I. ĐỌC HIỂU (4,0 điểm)
Đọc đoạn trích:
“Với bốn chương, chia làm 16 khổ thơ, trường ca “Những người trên cửa biển” được viết trên tinh thần “Tôi yêu Hải Phòng như Việt Nam nhỏ lại/ Tôi yêu Việt Nam như tôi biết yêu tôi”. Cái riêng hòa vào cái chung, “Những người trên cửa biển” như một “tổng phổ” về những năm tháng tận tụy của Văn Cao với thành phố cảng, từ sự thủ thỉ “quê mẹ quê cha cách một vườn trầu” đến sự san sẻ “kíp thợ đêm lê về đến xóm/ nghe rét mùa đông nổi cuối sông” và bất chợt hân hoan “những năm đầu chính quyền cách mạng/ giấc mơ của Hải Phòng/ như bóng cò trắng bay về lòng tôi thuở nhỏ”.
Thử thách thể loại trường ca đòi hỏi sức cảm sức nghĩ phi thường, cũng chính là cơ hội phô diễn một Văn Cao tài năng cồng kềnh. Hít thở không khí xứ sở độc lập tự chủ, Văn Cao khẳng định “có người hàng năm mặt trời không thấy mọc/ khép đùi xếp phách tiễn đêm đi/ hôm nay ngồi chép bài ca mới/ hương cốm mùi rơm ngát giếng đình” để mường tượng hòa bình đích thực “chúng ta sẽ trả về những bà mẹ Pháp/ núi hài cốt cuộc chiến tranh bẩn thỉu/ cũng như những người mẹ chúng tôi/ tiếc những dòng sữa, những cái hôn đã mất” và nghe được những va đập mỏng mảnh “tiếng thức dậy niềm cô đơn nuối tiếc/ những con người gần ánh sáng chưa quen”.
Mặt khác, với ý thức kẻ sĩ đau đáu với vận mệnh dân tộc, Văn Cao lập tức cảnh tỉnh “đất nước đang lên da lên thịt/ đất nước còn đang nhỏ máu ngày ngày/ ta muốn gói cuộc đời gọn gàng như trái vải/ đã thấy loài sâu nằm tròn trong cuống”, và không ngần ngại vạch mặt mối hiểm nguy “hãy dừng lại/ những tên muốn ôm cây mùa xuân không cho mọc/ những tên muốn ôm cây to che cớm mầm non”.
Đánh giá một cách cẩn trọng, trường ca “Những người trên cửa biển” đã xác lập một vị trí nhất định trong nền thơ Việt Nam thế kỉ 20, bởi tình yêu mảnh đất “mỗi người dân Hải Phòng thật kiếm ăn từ nhỏ/ mỗi người dân Hải Phòng đều biết đổ mồ hôi” đã dựng được hình tượng nhà thơ Văn Cao chung thủy với thời đại “cuộc đời ôm tôi như trong một cái bình/ một tiếng vang vang cả lòng cả đáy”.”
“Với bốn chương, chia làm 16 khổ thơ, trường ca “Những người trên cửa biển” được viết trên tinh thần “Tôi yêu Hải Phòng như Việt Nam nhỏ lại/ Tôi yêu Việt Nam như tôi biết yêu tôi”. Cái riêng hòa vào cái chung, “Những người trên cửa biển” như một “tổng phổ” về những năm tháng tận tụy của Văn Cao với thành phố cảng, từ sự thủ thỉ “quê mẹ quê cha cách một vườn trầu” đến sự san sẻ “kíp thợ đêm lê về đến xóm/ nghe rét mùa đông nổi cuối sông” và bất chợt hân hoan “những năm đầu chính quyền cách mạng/ giấc mơ của Hải Phòng/ như bóng cò trắng bay về lòng tôi thuở nhỏ”.
