô trách nhiệm với bản thân và cộng đồng, đất nước, nhân loại.
3. Kết bài
Rút ra bài học nhận thức và hành động
Sự tồn tại của mỗi người có ý nghĩa hay không phụ thuộc rất lớn vào nhận thức về vai trò của chúng ta tới chính bản thân chúng ta và cuộc đời. Ta không cần phải xuất chúng như Ê-đi-xơn hay Anh-xtanh,... để nhiều người biết đến song ta hoàn toàn có thể ngẩng cao đầu với thế giới để tự hào về bản thân mình khi ta biết sống có ý nghĩa.
(Lưu ý: Bổ sung dẫn chứng để bài viết thuyết phục.)