Thử thách thể loại trường ca đòi hỏi sức cảm sức nghĩ phi thường, cũng chính là cơ hội phô diễn một Văn Cao tài năng cồng kềnh. Hít thở không khí xứ sở độc lập tự chủ, Văn Cao khẳng định “có người hàng năm mặt trời không thấy mọc/ khép đùi xếp phách tiễn đêm đi/ hôm nay ngồi chép bài ca mới/ hương cốm mùi rơm ngát giếng đình” để mường tượng hòa bình đích thực “chúng ta sẽ trả về những bà mẹ Pháp/ núi hài cốt cuộc chiến tranh bẩn thỉu/ cũng như những người mẹ chúng tôi/ tiếc những dòng sữa, những cái hôn đã mất” và nghe được những va đập mỏng mảnh “tiếng thức dậy niềm cô đơn nuối tiếc/ những con người gần ánh sáng chưa quen”.
Mặt khác, với ý thức kẻ sĩ đau đáu với vận mệnh dân tộc, Văn Cao lập tức cảnh tỉnh “đất nước đang lên da lên thịt/ đất nước còn đang nhỏ máu ngày ngày/ ta muốn gói cuộc đời gọn gàng như trái vải/ đã thấy loài sâu nằm tròn trong cuống”, và không ngần ngại vạch mặt mối hiểm nguy “hãy dừng lại/ những tên muốn ôm cây mùa xuân không cho mọc/ những tên muốn ôm cây to che cớm mầm non”.
Đánh giá một cách cẩn trọng, trường ca “Những người trên cửa biển” đã xác lập một vị trí nhất định trong nền thơ Việt Nam thế kỉ 20, bởi tình yêu mảnh đất “mỗi người dân Hải Phòng thật kiếm ăn từ nhỏ/ mỗi người dân Hải Phòng đều biết đổ mồ hôi” đã dựng được hình tượng nhà thơ Văn Cao chung thủy với thời đại “cuộc đời ôm tôi như trong một cái bình/ một tiếng vang vang cả lòng cả đáy”.”
(Trích Nhà thơ Văn Cao có gì khác nhạc sĩ Văn Cao? - Lê Thiếu Nhơn, theo baovannghe.vn)
Thực hiện các yêu cầu:
Câu 1 [706185]: Đoạn trích nghị luận về đối tượng nào?
Đối tượng nghị luận của đoạn trích: trường ca Những người trên cửa bể của Văn Cao.
Câu 2 [706186]: Với bốn chương, chia làm 16 khổ thơ, trường ca “Những người trên cửa biển” được viết trên tinh thần “Tôi yêu Hải Phòng như Việt Nam nhỏ lại/ Tôi yêu Việt Nam như tôi biết yêu tôi”.
Câu văn trên cung cấp cho người đọc những thông tin nào về tác phẩm “Những người trên cửa biển” của nhà thơ Văn Cao?
Câu văn trên cung cấp cho người đọc những thông tin nào về tác phẩm “Những người trên cửa biển” của nhà thơ Văn Cao?
Với bốn chương, chia làm 16 khổ thơ, trường ca “Những người trên cửa biển” được viết trên tinh thần “Tôi yêu Hải Phòng như Việt Nam nhỏ lại/ Tôi yêu Việt Nam như tôi biết yêu tôi”.
Câu văn trên cung cấp cho người đọc những thông tin về hình thức và nội dung của tác phẩm Những người trên cửa biển của nhà thơ Văn Cao:
- Hình thức: bốn chương, 16 khổ thơ.
- Nội dung: tinh thần “Tôi yêu Hải Phòng như Việt Nam nhỏ lại/ Tôi yêu Việt Nam như tôi biết yêu tôi”.
Câu văn trên cung cấp cho người đọc những thông tin về hình thức và nội dung của tác phẩm Những người trên cửa biển của nhà thơ Văn Cao:
- Hình thức: bốn chương, 16 khổ thơ.
- Nội dung: tinh thần “Tôi yêu Hải Phòng như Việt Nam nhỏ lại/ Tôi yêu Việt Nam như tôi biết yêu tôi”.
Câu 3 [706187]: Thử thách thể loại trường ca đòi hỏi sức cảm sức nghĩ phi thường, cũng chính là cơ hội phô diễn một Văn Cao tài năng cồng kềnh.
Chỉ ra thái độ của người viết đối với đối tượng nghị luận trong câu văn trên.
Chỉ ra thái độ của người viết đối với đối tượng nghị luận trong câu văn trên.
Thử thách thể loại trường ca đòi hỏi sức cảm sức nghĩ phi thường, cũng chính là cơ hội phô diễn một Văn Cao tài năng cồng kềnh.
Thái độ của người viết đối với đối tượng nghị luận trong câu văn trên: khẳng định, ngợi ca, thán phục tài năng của Văn Cao khi lựa chọn thể loại trường ca để viết Những người trên cửa biển.
Thái độ của người viết đối với đối tượng nghị luận trong câu văn trên: khẳng định, ngợi ca, thán phục tài năng của Văn Cao khi lựa chọn thể loại trường ca để viết Những người trên cửa biển.
Câu 4 [706188]: Phân tích sự kết hợp giữa lí lẽ và dẫn chứng trong đoạn văn sau:
Mặt khác, với ý thức kẻ sĩ đau đáu với vận mệnh dân tộc, Văn Cao lập tức cảnh tỉnh “đất nước đang lên da lên thịt/ đất nước còn đang nhỏ máu ngày ngày/ ta muốn gói cuộc đời gọn gàng như trái vải/ đã thấy loài sâu nằm tròn trong cuống”, và không ngần ngại vạch mặt mối hiểm nguy “hãy dừng lại/ những tên muốn ôm cây mùa xuân không cho mọc/ những tên muốn ôm cây to che cớm mầm non”.
Mặt khác, với ý thức kẻ sĩ đau đáu với vận mệnh dân tộc, Văn Cao lập tức cảnh tỉnh “đất nước đang lên da lên thịt/ đất nước còn đang nhỏ máu ngày ngày/ ta muốn gói cuộc đời gọn gàng như trái vải/ đã thấy loài sâu nằm tròn trong cuống”, và không ngần ngại vạch mặt mối hiểm nguy “hãy dừng lại/ những tên muốn ôm cây mùa xuân không cho mọc/ những tên muốn ôm cây to che cớm mầm non”.
- Sự kết hợp giữa lí lẽ và dẫn chứng trong đoạn văn:
+ Lí lẽ: với ý thức kẻ sĩ đau đáu với vận mệnh dân tộc, Văn Cao lập tức cảnh tỉnh; không ngần ngại vạch mặt mối hiểm nguy.
+ Dẫn chứng: các câu thơ trong Những người trên cửa biển (“đất nước đang lên da lên thịt/ đất nước còn đang nhỏ máu ngày ngày/ ta muốn gói cuộc đời gọn gàng như trái vải/ đã thấy loài sâu nằm tròn trong cuống”; “hãy dừng lại/ những tên muốn ôm cây mùa xuân không cho mọc/ những tên muốn ôm cây to che cớm mầm non”).
- Tác dụng của sự kết hợp giữa lí lẽ và dẫn chứng trong đoạn văn:
+ Tạo nên một lập luận chặt chẽ, thuyết phục cho đoạn văn.
+ Thể hiện rõ ràng quan điểm, sự nhìn nhận, đánh giá của người viết về vấn đề nghị luận.
+ Lí lẽ: với ý thức kẻ sĩ đau đáu với vận mệnh dân tộc, Văn Cao lập tức cảnh tỉnh; không ngần ngại vạch mặt mối hiểm nguy.
+ Dẫn chứng: các câu thơ trong Những người trên cửa biển (“đất nước đang lên da lên thịt/ đất nước còn đang nhỏ máu ngày ngày/ ta muốn gói cuộc đời gọn gàng như trái vải/ đã thấy loài sâu nằm tròn trong cuống”; “hãy dừng lại/ những tên muốn ôm cây mùa xuân không cho mọc/ những tên muốn ôm cây to che cớm mầm non”).
- Tác dụng của sự kết hợp giữa lí lẽ và dẫn chứng trong đoạn văn:
+ Tạo nên một lập luận chặt chẽ, thuyết phục cho đoạn văn.
+ Thể hiện rõ ràng quan điểm, sự nhìn nhận, đánh giá của người viết về vấn đề nghị luận.
Câu 5 [706189]: Cụm từ Đánh giá một cách cẩn trọng trong đoạn trích đưa đến bài học nào khi phân tích, đánh giá một tác phẩm văn học?
Cụm từ Đánh giá một cách cẩn trọng trong đoạn trích đưa đến bài học về sự nghiêm túc, cẩn thận, kĩ lưỡng khi phân tích, đánh giá một tác phẩm văn học. Mọi kết luận vội vàng, hồ đồ sẽ khiến chúng ta không nhìn nhận thấu đáo công sức, tài năng của người nghệ sĩ; đồng thời chính bản thân người tiếp nhận sẽ không được đón nhận vẻ đẹp thực sự của tác phẩm văn chương.
II. VIẾT (6,0 điểm)
Câu 6 [706190]: (2,0 điểm)
Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) cảm nhận về hình tượng nhân vật trữ tình trong bài thơ sau:
PHÁC THẢO CỎ
(Bùi Hoàng Tám)
Anh chỉ là ngọn cỏ
Gần đất nên xa trời
Đan vào nhau mà sống
Kết vào nhau làm vui
Tự anh nhận ánh sáng
Tự anh che cho anh
Tự anh hút mật đất
Mà xanh cho trời xanh
Anh chỉ là ngọn cỏ
Như lẽ đời giản đơn
Nhưng em ơi vắng cỏ
Lấy gì xanh núi non
Anh chỉ là ngọn cỏ
Đêm đêm nằm uống sương
Giọt sương giọt nước mắt
Em thương anh thì thương...
Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) cảm nhận về hình tượng nhân vật trữ tình trong bài thơ sau:
PHÁC THẢO CỎ
(Bùi Hoàng Tám)
Anh chỉ là ngọn cỏ
Gần đất nên xa trời
Đan vào nhau mà sống
Kết vào nhau làm vui
Tự anh nhận ánh sáng
Tự anh che cho anh
Tự anh hút mật đất
Mà xanh cho trời xanh
Anh chỉ là ngọn cỏ
Như lẽ đời giản đơn
Nhưng em ơi vắng cỏ
Lấy gì xanh núi non
Anh chỉ là ngọn cỏ
Đêm đêm nằm uống sương
Giọt sương giọt nước mắt
Em thương anh thì thương...
(Theo Tuyển tập Thơ Việt Nam 1975 - 2000, tập 3, NXB Hội Nhà văn, 2001)
Đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) cảm nhận về hình tượng nhân vật trữ tình trong bài thơ Phác thảo cỏ (Bùi Hoàng Tám) có thể được triển khai theo hướng:
- Vài nét sơ lược về nhà thơ Bùi Hoàng Tám: Bùi Hoàng Tám được nhiều người biết đến với những bài thơ hài hước dân dã, thoạt nghe tưởng chỉ là giai thoại. Nhưng đằng sau tiếng cười của anh luôn phảng phất một nỗi niềm nhân thế cảm động và thấm thía. Dường như người - đàn - ông - thơ trong Bùi Hoàng Tám đã trải qua, thấu hiểu những mất mát ở đời cũng như niềm vui đang hiện hữu chỉ là tạm thời, chỉ có tình người và tình yêu mới là vĩnh cửu (Hữu Việt)
- Cảm nhận về hình tượng nhân vật trữ tình trong bài thơ Phác thảo cỏ:
+ Nhân vật trữ tình trong bài thơ: “anh” - một người đàn ông.
+ Người đàn ông tự nhận mình là ngọn cỏ bé mọn, khiêm nhường, giản dị, đời thường. Điệp khúc Anh chỉ là ngọn cỏ lặp lại ba lần và xuyên suốt bài thơ khiến lời thơ vừa như lời tự nhủ vừa như lời xác quyết về tính chất giản dị, bình thường của bản thân. Song ngọn cỏ ấy bình thường mà không tầm thường. Ngọn cỏ vẫn ngày hằng sống ngày hằng xanh những phẩm chất đẹp đẽ:
• Khao khát gắn bó, gắn kết với cuộc đời: Đan vào nhau mà sống/ Kết vào nhau làm vui. Các động từ đan, kết mô tả hành động tích cực nhằm kiến tạo nên sự sống đích thực (mà sống, mà vui).
• Nỗ lực không ngừng trong hành trình sống, luôn tự lực, chắt chiu sự sống: Tự anh nhận ánh sáng/ Tự anh che cho anh/ Tự anh hút mật đất nhưng không để vị kỉ mà để vị tha (Mà xanh cho trời xanh). Điệp từ tự kết hợp cùng cấu trúc lặp (Tự anh + động từ...) tô đậm nỗ lực tự thân cùng khát vọng dâng hiến tuyệt vời cho sự sống, cho cuộc đời của “anh”.
• Nhận thức sâu sắc về giá trị của bản thân: Nhưng em ơi vắng cỏ/ Lấy gì xanh núi non. Một giả định được đặt ra (nếu vắng cỏ) gắn liền với câu hỏi tu từ (Lấy gì xanh núi non) biến lời thơ trở thành lời tự khẳng định (dù rất khiêm nhường) về đóng góp bé nhỏ của bản thân với cuộc đời. Núi non kia lớn lao, kì vĩ thực nhưng sẽ hoang vu, xơ xác nhường nào nếu thiếu màu xanh của cỏ? Hoá ra, những vĩ đại trong cuộc đời này vẫn luôn được đan dệt bởi những điều tưởng như tầm thường, bé mọn như cỏ vậy.
• Khao khát yêu thương: Lời khao khát không réo rắt, hoa mĩ cũng không mãnh liệt, cháy bỏng, ồn ào mà rủ rỉ, thành thực, như có sao nói vậy (Anh chỉ là ngọn cỏ/ Đêm đêm nằm uống sương/ Giọt sương giọt nước mắt/ Em thương anh thì thương...).
(Liên hệ:
+ Thời phong kiến, đấng mày râu nói chí, tỏ lòng rất nhiều:
- Không công danh thà nát với cỏ cây
- Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông
Khẳng hứa càn khôn tự chuyển di
(Làm trai phải lạ ở trên đời
Há để càn khôn tự chuyển dời)
Cỏ vốn thấp
thấp nhất các loài cây
nên chân thường dẫm đạp
Rồi tới ngày chân tự hỏi
cỏ là gì khi nhìn đỉnh núi
nơi chân chưa từng (và có thể
chẳng bao giờ chạm tới)
cỏ đã xanh ngạo nghễ ngàn đời
Và chân nhớ tới những cuộc tiễn đưa
người thân, sơ, bạn bè, và cả những sơ sài về đất
theo cách thông thường hay trang trọng nhất
cỏ lại lặng lẽ xanh đắp ấm những kiếp người
Vậy cỏ là gì
chân là gì
ai dẫm đạp, ai cưu mang
Ai?)
- Vài nét sơ lược về nhà thơ Bùi Hoàng Tám: Bùi Hoàng Tám được nhiều người biết đến với những bài thơ hài hước dân dã, thoạt nghe tưởng chỉ là giai thoại. Nhưng đằng sau tiếng cười của anh luôn phảng phất một nỗi niềm nhân thế cảm động và thấm thía. Dường như người - đàn - ông - thơ trong Bùi Hoàng Tám đã trải qua, thấu hiểu những mất mát ở đời cũng như niềm vui đang hiện hữu chỉ là tạm thời, chỉ có tình người và tình yêu mới là vĩnh cửu (Hữu Việt)
- Cảm nhận về hình tượng nhân vật trữ tình trong bài thơ Phác thảo cỏ:
+ Nhân vật trữ tình trong bài thơ: “anh” - một người đàn ông.
+ Người đàn ông tự nhận mình là ngọn cỏ bé mọn, khiêm nhường, giản dị, đời thường. Điệp khúc Anh chỉ là ngọn cỏ lặp lại ba lần và xuyên suốt bài thơ khiến lời thơ vừa như lời tự nhủ vừa như lời xác quyết về tính chất giản dị, bình thường của bản thân. Song ngọn cỏ ấy bình thường mà không tầm thường. Ngọn cỏ vẫn ngày hằng sống ngày hằng xanh những phẩm chất đẹp đẽ:
• Khao khát gắn bó, gắn kết với cuộc đời: Đan vào nhau mà sống/ Kết vào nhau làm vui. Các động từ đan, kết mô tả hành động tích cực nhằm kiến tạo nên sự sống đích thực (mà sống, mà vui).
• Nỗ lực không ngừng trong hành trình sống, luôn tự lực, chắt chiu sự sống: Tự anh nhận ánh sáng/ Tự anh che cho anh/ Tự anh hút mật đất nhưng không để vị kỉ mà để vị tha (Mà xanh cho trời xanh). Điệp từ tự kết hợp cùng cấu trúc lặp (Tự anh + động từ...) tô đậm nỗ lực tự thân cùng khát vọng dâng hiến tuyệt vời cho sự sống, cho cuộc đời của “anh”.
• Nhận thức sâu sắc về giá trị của bản thân: Nhưng em ơi vắng cỏ/ Lấy gì xanh núi non. Một giả định được đặt ra (nếu vắng cỏ) gắn liền với câu hỏi tu từ (Lấy gì xanh núi non) biến lời thơ trở thành lời tự khẳng định (dù rất khiêm nhường) về đóng góp bé nhỏ của bản thân với cuộc đời. Núi non kia lớn lao, kì vĩ thực nhưng sẽ hoang vu, xơ xác nhường nào nếu thiếu màu xanh của cỏ? Hoá ra, những vĩ đại trong cuộc đời này vẫn luôn được đan dệt bởi những điều tưởng như tầm thường, bé mọn như cỏ vậy.
• Khao khát yêu thương: Lời khao khát không réo rắt, hoa mĩ cũng không mãnh liệt, cháy bỏng, ồn ào mà rủ rỉ, thành thực, như có sao nói vậy (Anh chỉ là ngọn cỏ/ Đêm đêm nằm uống sương/ Giọt sương giọt nước mắt/ Em thương anh thì thương...).
(Liên hệ:
+ Thời phong kiến, đấng mày râu nói chí, tỏ lòng rất nhiều:
- Không công danh thà nát với cỏ cây
- Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông
(Nguyễn Công Trứ)
- Sinh vi nam tử yếu hi kìKhẳng hứa càn khôn tự chuyển di
(Làm trai phải lạ ở trên đời
Há để càn khôn tự chuyển dời)
(Phan Bội Châu)
+ Người đàn ông trong thơ ca hiện đại không phải ai cũng bàn chuyện “kinh bang tế thế”, họ thường đi sâu vào con người cá nhân để phơi trải những nghĩ suy thành thực song vẫn đáng trân quý, như Bùi Hoàng Tám đã thể hiện trong Phác thảo cỏ, hay như Hữu Việt trong Cỏ: Cỏ vốn thấp
thấp nhất các loài cây
nên chân thường dẫm đạp
Rồi tới ngày chân tự hỏi
cỏ là gì khi nhìn đỉnh núi
nơi chân chưa từng (và có thể
chẳng bao giờ chạm tới)
cỏ đã xanh ngạo nghễ ngàn đời
Và chân nhớ tới những cuộc tiễn đưa
người thân, sơ, bạn bè, và cả những sơ sài về đất
theo cách thông thường hay trang trọng nhất
cỏ lại lặng lẽ xanh đắp ấm những kiếp người
Vậy cỏ là gì
chân là gì
ai dẫm đạp, ai cưu mang
Ai?)
Câu 7 [706191]: (4,0 điểm)
Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) trả lời câu hỏi: Tôi là ai?.
Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) trả lời câu hỏi: Tôi là ai?.
Bài văn nghị luận trả lời cho câu hỏi: Tôi là ai? có thể được triển khai nhiều cách. Song cần bảo đảm các ý:
1. Mở bài (gián tiếp)
- Dẫn dắt vấn đề
- Nêu vấn đề
Ví dụ: Mỗi chúng ta ngay từ khi sinh ra đã được trao cho một cuộc đời. Và hành trình sống cuộc đời ấy sẽ xác lập câu trả lời cho câu hỏi: Tôi là ai?.
2. Thân bài
- Giải thích ngắn gọn ý nghĩa câu hỏi Tôi là ai?:
+ Tôi là ai? là lời mỗi người (có thể) tự hỏi chính bản thân mình, có ý nghĩa xác lập một định nghĩa về con người cá nhân.
+ Lời đáp cho câu hỏi này chỉ có thể do chính mỗi chúng ta tìm ra. Lời đáp có ý nghĩa nhất sẽ xác lập sự tồn tại của một con người với hai giá trị:
• “Tôi” là một bản thể có cá tính, có màu sắc riêng, không giống bất kì ai trong cuộc đời này;
• Sự tồn tại của “tôi” mang lại ý nghĩa cho cuộc đời này.
- Bàn luận về lời đáp có ý nghĩa của câu hỏi Tôi là ai?:
+ Tôi là chính tôi, là bản thể duy nhất trong vũ trụ: Về cơ bản, mỗi chúng ta là một bản thể tồn tại độc lập, có ngoại hình, lời nói, giọng nói, cử chỉ, hành động, tâm tư, suy nghĩ độc lập,... Ngay cả trường hợp song sinh thì hai cá thể cũng chỉ giống nhau ở hình thức bên ngoài (tất nhiên vẫn có nét khu biệt trong hình thức). Hoặc khi khi thần tượng một ai đó, nhiều người có xu hướng bắt chước, học theo phong cách của thần tượng, song thực tế sự trùng lắp hoàn toàn không bao giờ xảy ra. Mỗi chúng ta rõ ràng là một bản thể, không có bản sao nguyên xi dù chúng ta là ai đi chăng nữa. Vũ trụ này chỉ có duy nhất một Albert Enstein, một Thomas Edison, một Leonardo da Vinci, một Johann Bach, một Michael Jackson,... một bạn, một “tôi”.
+ Song dẫu “tôi” là bản thể nào đi chăng nữa thì sự tồn tại của “tôi” chỉ thực sự ghi dấu ấn vào vũ trụ khi và chỉ khi “tôi” biết tạo nên, biết đóng góp những điều tốt đẹp: một tấm lòng nhân hậu để biết yêu thương, sẻ chia với những nỗi đau khổ trong cuộc đời; một tâm hồn lãng mạn đủ để biết rung động trước cái đẹp; một tinh thần cứng cỏi đủ để không khuất phục trước cái xấu, cái ác; một trí tuệ minh mẫn để góp sức dựng xây cuộc đời tươi đẹp;... Và bởi thế, dù “tôi” là tổng thống của một quốc gia hùng mạnh trên thế giới hay một công nhân xén cỏ, dù “tôi” là một vĩ nhân kiệt xuất hay chỉ là một công nhân lao động bình thường, miễn là tử tế, lương thiện, “tôi” sẽ hoàn toàn là chính tôi.
- Để được là chính mình, để sống có ý nghĩa trong cuộc đời này, mỗi chúng ta cần:
+ Trân trọng bản thân, sống là chính mình; tôn trọng mọi người.
+ Trân quý những điều tốt đẹp, noi theo và lan toả những điều tốt đẹp trong cuộc đời...
3. Kết bài
Rút ra bài học nhận thức và hành động
- Hạnh phúc nhất đối với mỗi con người này là được sống là chính mình, được dâng hiến những gì mình có để vun đắp cho vườn hoa cuộc đời mỗi ngày một tươi đẹp.
- Liên hệ điệp khúc trong nhạc phẩm Tôi ơi đừng tuyệt vọng của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn:
Tôi là ai mà còn ghi dấu lệ?
Tôi là ai mà còn trần gian thế?
Tôi là ai, là ai, là ai
Mà yêu quá đời này?
1. Mở bài (gián tiếp)
- Dẫn dắt vấn đề
- Nêu vấn đề
Ví dụ: Mỗi chúng ta ngay từ khi sinh ra đã được trao cho một cuộc đời. Và hành trình sống cuộc đời ấy sẽ xác lập câu trả lời cho câu hỏi: Tôi là ai?.
2. Thân bài
- Giải thích ngắn gọn ý nghĩa câu hỏi Tôi là ai?:
+ Tôi là ai? là lời mỗi người (có thể) tự hỏi chính bản thân mình, có ý nghĩa xác lập một định nghĩa về con người cá nhân.
+ Lời đáp cho câu hỏi này chỉ có thể do chính mỗi chúng ta tìm ra. Lời đáp có ý nghĩa nhất sẽ xác lập sự tồn tại của một con người với hai giá trị:
• “Tôi” là một bản thể có cá tính, có màu sắc riêng, không giống bất kì ai trong cuộc đời này;
• Sự tồn tại của “tôi” mang lại ý nghĩa cho cuộc đời này.
- Bàn luận về lời đáp có ý nghĩa của câu hỏi Tôi là ai?:
+ Tôi là chính tôi, là bản thể duy nhất trong vũ trụ: Về cơ bản, mỗi chúng ta là một bản thể tồn tại độc lập, có ngoại hình, lời nói, giọng nói, cử chỉ, hành động, tâm tư, suy nghĩ độc lập,... Ngay cả trường hợp song sinh thì hai cá thể cũng chỉ giống nhau ở hình thức bên ngoài (tất nhiên vẫn có nét khu biệt trong hình thức). Hoặc khi khi thần tượng một ai đó, nhiều người có xu hướng bắt chước, học theo phong cách của thần tượng, song thực tế sự trùng lắp hoàn toàn không bao giờ xảy ra. Mỗi chúng ta rõ ràng là một bản thể, không có bản sao nguyên xi dù chúng ta là ai đi chăng nữa. Vũ trụ này chỉ có duy nhất một Albert Enstein, một Thomas Edison, một Leonardo da Vinci, một Johann Bach, một Michael Jackson,... một bạn, một “tôi”.
+ Song dẫu “tôi” là bản thể nào đi chăng nữa thì sự tồn tại của “tôi” chỉ thực sự ghi dấu ấn vào vũ trụ khi và chỉ khi “tôi” biết tạo nên, biết đóng góp những điều tốt đẹp: một tấm lòng nhân hậu để biết yêu thương, sẻ chia với những nỗi đau khổ trong cuộc đời; một tâm hồn lãng mạn đủ để biết rung động trước cái đẹp; một tinh thần cứng cỏi đủ để không khuất phục trước cái xấu, cái ác; một trí tuệ minh mẫn để góp sức dựng xây cuộc đời tươi đẹp;... Và bởi thế, dù “tôi” là tổng thống của một quốc gia hùng mạnh trên thế giới hay một công nhân xén cỏ, dù “tôi” là một vĩ nhân kiệt xuất hay chỉ là một công nhân lao động bình thường, miễn là tử tế, lương thiện, “tôi” sẽ hoàn toàn là chính tôi.
- Để được là chính mình, để sống có ý nghĩa trong cuộc đời này, mỗi chúng ta cần:
+ Trân trọng bản thân, sống là chính mình; tôn trọng mọi người.
+ Trân quý những điều tốt đẹp, noi theo và lan toả những điều tốt đẹp trong cuộc đời...
3. Kết bài
Rút ra bài học nhận thức và hành động
- Hạnh phúc nhất đối với mỗi con người này là được sống là chính mình, được dâng hiến những gì mình có để vun đắp cho vườn hoa cuộc đời mỗi ngày một tươi đẹp.
- Liên hệ điệp khúc trong nhạc phẩm Tôi ơi đừng tuyệt vọng của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn:
Tôi là ai mà còn ghi dấu lệ?
Tôi là ai mà còn trần gian thế?
Tôi là ai, là ai, là ai
Mà yêu quá đời này?